Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Quy hoạch xây dựng TP. HCM như thế nào khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.25 KB, 4 trang )

din Đàn

Quy hoạch xây dựng TP. hcM như Thế nào khi
Luật Quy hoạch có hiệu Lực thi hành

Vin Quy hoạch xây dựng TP.hcM

216 Nguyễn Đình Chiểu, phường 6, quận 3, TP.HCM

Luật Quy hoạch có nội dung và điểm gì mới?

Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2017, có hiệu lực từ ngày
01/01/2019. Luật Quy hoạch quy đònh việc lập, phê duyệt, công bố, điều chỉnh quy hoạch trong hệ thống
quy hoạch quốc gia. Một số nội dung nổi bật trong Luật Quy hoạch là:
n Tư duy tích hợp, chồng các quy hoạch lên nhau để hạn chế việc điều chỉnh quy hoạch tùy tiện, dễ dàng
dẫn đến phá vỡ quy hoạch mà trong thực tiễn đã từng xảy ra.
n Một trong những điểm nổi bật của Luật Quy hoạch là việc quy đònh các hành vi bò nghiêm cấm trong hoạt
động quy hoạch nhằm hạn chế tối đa các tiêu cực trong quy hoạch.
n Thực trạng Quy hoạch thay đổi theo nhiệm kỳ, không đồng nhất, thiếu tính kết nối, tạo thành một lực cản

cho sự phát triển của từng đòa phương và cả nước đã được khắc phục những hạn chế tại Điều 4 Luật Quy
hoạch, quy đònh trong hoạt động quy hoạch phải tuân thủ những nguyên tắc thống nhất bảo đảm tính liên
tục, kế thừa, ổn đònh, đồng bộ.

n Theo quy đònh tại Điều 19 Luật Quy hoạch, khi lập quy hoạch, cơ quan lập quy hoạch phải lấy ý kiến của

các cơ quan, tổ chức liên quan và đối tượng chòu sự tác động của quy hoạch.

n Việc điều chỉnh quy hoạch không làm thay đổi mục tiêu của quy hoạch, được thực hiện khi có một trong
các căn cứ do:
q Có sự điều chỉnh mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành, lónh vực


làm thay đổi mục tiêu của quy hoạch;
q Có sự điều chỉnh của quy hoạch cao hơn làm thay đổi nội dung quy hoạch hoặc có sự mâu thuẫn với
quy hoạch cùng cấp;
q Có sự thay đổi, điều chỉnh đòa giới hành chính làm ảnh hưởng đến tính chất, quy mô không gian lãnh thổ
của quy hoạch;

34

SË 99 . 2019


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

q Do tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu, chiến tranh làm thay đổi

mục tiêu, đònh hướng, tổ chức không gian lãnh thổ của quy hoạch;
q Do biến động bất thường của tình hình kinh tế - xã hội làm hạn chế
nguồn lực thực hiện quy hoạch;
q Do sự phát triển của khoa học, công nghệ làm thay đổi cơ bản việc
thực hiện quy hoạch;
q Do yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Những mặt được và sự kỳ vọng ở Luật Quy hoạch

Hiện nay, do thiếu cơ chế phối hợp, thiếu quy đònh thống nhất về
pháp lý nên quy hoạch các cấp chồng chéo, cùng một ngành nhưng
có nhiều quy hoạch được lập, mỗi quy hoạch lại đề ra một chỉ tiêu
khác nhau gây khó khăn, tốn kém trong quá trình thực hiện. Luật quy
hoạch ra đời với kỳ vọng sẽ thống nhất sự sắp xếp lại toàn bộ các loại
quy hoạch trên toàn quốc. Hạn chế đến mức thấp nhất sự cắt khúc,

chồng chéo của các loại quy hoạch ngành, lónh vực, sản phẩm, xóa
bỏ tình trạng ngành nào biết ngành đó.

