Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.17 KB, 16 trang )

Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá
trong nền kinh tế thị trờng
I-/ Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế
quốc dân:
1-/ Tính tất yếu khách quan của thơng mại quốc tế (TMQT):
Thơng mại quốc tế là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và dịch vụ với
nớc ngoài nhằm thu đợc lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Buôn bán
hàng hoá và dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế - xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những ngời sản xuất kinh doanh hàng hoá nói
riêng của các quốc gia nói chung. Thơng mại quốc tế tạo điều kiện cho các nớc
tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất n-
ớc. TMQT là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trởng kinh tế và do đó nó
góp phần quyết định sự thắng bại của một đờng lối công nghiệp hoá ở các nớc
đang phát triển cũng nh của Việt Nam.
Khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu sắc thì
TMQT đã trở thành một qui luật tất yếu khách quan và đợc xem là một điều kiện
tiền đề, phơng tiện cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế đã chứng
minh rằng không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ cha nói gì đến phát triển nếu
nh xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cấp tự túc, không quan
hệ với thế giới. Bởi vì, nền kinh tế tự cấp tự túc vô cùng tốn kém về cả vật chất và
thời gian, cho dù quốc gia đó to lớn nh Liên Xô (cũ), Mỹ và Trung Quốc cũng
không có đủ sức làm việc này. Do vậy, TMQT đã trở thành vấn đề sống còn vì nó
cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức sống của dân c một quốc gia. Bí
quyết thành công trong chiến lợc phát triển kinh tế của nhiều quốc gia là mở rộng
thị trờng quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến sâu và
tinh, chiếm tỷ trọng cao trong hàng xuất khẩu.
Sự ra đời và phát triển của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động
quốc tế. Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một
tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con ngời ngày một dồi
dào. Điều đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nớc ngày càng tăng. TMQT
cũng vì thế mà ngày càng phát triển mở rộng và phức tạp.


Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thơng thì mỗi nớc muốn đạt đợc sự
thịnh vợng phải gia tăng khối lợng tiền tệ. Muốn có của cải, các nớc phải phát
triển buôn bán với nớc ngoài. Lý thuyết trọng thơng chỉ ra rằng lợi nhuận buôn
bán là kết quả của sự thay đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia,
TMQT chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt hại cho bên kia. Đến giai đoạn cuối
họ cho rằng có thể tăng cờng nhập khẩu nếu qua đó đẩy mạnh đợc xuất khẩu, cán
cân thơng mại vẫn nghiêng về phía xuất khẩu.
Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia là cơ sở xuất
hiện TMQT. Chính sự khác nhau đó mà mỗi nớc có lợi thế riêng là chuyên môn
hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu
hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác mà trong nớc cha
có điều kiện để sản xuất hay sản xuất với chi phí lớn không hiệu quả. Điều quan
trọng ở đây là mỗi quốc gia phải tự xác định cho đợc những mặt hàng nào mà nớc
mình có lợi nhất trên thị trờng cạnh tranh quốc tế. Sự khác nhau về điều kiện sản
xuất cũng giải thích đợc lý do buôn bán giữa các nớc về những mặt hàng nh dầu
lửa, lơng thực, dịch vụ du lịch,... Do đó đã nhiều câu hỏi đợc đặt ra là: Tại sao Mỹ
lại nhập cà phê và xuất khẩu lơng thực? Tại sao Nhật Bản lại xuất khẩu hàng công
nghiệp và chi nhập khẩu nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển
nh Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu?... Lý thuyết lợi thế so sánh
của nhà kinh tế học David Ricardo (1817) đã phần nào giải thích một cách căn
bản và có hệ thống những câu hỏi này.
Quy luật lợi thế tơng đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó
là chìa khoá của các phơng thức thơng mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi n-
ớc chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nớc đó có lợi thế tơng đối (hay có hiệu
quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thơng mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí
nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất
hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra
lợi ích cho mình. Khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản
xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu các loại hàng
hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các hàng hoá mà việc sản

