DIỄN ĐÀN
XÂY DỰNG ĐÔ THỊ VỆ TINH
NHÌN TỪ THỰC TIỄN TP.HCM
PHẠm NGỌc HÒA
T
P.HCM có tuổi đời hơn 300 năm, từ những bến đò, xóm nhỏ ven sông trở thành đô thò buôn bán
trên bến dưới thuyền… Thành phố đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau về điều kiện kinh
tế, chính trò, xã hội. Và ngày nay thành phố là một “siêu đô thò” với gần 10 triệu dân sinh sống, có
nền kinh tế công nghiệp, dòch vụ phát triển bậc nhất của cả nước. Trước xu thế phát triển của đô thò hiện
đại trên thế giới và để giải quyết những vấn đề bất cập của đô thò như: ùn tắc giao thông, ngập nước, ô
nhiễm môi trường… TP.HCM đang tập trung xây dựng đô thò vệ tinh nhằm hướng tới xây dựng thành phố
có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghóa tình, xứng đáng là thành phố mang tên Chủ tòch Hồ Chí
Minh – Thành phố Anh hùng.
Xây dựng đô thò vệ tinh - Xu hướng phát triển của các nước trên thế giới
Phát triển đô thò vệ tinh là vấn đề đã được nhiều quốc gia thực hiện từ khoảng nửa thế kỷ nay. Ở Việt
Nam, với tốc độ đô thò hóa ngày càng nhanh, hạ tầng tại nhiều khu vực đô thò lõi rơi vào tình trạng quá
tải, nên phát triển đô thò vệ tinh là xu hướng chung mà các đô thò lớn của Việt Nam đang hướng tới. Việc
phát triển đô thò vệ tinh sẽ giải quyết được những áp lực đô thò trung tâm như ô nhiễm môi trường, ùn tắc
giao thông, đặc biệt tạo ra sự đồng đều trong quá trình phát triển giữa các khu vực. TP.HCM đang đứng
trước những áp lực về gia tăng dân số, ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường…, cho nên việc
xây dựng các đô thò vệ tinh được xem là vấn đề tất yếu, tạo ra sự giãn nở cho hệ thống hạ tầng và phân
bố lại lượng dân cư cho thành phố.
Khái niệm “đô thò vệ tinh” ra đời từ ý tưởng của nhà quy hoạch đô thò nổi tiếng người Anh E-be-ne-dơ Hô-uốt
năm 1898 với tên gọi “thành phố vườn”. E-be-ne-dơ Hô-uốt chủ trương xây dựng một thành phố nhỏ - tức
“thành phố vườn” hay “thành phố công viên” có phong cảnh tươi đẹp ở khu vực nông thôn. Đến năm 1918,
lần đầu tiên thuật ngữ đô thò vệ tinh được đưa vào sử dụng. Năm 1922, kiến trúc sư người Anh Ray-môn
Ăn-uyn (Raymond Unwin) đưa ra mô hình đô thò vệ tinh. Dựa trên mô hình của E. Hô-uốt, nhưng mô hình
này bố trí rõ ràng hơn các chức năng của đô thò ở khu trung tâm và các vệ tinh nằm xung quanh. Tuy nhiên,
mô hình này vẫn lặp lại cấu trúc của mô hình đô thò đồng tâm truyền thống, với các chức năng chính nằm
kẹt ở trung tâm, làm hạn chế khả năng phát triển của đô thò trong tương lai. Vấn đề giao thông cũng chưa
được đặt ra một cách rõ ràng. Năm 1924, Hội nghò quốc tế về thành phố được tổ chức tại Am-xtec-đam
(Hà Lan) đã đưa ra ý tưởng xây dựng đô thò vệ tinh và được các nước nhiệt tình hưởng ứng. Đến năm 1956,
52
SË 95+96 . 2018
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Nhật Bản công bố Luật xây dựng vùng thủ đô, nhấn mạnh phát triển
đô thò vệ tinh với quy mô lớn cách Tô-ky-ô 100km. Giữa thập kỷ 50
của thế kỷ XX, Liên Xô đẩy mạnh xây dựng hệ thống đô thò vệ tinh
quanh thủ đô Mát-xcơ-va để khống chế dân số thành phố. Tương
tự như vậy, để hạn chế tình trạng kẹt xe, ngập nước, ô nhiễm môi
trường.., Chính phủ Pháp đã xây dựng một số đô thò vệ tinh quanh
thủ đô Paris. Năm thành phố xây dựng quanh Paris được phát triển
mạnh giao thông công cộng như tàu điện ngầm, metro, tàu mặt đất…
kết nối khu trung tâm. Đặc biệt quanh các trạm metro sẽ phát triển
mạnh đô thò, bất động sản để thu hút đầu tư. Một kinh nghiệm khác
trong xây dựng đô thò vệ tinh đó là Thượng Hải (Trung Quốc) - nơi
đây đã xây dựng được một phố Đông trở thành trung tâm tài chính
của thế giới. Để làm được điều này, chính quyền Trung Quốc đã lập
ra một công ty quản lý, thành phố chỉ bỏ ra 10% tiền ngân sách, còn
lại là vốn từ đất. Đất được cầm ở ngân hàng để lấy tiền giải phóng
mặt bằng. Sau khi có đất sạch, đem đấu giá. Tiền thuế thu được thời
gian đầu được để lại cùng với tiền bán đất dùng để xây dựng thành
phố. Hiện nay với dân số lên đến khoảng 24 triệu người nhưng nơi
đây vẫn ít xảy ra tình trạng kẹt xe, ngập nước nhờ hạ tầng được quy
hoạch và phát triển bài bản ngay từ đầu và áp dụng công nghệ vào
quản lý, vận hành thành phố.