n

n Giảm được chi phí lập từ trên 8.000 loại quy hoạch các cấp với
20.000 đồ án quy hoạch, giảm chi cho ngân sách nhà nước.
n Luật Quy hoạch khi thực hiện sẽ đơn giản hồ sơ thủ tục cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong đầu tư sản xuất kinh doanh,
thực hiện các công trình, dự án vì các loại quy hoạch còn giữ lại sẽ
được tích hợp chung vào một bộ dữ liệu quy hoạch của tỉnh và được
công khai rộng rãi để người dân được biết. Khi có nhu cầu thực hiện
dự án thì nếu phù hợp với quy hoạch tỉnh là sẽ được phê duyệt, thay
vì phải mất nhiều thời gian, chi phí lập hồ sơ, chờ các Sở, ngành đòa
phương phê duyệt quy hoạch và có thể có nhiều rủi ro, mất đi các cơ
hội trong đầu tư mở rộng sản xuất.
n Tiết kiệm được nguồn nhân lực, thời gian lập, thẩm đònh, phê duyệt,
triển khai thực hiện quy hoạch. Số lượng các loại quy hoạch ở các
cấp quốc gia, tỉnh sẽ giảm rất nhiều, (quy hoạch cấp quốc gia giảm
từ 270 còn 41 loại, quy hoạch cấp vùng giảm từ 76 còn 6, quy hoạch
cấp tỉnh giảm từ 3.308 còn 63, bỏ khoảng hơn 700 quy hoạch tổng
thể cấp huyện).

Hiệu lực của Luật bắt đầu từ 1/1/2019, Nghò đònh 37/2019/NĐ-CP
ban hành 7/5/2019, đến nay mới được 6 tháng nên chưa thể đánh
giá được hết ưu và khuyết điểm. Giai đoạn sắp tới khi triển khai Luật
Quy hoạch trong thực tế sẽ thấy rõ những mục tiêu đạt được cũng
như những điểm hạn chế cần phải điều chỉnh.

Hiệu quả của Luật Quy hoạch, những vấn đề nảy

sinh, vướng mắc

Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua vào ngày 24 tháng 11
năm 2017 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2019 nhưng phải đến
7/5/2019, Chính phủ mới ban hành Nghò đònh số 37/2019/NĐ-CP
quy đònh chi tiết một số điều của Luật Quy hoạch. Vẫn cần các
Thông tư hướng dẫn cụ thể sau đó, nghóa là Luật vẫn chưa hoàn
chỉnh, chưa thể triển khai trong thực tế. Mặt khác theo Điều 6 của
Luật Quy hoạch quy đònh về mối quan hệ giữa các loại quy hoạch
phải tuân thủ thì hiện nay vẫn chưa tổ chức lập, phê duyệt quy hoạch
tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển, quy hoạch sử dụng
đất quốc gia, như vậy các quy hoạch cấp dưới sẽ triển khai và cụ thể

hóa như thế nào?
Nguyên tắc tích hợp phải từ các quy hoạch bên dưới: tích hợp từ quy
hoạch tỉnh để lập quy hoạch vùng và từ đó mới lập quy hoạch quốc gia
được. Tuy nhiên muốn lập các quy hoạch bên dưới thì căn cứ để lập
là phải dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia được phê duyệt.
Chính vì mối quan hệ xoay vòng này mà hiện nay tất cả quy hoạch
bên dưới đang phải dừng lại. Trong khi quy hoạch mới chưa được ban
hành thì đã quy đònh bãi bỏ quy hoạch cũ, nhưng quy đònh chuyển
tiếp tại Luật Quy hoạch chưa đầy đủ nên không thể thực hiện được.
Việc Luật Quy hoạch có hiệu lực từ 1/1/2019 và các Luật Quy hoạch
chuyên ngành hết hiệu lực từ thời điểm này trong khi các quy hoạch
thực hiện theo Luật Quy hoạch mới chưa có đã gây khó khăn cho
nhiều dự án. Nhiều quy hoạch đã lập xong nhưng không thể điều
chỉnh bổ sung và phê duyệt theo quy đònh của pháp luật chuyên
ngành mà phải trình thủ tục mới theo Luật Quy hoạch nên đã gây ách
tắc ảnh hưởng đến đầu tư phát triển.
Theo báo cáo của Văn phòng Chính phủ, đến gần giữa tháng 4/2019,

cả nước đã có khoảng 39 quy hoạch ngành quốc gia, 63 quy hoạch
tỉnh chưa thể triển khai do chưa có hướng dẫn cụ thể. Cùng với đó là
khoảng 25 quy hoạch các ngành như quy hoạch xây dựng vùng, tỉnh;
quy hoạch khoáng sản; quy hoạch điện lực; quy hoạch cấp nước của
các vùng kinh tế trọng điểm không thể ban hành; 368 dự án đầu tư
sản xuất công nghiệp không thể triển khai vì vướng quy hoạch, tập
trung ở các dự án lưới điện, điện mặt trời, các dự án xử lý rác thải điện.
Hiện chưa có hướng dẫn quy hoạch nào tiếp tục triển khai thực hiện,
quy hoạch nào sẽ bò loại bỏ hoặc tích hợp vào quy hoạch chung, các
quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dòch vụ, sản phẩm cụ thể,
ấn đònh khối lượng, số lượng hàng hóa, dòch vụ, sản phẩm được sản
xuất tiêu thụ… sẽ được xử lý như thế nào. Do đó, trong thời gian tới
các ngành có thể sẽ gặp khó khăn trong việc thẩm đònh hồ sơ, quyết
đònh chủ trương đầu tư với những dự án phù hợp quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch xây dựng nhưng không phù hợp quy hoạch ngành.
Ngoài ra, việc các Bộ chưa trình Chính phủ ban hành 6 Nghò đònh
hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật
có liên quan đến quy hoạch đã gây khó khăn trong việc triển khai lập
các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành.
Nghò đònh 37/2019/NĐ-CP tuy đã ban hành nhưng vẫn chưa giải
quyết những nút thắt. Có một số quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch
vùng, quy hoạch tỉnh đã được lập trước khi Nghò đònh 37 ban hành
nhưng lại không được lập đúng theo hướng dẫn chi tiết về nội dung,
trình tự, nhiệm vụ lập quy hoạch, việc lấy ý kiến quy hoạch và thẩm
đònh quy hoạch theo như Nghò đònh 37. Nếu phải tổ chức lập lại các
quy hoạch nói trên theo quy đònh của Nghò đònh 37 sẽ lãng phí nguồn
lực và kéo dài thời gian lập quy hoạch.
Do các quy hoạch được lập trước đây có sự khác biệt cơ bản với hệ
thống quy hoạch quốc gia và hiện nay chưa có đònh hướng phân
vùng và liên kết vùng để lập quy hoạch vùng nên nếu phải chờ quy

hoạch tổng thể quốc gia được phê duyệt rồi mới lập quy hoạch vùng,
quy hoạch tỉnh thì sẽ không đảm bảo được yêu cầu tiến độ lập cho
giai đoạn 2021-2030.
Luật Quy hoạch không có quy đònh về trình tự khi điều chỉnh, sửa
SË 99 . 2019

35


đổi quy hoạch. Điều 54 của Luật Quy hoạch quy đònh trình tự, thủ
tục điều chỉnh quy hoạch được thực hiện như đối với lập, thẩm đònh,
phê duyệt quy hoạch mới. Như vậy việc điều chỉnh sẽ phức tạp, qua
nhiều bước, nhiều cấp, mất nhiều thời gian hơn, không đảm bảo sự
chỉ đạo điều hành, phát triển nhất là các dự án đầu tư cấp thiết, cấp
bách trong giai đoạn phát triển nhanh chóng của xã hội. Do đó cần
thiết phải có một quy đònh về điều chỉnh quy hoạch trong giai đoạn
chuyển tiếp khi chưa có quy hoạch quốc gia, vùng, tỉnh mới được
phê duyệt.