lưu khu vực và quốc tế lớn của cả nước. Trong những năm qua, thành
phố luôn giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của
khu vực Nam Bộ và cả nước. Đặc biệt qua 40 năm xây dựng, phát
triển và hội nhập, TP.HCM đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần
quan trọng vào thành tựu chung của cả nước. Trong đó, kết cấu hạ
tầng đô thò được tập trung đầu tư thích đáng tạo chuyển biến rõ nét.
Nhiều công trình giao thông, cấp nước, thoát nước trọng điểm được
đưa vào khai thác, sử dụng làm tăng khả năng kết nối, phát triển về
phía Đông, Tây và Nam, tạo điều kiện để thành phố có các mối liên
kết vùng, phát triển mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, diện mạo kiến trúc
cảnh quan đô thò có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng kó thuật đô thò
đang từng bước được đầu tư, hoàn chỉnh. Đặc biệt, thành phố đã xuất
hiện nhiều công trình điểm nhấn có giá trò được đầu tư xây dựng, góp
phần tạo nên hình ảnh của một thành phố hiện đại, có đặc tính riêng…
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thế nhưng trong quá
trình phát triển, TP.HCM đang phải đối mặt trước sức ép về qui mô
dân số, lao động, việc làm, nhà ở, dòch vụ hạ tầng đô thò, chất lượng
môi trường suy giảm, di sản kiến trúc đô thò có nguy cơ bò xâm hại,
xuống cấp… Đặc biệt, thành phố cũng đang phải đối mặt với các xu
hướng mang tính toàn cầu như cạnh tranh đô thò và tác động của biến
đổi khí hậu, nước biển dâng… Hiện nay, nhiều khu vực đã bắt đầu bò
ảnh hưởng như quận 7, huyện Nhà Bè, huyện Bình Chánh. Nhưng
có lẽ thách thức lớn nhất chính là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa
không gian đô thò hóa với dân số. Cụ thể là vùng nội đô đã bò quá tải
về sức chứa dân số, kéo theo hàng loạt mặt quá tải khác, trong đó có
những mặt đã trở thành vấn nạn, ảnh hưởng đến đời sống của tất cả
cư dân đô thò như ách tắc giao thông nhiều điểm, ngập nước nhiều
nơi (kể cả lúc không mưa) và tệ nạn xã hội khó kiểm soát. Trước thực
trạng đó, TP.HCM đã và đang triển khai những quy hoạch phát triển
các đô thò vệ tinh bao quanh vùng đô thò lõi. Mục đích xây dựng đô
thò vệ tinh là nhằm đưa TP.HCM trở thành thành phố đa trung tâm,
đa phân khu chức năng để dãn dân ở khu lõi trung tâm nhằm khắc
phục các vấn nạn xã hội, giao thông, ô nhiễm môi trường. Bốn đô thò
vệ tinh của thành phố hiện nay bao gồm:
Thành phố Đông sẽ gồm quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức, có diện
tích 211km2, dân số 890.000 người, lấy khu đô thò mới Thủ Thiêm
làm trung tâm. Vì đô thò này giáp với trục cao tốc TP.HCM - Long
An - Dầu Giây nên được xác đònh có chức năng kinh tế phát triển
các ngành dòch vụ cao cấp (tài chính, tín dụng), công nghệ cao, du
lòch sinh thái...