Những tác động của Luật quy hoạch đến công tác lập
quy hoạch xây dựng và phát triển đô thò - nông thôn

Luật Quy hoạch ra đời cùng với Luật sửa đổi 37 Luật liên quan đến
Luật Quy hoạch đã có tác động đến Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch
đô thò, đó là việc bố trí nguồn vốn, chọn tư vấn lập quy hoạch, thẩm
đònh, phê duyệt, quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thò: quy hoạch
xây dựng vùng TP.HCM, quy hoạch chung xây dựng thành phố trực
thuộc trung ương, quy hoạch vùng liên huyện, quy hoạch vùng huyện,
quy hoạch khu chức năng đặc thù, quy hoạch nông thôn. Tất cả các
loại quy hoạch trên đều phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp với quy

hoạch tỉnh, quy hoạch vùng và quy hoạch cấp quốc gia.
Tác động của Luật Quy hoạch có thể thấy cụ thể đối với công tác
lập quy hoạch xây dựng ở việc bỏ quy hoạch vùng tỉnh, bỏ giấy phép
quy hoạch và khi lập quy hoạch đô thò loại 2 phải lấy ý kiến của Bộ
Xây dựng.
Bộ Xây dựng đã có Văn bản số 688/BXD-QHKT ngày 05/4/2019
gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc rà soát, tổng hợp các vướng
mắc trong quá trình thực hiện quy đònh chuyển tiếp của Luật Quy
hoạch và Nghò quyết số 74/2018/QH14. Quy hoạch xây dựng, quy
hoạch hệ thống đô thò và nông thôn quốc gia và các quy hoạch có
tính chất kỹ thuật, chuyên ngành cũng trong tình trạng chưa thể
triển khai thực hiện. Theo Luật Quy hoạch, việc lập, điều chỉnh
quy hoạch xây dựng vùng tỉnh đã được bãi bỏ; các quy hoạch xây
dựng vùng tỉnh sẽ được thực hiện cho đến khi quy hoạch tỉnh được
phê duyệt. Do vậy, hiện nay, khi gặp các vấn đề, yếu tố mới phát
sinh trong quá trình triển khai thực hiện, các quy hoạch xây dựng
vùng tỉnh không thể tổ chức điều chỉnh, dẫn tới công tác đánh giá,
phân loại đô thò để cụ thể hóa Chương trình phát triển đô thò toàn
tỉnh không được thực hiện kòp thời. Tương tự, việc lập quy hoạch
xây dựng liên huyện, vùng huyện (để đảm bảo tiêu chí huyện
nông thôn mới) theo quy đònh của Luật Xây dựng gặp khó khăn
do phải chờ quy hoạch tỉnh được phê duyệt để làm cơ sở cụ thể
hóa; các khu chức năng cần hình thành theo nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đòa phương không thể thực hiện. Điều này tác
động tiêu cực, giảm thu hút đầu tư, chậm triển khai thực hiện các
dự án đầu tư xây dựng, ảnh hưởng lớn tới phát triển kinh tế - xã
hội tại các đòa phương.
Công tác rà soát thường xuyên quy hoạch xây dựng là cần thiết
và tất yếu để kòp thời xem xét, điều chỉnh các bất cập do xuất hiện
các yếu tố mới tác động, không thực hiện được hoặc việc triển khai

thực hiện gây ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội, an
sinh xã hội và môi trường... Tuy nhiên, việc quy đònh quy hoạch
chỉ được rà soát đònh kỳ 5 năm để điều chỉnh phù hợp với tình hình

36

SË 99 . 2019

phát triển kinh tế - xã hội tại Điều 52, Luật Quy hoạch sẽ dẫn tới
việc chậm trễ trong rà soát, khó khăn trong công tác điều chỉnh
quy hoạch xây dựng, gây ảnh hưởng lớn tới công tác quản lý, phát
triển đô thò, nông thôn.
Đối với công tác quản lý và phát triển đô thò: do chưa quy hoạch
cấp quốc gia, quy hoạch tỉnh… nên hiện nay các dự án chưa thể
triển khai được. Ngoài ra trong Luật Quy hoạch không có quy đònh
về điều chỉnh cục bộ trong khi nội dung quy hoạch lại tích hợp
nhiều ngành, lónh vực nên rất khó khăn cũng như tốn thời gian khi
cần điều chỉnh dự án.
Nội dung quy hoạch cấp quốc gia, cấp tỉnh sẽ có nội dung chung
tổng thể, thiếu tính cụ thể, đặc trưng riêng của các vùng miền nên sẽ
khó khăn khi lập kế hoạch trung hạn và ngắn hạn.