Hiện nay, đô thò vệ tinh có nhiều chức năng khác nhau nhưng các
nhà khoa học, nhà đô thò học đã thống nhất với nhau ở ba chức năng
cơ bản: (1) - Đô thò có chức năng công nghiệp; (2) - Đô thò để sinh
sống; (3) - Đô thò có chức năng phát triển nghiên cứu khoa học, văn
hóa giáo dục. Nếu xét về vò trí, đô thò vệ tinh có thể chia thành vòng
trong và vòng ngoài. Nếu dựa vào mối liên hệ với đô thò trung tâm, đô
thò vệ tinh có thể chia thành ba loại: mô hình hoàn toàn phụ thuộc; mô
hình nửa độc lập và mô hình hoàn toàn độc lập.
Thực tiễn phát triển đô thò vệ tinh ở TP.HCM
TP.HCM hiện có 24 quận, huyện, với dân số gần 10 triệu người. Là
một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ; đầu mối giao
SË 95+96 . 2018
53
Thành phố Tây gồm toàn bộ quận Bình Tân hiện nay, một phần
phường 7, phường 16 của quận 8 và bốn xã An Phú Tây, Tân Kiên,
Vónh Lộc A, Vónh Lộc B của huyện Bình Chánh, có diện tích 109km2,
dân số 810.000 người, trung tâm là khu đô thò xã Tân Kiên, giáp
quốc lộ 1. Thành phố Tây chủ yếu phát triển các ngành dòch vụ, khu
công nghiệp và khu dân cư nhằm tái bố trí dân cư từ các quận 11,
quận 6, Tân Bình.
Thành phố Nam gồm toàn bộ quận 7, huyện Nhà Bè, một phần
diện tích phường 7 của quận 8 (phần phía Nam rạch Bà Tàng) và
hai xã Bình Hưng, Phong Phú thuộc huyện Bình Chánh, có diện tích
169km2 với quy mô dân số 470.000 người, lấy khu đô thò Nam Sài
Gòn làm trung tâm phát triển (có khu đô thò Phú Mỹ Hưng), thò trấn
Nhà Bè và đặc biệt là khu đô thò cảng Hiệp Phước với chức năng
phát triển công nghiệp, dòch vụ cảng.
Thành phố Bắc gồm toàn bộ quận 12, huyện Hóc Môn, có diện tích
162km2, có dân số 860.000 người, trung tâm phát triển là xã Tân
Thới Nhì với hành lang phát triển là quốc lộ 22, có chức năng phát
triển kinh tế dòch vụ, du lòch sinh thái gắn với nông nghiệp công nghệ
cao và phát triển các khu dân cư phục vụ việc giãn dân, chỉnh trang
đô thò quận Gò Vấp, Tân Bình.
TP.HCM xây dựng đô thò vệ tinh tập trung vào 2 hướng chính là phía
Đông và phía Nam, hướng phụ là Tây Bắc và Tây Nam. Tuy nhiên,
đây mới chỉ là kết nối trong nội vi với nhau, thực tiễn cho thấy các đô
thò vệ tinh này cần điều chỉnh nhằm kết nối với các vùng, tỉnh thành
khác trong cả nước. Theo đó, ưu tiên phát triển theo đònh hướng giao
thông công cộng, điều tiết dân số, phân bố dân cư và nhà ở. Khi điều
chỉnh quy hoạch chung sẽ tích hợp quản lý rủi ro ngập lụt, phát triển
đô thò thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các đô thò vệ tinh ở thành phố đang dựa trên các lợi thế, nguồn lực
tự thân và sự tác động của cấu trúc không gian vùng TP.HCM và
các mối quan hệ quốc gia, quốc tế có liên quan. Đô thò vệ tinh ở
thành phố chủ yếu phát triển theo mô hình đa trung tâm dựa trên cơ
sở phát triển hệ thống khung giao thông vận tải vùng và giao thông
công cộng, đảm bảo việc kết nối các tỉnh, thành phố, các vùng chức
năng, các trung tâm động lực chính trong vùng và phụ cận, đảm bảo
việc đi lại thuận tiện, an toàn, văn minh cho người dân trong thành
phố và vùng phụ cận. Với tư cách là đô thò trung tâm vùng, cấu trúc
không gian TP.HCM được lấy cảm hứng từ việc khai thác tốt lợi thế
điều kiện tự nhiên với yếu tố mặt nước (sông, kênh, rạch, biển) làm
điểm tựa, hướng tới cấu trúc thành phố sông - nước. Trong đó lấy
sông Sài Gòn, sông Nhà Bè làm trục không gian mặt nước chính.