Đối với đô thò đặc biệt như TP.HCM

Việc tuân thủ tầng bậc của các loại quy hoạch từ trên xuống dưới liệu
có dễ dàng không vì quy hoạch quốc gia làm trước, quy hoạch vùng
làm sau, rồi đến quy hoạch tỉnh. Vậy các quy hoạch của thành phố
trực thuộc trung ương như TP.HCM trước đây bao gồm: Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội được duyệt năm 2013, quy hoạch
sử dụng đất, Quy hoạch chung xây dựng TP.HCM đến năm 2025

được duyệt năm 2010 thì nay sẽ ra sao, đặt ra nhiều vấn đề: sẽ xuất
hiện loại quy hoạch TP.HCM (tương đương quy hoạch tỉnh?) tích
hợp quy hoạch chung xây dựng và các quy hoạch khác? Tồn tại quy
hoạch xây dựng vùng TP.HCM theo Luật Xây dựng và quy hoạch
vùng Thành phố theo Luật Quy hoạch mới? Thành phố còn mấy loại
quy hoạch, loại nào làm trước, loại nào làm sau hay tất cả cùng làm
và làm cho cùng 1 giai đoạn 2021 – 2030?
Nếu lập quy hoạch thành phố theo Luật Quy hoạch thì khối lượng
dữ liệu, thông tin cần tích hợp rất lớn và phức tạp kéo theo quá trình
lập, thẩm đònh, lấy ý kiến phải cần rất nhiều thời gian, thủ tục thỏa
thuận, lấy ý kiến nhiều cấp, đơn vò, ngành, huyện… mà mỗi ngành lại
có đònh hướng, chỉ tiêu riêng, khó khăn khi thống nhất, tích hợp trong
cùng một quy hoạch là điều có thể dự báo trước.
Với bối cảnh thế giới đang phát triển rất nhanh, sự biến động xảy ra
hàng ngày nên có rất nhiều lý do từ thiên tai, dòch bệnh, khí hậu, tình
hình kinh tế, an ninh quốc phòng, khoa học công nghệ đều có thể
làm thay đổi mục tiêu chiến lược, điều chỉnh quy hoạch. Nếu phải
điều chỉnh quy hoạch thì quá trình điều chỉnh chắc chắn cũng tốn
nhiều thời gian và chi phí.
Hàng loạt các quy hoạch xây dựng chức năng đặc biệt, quy hoạch
chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, quy hoạch chuyên
ngành... đang trình thẩm đònh, phê duyệt hoặc sẽ triển khai sẽ xử lý
tiếp tục thế nào trong khi Luật Quy hoạch đô thò (2009) và Luật Xây
dựng (2014) phải điều chỉnh cho phù hợp với Luật Quy hoạch nhưng
hiện nay chưa được Quốc hội thông qua.
Dòng chảy của xã hội và các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, đô
thò là phát triển không ngừng, nếu thiếu quy hoạch thì sẽ gặp vấn đề
lớn về quản lý và phát triển. Đặc biệt đối với thành phố cực lớn như
TP.HCM, đầu tư xây dựng diễn ra rất lớn về quy mô và tiến độ thực



≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

hiện rất nhanh, ảnh hưởng đến toàn vùng và cả nước. Mỗi sự chậm
trễ, ách tắc tại một quy trình nào đó đều làm giảm sức hút đầu tư, gây
thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội, đến quá trình phát triển của thành phố.

Các vấn đề về kỹ thuật

Rất nhiều ngành, lónh vực sẽ phải làm quy hoạch theo dạng tích hợp,
hợp phần quy họach nhưng liệu có dễ dàng không vì mỗi một lónh
vực đều có rất nhiều quy chuẩn, tiêu chuẩn quy đònh về mặt kỹ thuật
rất khác nhau.
Các vấn đề mấu chốt và nội dung quy hoạch cấp quốc gia, cấp vùng
liệu có quy đònh cứng nhắc cho quy hoạch cấp Tỉnh không?