Đây là trục không gian đặc thù sông nước/kênh rạch, gắn trung tâm
thành phố cũ, trung tâm thành phố mới (khu vực Thủ Thiêm) với các
trung tâm khu vực (các quận) và các khu vực cảnh quan sinh thái
(Thủ Đức, Thủ Thiêm, Cần Giờ…) và trục không gian hướng biển
(trục hành lang Đông - Tây) gắn các cửa ngõ giao lưu quốc tế về
đường bộ, đường hàng không và đường biển. Như vậy, không gian
đô thò vệ tinh của thành phố bao gồm: Thứ nhất, vùng phát triển đô
thò (trong đó gồm khu nội thành cũ, khu nội thành phát triển, các khu
đô thò mới…). Thứ hai, vùng phát triển công nghiệp. Thứ ba, vùng
sinh thái, du lòch nghỉ dưỡng, vùng nông nghiệp, vùng bảo tồn thiên
nhiên. Các vùng phát triển này được kết nối với nhau thông qua hệ
54
SË 95+96 . 2018
khung giao thông chính, các trục không gian đặc thù sông nước
(kênh rạch) và trục không gian hướng biển… Với trung tâm tổng hợp
tại khu vực nội thành cũ và các trung tâm cấp vùng, cấp thành phố
tại bốn hướng phát triển.
Để xây dựng đô thò vệ tinh, TP.HCM bắt đầu nghiên cứu xây dựng
mô hình chính quyền đô thò và đã đề xuất mô hình tập trung quản lý
ở cấp thành phố (người đứng đầu chính quyền đô thò có toàn quyền
quyết đònh với các vấn đề quan trọng của đô thò). Theo đó, mô hình
chính quyền đô thò ở TP.HCM có hai cấp: chính quyền thành phố
(gồm 13 quận nội thành là đô thò trung tâm) và chính quyền cơ sở
(gồm bốn đô thò vệ tinh là các thành phố Đông, Tây, Nam, Bắc và
3 thò trấn, 35 xã khu vực nông thôn). Tất nhiên, để xây dựng được
mô hình chính quyền đô thò như thành phố đề xuất thì các Nghò đònh
hướng dẫn Luật tổ chức chính quyền đòa phương cần trao cho đòa
phương quyền tự chủ nhiều hơn nữa (trong mọi lónh vực quản lý).
Nhìn lại quy hoạch bốn khu đô thò vệ tinh của thành phố thời gian
qua chúng ta thấy, so với khái niệm “đô thò vệ tinh” (đã lạc hậu) cũng
không đúng vì cả bốn khu vực vẫn nằm trong các quận, huyện của
TP.HCM và quá gần trung tâm nên hầu như không có chức năng “vệ
tinh”. Tóm lại các khu đó không phải là đô thò vệ tinh mà thực chất là
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
mở rộng không gian đô thò về bốn hướng, tức là đô thò hoá các vùng nông thôn còn lại và
thành phố sẽ trở thành “siêu đô thò” cả về quy mô và dân số. Tuy nhiên, mô hình này đã
bộc lộ quá nhiều nhược điểm vì nó không tránh được sự quá tải toàn diện, nên xu hướng
của thế giới ngày nay là tránh trở thành “siêu đô thò”. Do vậy, việc tìm ra giải pháp phù hợp
cho đô thò vệ tinh ở TP.HCM hiện nay rất quan trọng.