đô thò quốc gia, căn cứ để lập quy hoạch, điều kiện điều chỉnh quy
hoạch đô thò, công bố công khai quy hoạch đô thò, trách nhiệm
công bố công khai quy hoạch đô thò, cung cấp thông tin về quy
hoạch đô thò.

Kiến nghò giải quyết các vấn đề thực tế

Làm rõ một số vấn đề về mối quan hệ, trình tự thực hiện các loại quy
hoạch xây dựng, quy hoạch đô thò trong giai đoạn sắp tới. Với các
quy hoạch mang tính chất kỹ thuật chuyên ngành như quy hoạch xây
dựng thì cần rà soát cụ thể, tỉ mỉ những vướng mắc, thiếu sót, chính
sách, bất cập không phù hợp với Luật Quy hoạch.

Điều 8 của Luật Quy hoạch có nội dung về thời kỳ quy hoạch: đối với

Quy hoạch vùng, Quy hoạch tỉnh là 20 năm đến 30 năm. Như vậy
Quy hoạch chung thành phố (là loại QHXD cấp dưới) đang triển khai
đến năm 2040 tầm nhìn 2060 là không phù hợp Luật Quy hoạch.

Vấn đề chuyển tiếp khi chưa có quy hoạch cấp quốc gia: Cho
phép tiếp tục thực hiện tổ chức điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch
xây dựng vùng tỉnh theo quy đònh tại Luật Xây dựng năm 2014
đến khi quy hoạch tỉnh được phê duyệt. Ngoài ra, cũng cần hướng
dẫn thực hiện cụ thể các căn cứ để xây dựng các loại quy hoạch
có tính kỹ thuật, chuyên ngành theo quy đònh của Luật Quy hoạch
trong khi chưa có quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng,
quy hoạch tỉnh.

Điều 16 của Luật Quy hoạch có nội dung về quy trình lập quy hoạch
thì đối với quy hoạch tỉnh (TP.HCM được xem tương đương): cơ quan
lập quy hoạch chủ trì (Sở Quy hoạch - Kiến trúc) phối hợp với các cơ
quan và UBND cấp huyện xây dựng nhiệm vụ lập quy hoạch, báo
cáo UBND TP xem xét trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có hợp
lý hay là quy trình nào khác phù hợp?

Thông tin đến các cơ quan tổ chức tư vấn lập quy hoạch các cấp về
những nội dung trong Luật Quy hoạch và Nghò đònh 37/2019/NĐ-CP
cũng như những Thông tư hướng dẫn sắp ban hành để nắm rõ và
triển khai theo đúng pháp luật. Phải quản lý được cơ sở dữ liệu quy
hoạch đối với tất cả các lónh vực, với các ngành để đạt mục tiêu
quan trọng của Luật Quy hoạch.

Điều 30 của Luật Quy hoạch có nội dung về Hội đồng thẩm đònh quy
hoạch: Chủ tòch hội đồng quy hoạch tỉnh là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chứ không phải Bộ Xây dựng như đối với quy hoạch xây dựng.


Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm đònh, quyết đònh trong phê
duyệt quy hoạch, đặc biệt là công tác quản lý triển khai quy hoạch
thì Luật quy hoạch mới thành công, triển khai quy hoạch thành
công và thúc đẩy cả xã hội cùng vào cuộc xây dựng phát triển đất
nước một cách toàn diện về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng,
bảo vệ môi trường và phát triển một cách bền vững.

Luật Quy hoạch đã quy đònh sửa đổi nhiều Luật, trong đó có Luật Xây
dựng và Luật Quy hoạch đô thò.

Một số nội dung trong Luật Quy hoạch đô thò cũng sẽ thay đổi cho
phù hợp Luật Quy hoạch: đònh hướng quy hoạch tổng thể hệ thống

SË 99 . 2019

37



×