Một số giải pháp nhằm phát triển đô thò vệ tinh ở TP.HCM theo
hướng bền vững
Trước hết, chính quyền thành phố cần có một tầm nhìn chiến lược trong tái cấu trúc mô hình
tăng trưởng kinh tế, cũng như cần có một ý tưởng đột phá trong quy hoạch tổ chức không
gian. Bên cạnh đó, thành phố cần khai thác tích cực các lợi thế về vò trí, vai trò, vò thế trong
mối quan hệ vùng, các đặc điểm nổi bật về điều kiện tự nhiên, hạ tầng kinh tế, kó thuật, xã
hội, cơ chế chính sách để đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các lợi thế về đầu mối giao lưu
quốc tế với những cửa ngõ đường hàng không, đường biển, dòch vụ, công nghệ, thương
mại, tài chính, ngân hàng, giáo dục, đào tạo; các lợi thế so sánh và cạnh tranh quốc gia, khu
vực Đông Nam Á và quốc tế trong bối cảnh kinh tế thò trường, hội nhập và toàn cầu hóa…
Hai là, trong quy hoạch kiến trúc cảnh quan, thành phố cần đề cao các yếu tố đặc thù thể
hiện tính hiện đại, dân tộc, trên cơ sở khai thác có hiệu quả các yếu tố lòch sử văn hóa,
tinh hoa kiến trúc truyền thống có giá trò, kết hợp hài hòa có chọn lọc với tinh hoa kiến trúc
đương đại. Bên cạnh đó, khi xây dựng các khu vực đô thò vệ tinh mới, kiến trúc công trình
phải phát triển theo xu hướng kiến trúc hiện đại phù hợp với khí hậu nhiệt đới, kiến trúc
xanh, tiết kiệm năng lượng, hài hòa với thiên nhiên nhằm bảo vệ môi trường, nâng cao chất
lượng không gian sống của người dân đô thò.
Ba là, cần tiếp tục hoàn thiện, phát triển khu đô thò mới Thủ Thiêm, để đưa đô thò này trở
thành trung tâm tài chính quốc tế. Phát triển đô thò thông minh, sáng tạo ở quận Thủ Đức nơi cung cấp nguồn nhân lực, quận 9 phát triển khu công nghệ cao, quận 2 là môi trường
để phát triển thương mại. Phát triển đô thò sinh thái ở huyện Cần Giờ, đô thò cảng ở quận 9,
quận 2 và huyện Nhà Bè. Phát triển đô thò giáo dục ở Tây Bắc. Mặt khác, thành phố cần
đồng hành cùng doanh nghiệp, sẵn sàng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hoàn thiện
chính quyền điện tử để giảm phiền hà, chi phí cho người dân và nhà đầu tư.
Bốn là, việc quản lý đô thò không chỉ dừng lại trong nội vi của thành phố, mà còn phải xem
xét đến mối tương quan với các mức độ quản lý của các tỉnh, thành lân cận. TP.HCM cần
quan tâm thực hiện đầu tư quy hoạch đô thò theo kế hoạch đã được xác lập, nhằm giảm
áp lực hiện tại cho thành phố, đồng thời tạo khả năng kết nối giao thông thuận tiện giữa đô
thò hạt nhân và đô thò vệ tinh. Để xây dựng đô thò vệ tinh được thành công, TP.HCM phải
coi trọng quản lý đô thò.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Duy Anh và nhóm tác giả (2013), Quy hoạch đô thò: không chỉ là bản vẽ, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của
Tạp chí Cộng sản), số 267, ngày 22-11-2013.
2. Tuệ An (2017), Đúng hướng để phát triển bền vững, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), số
345, ngày 25-2-2017.
3. Quang Chung (2017), Pháp luật và chính quyền đô thò, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 15, 13-4-2017.
4. Nguyễn Thành Phong (2016), TP.HCM phấn đấu sớm trở thành một trung tâm lớn về kinh tế, tài chính,
thương mại, khoa học – công nghệ của khu vực Đông Nam Á, Tạp chí Cộng sản (Chuyên đề cơ sở), Số 115
(7-2016).
5. Tường Lâm (2008), Thành phố vệ tinh: giải pháp hữu hiệu cho đô thò hiện đại, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san
của Tạp chí Cộng sản), số 45, ngày 10-10-2008.
6. Công Minh và nhóm tác giả (2017), Di sản – Hồn đô thò, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản),
số 345, ngày 25-2-2017.
7. Văn Nam (2017), Giữ “vành đai xanh” cho TP.HCM, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 29, 20-7-2017.
8. Lê Ngân (2018), Phải đẩy mạnh cơ chế vùng để giảm áp lực cho Thành phố, Báo Công an TP.HCM, số
3796, ngày 12-10-2018.
9. Đình Sơn (2018), giảm kẹt xe, ngập bằng đô thò vệ tinh, Báo Thanh niên, số 304, ngày 31-10-2018.
10. Trần Vónh Tuyến (2018), Cam kết giảm chi phí “đen” cho doanh nghiệp, Báo Thanh niên, số 304, ngày
31-10-2018.
SË 95+96 . 2018
55