xuất chúng bất lợi lớn nhất.
Tuy nhiên, ngời ta cũng thấy rằng TMQT vẫn diễn ra do sự chênh lệch giữa
các nớc về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra trong điều kiện sản xuất khá giống
nhau. Chẳng hạn nh, một nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể
làm ra máy video và áo sơ mi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy
video, thì càng ít nguồn lực có thể dùng làm áo sơ mi. Chi phí cơ hội của máy
video là lợng áo sơ mi bị hy sinh do dùng các nguồn lực vào việc làm ra các máy
video thay cho các áo sơ mi. Cũng nh sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển
giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tơng tự cũng xảy ra đối với các mặt hàng điện tử giữa
các nớc Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nớc phải buôn bán
với nhau nếu một nớc không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa
chọn mặt hàng cũng nh đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ.
Do vậy, sự chênh lệch giữa các nớc về chi phí tơng đối trong sản xuất quyết định
phơng thức TMQT.
Vậy TMQT bắt nguồn từ đâu:
Một là, TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất
giữa các nớc, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập
khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất thì chắc chắn đem
lại lợi nhuận lớn hơn. Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa
lý. Nguồn tài nguyên ảnh hởng tới TMQT là rất rõ, nó giải thích tại sao một nớc
kinh doanh xuất khẩu nông sản, lơng thực, dầu lửa, dịch vụ du lịch,...
Nguồn nhân lực là lực lợng con ngời trong một quốc gia. Đây là lực lợng trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm nên nó ảnh hởng rất lớn đến điều kiện sản xuất, đặc biệt
là lao động có kỹ năng cao. Lực lợng lao động của một nớc càng có kỹ năng cao
thì nớc đó càng có nhiều khả năng để trở thành nớc xuất khẩu các sản phẩm chế
tạo, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lợng kỹ thuật cao giá cả phải chăng trên thị
trờng thế giới. Những thập kỷ qua đã nói lên điều này, nhờ dựa vào lực lợng lao
động dồi dào, giá nhân công rẻ mạt mà các nớc Đông Nam á đã thành công chiến
lợc hớng vào xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động. Hạ tầng cơ sở
của một nớc nh: giao thông vận tải với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng

và các phơng tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển thơng mại của một nớc đó đối với thế giới. Ví dụ nh
đờng sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lu thông hàng hoá,
không có điều kiện để phát triển các hoạt động dịch vụ. Ngợc lại, cơ sở hạ tầng tốt
là một nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu, nh hệ thống truyền thông tin phát triển
giúp cho các bên liên lạc trao đổi dễ dàng, nhanh, xúc tiến quá trình thơng mại
giữa các nớc.
Hai là, hiệu quả kinh tế theo qui mô, nghĩa là hầu hết các hàng hoá đợc sản xuất
ra đắt hơn khi sản xuất với khối lợng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng
lên. Do vậy mà một nền sản xuất có qui mô lớn ngời ta có thể tiết kiệm trong việc sử
dụng máy móc thiết bị và nguyên liệu. Hơn nữa, do sự phân công công việc ra giữa
nhiều ngời khác nhau, mỗi ngời có thể trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực của
quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế
theo qui mô có ý nghĩa quan trọng cho lĩnh vực TMQT của các nớc nhỏ, và bị giới
hạn nhiều hơn so với các nớc lớn. Điều này cho thấy tại sao các nớc nhỏ thờng mở
rộng thơng mại hơn so với các nớc lớn (khi đo lờng, chẳng hạn bằng tỷ lệ xuất
khẩu/GDP). Đối với các nớc nhỏ việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nớc
chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích
TMQT về những hàng hoá nhất định nào đó.
Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về
bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số ngời. Thị hiếu
rất khác nhau cả giữa các nớc và mọi ngời. Điều này nói lên việc buôn bán các sản
phẩm rất khác nhau giữa các nớc tơng tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng
phát minh sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp. Công ty có quyền sở hữu về một
phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công chế biến đối
với các công ty ở nớc khác hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy
không đợc xuất khẩu. Điều này tạo cho nớc sở hữu phát minh có một sự độc quyền
thực sự về loại sản phẩm này. Trên thị trờng thế giới.
Cuối cùng là, do nhu cầu kinh tế hay sở thích làm giầu mà bất cứ một quốc gia
nào trên thế giới cũng muốn. Muốn đất nớc giàu có thì TMQT phải phát triển.

Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thơng mại và thị trờng thế giới
trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nhân tố kích thích sự phát triển
của lực lợng sản xuất, của khoa học công nghệ, là một phơng tiện để thúc đẩy
tăng trởng kinh tế. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nớc
khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội
văn minh hơn, thịnh vợng hơn.
Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách "đóng cửa
với nớc ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nớc". Muốn phát triển
nhanh, mỗi nớc không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải tận dụng
có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài ngời đã đạt
đợc. Nền kinh tế "mở cửa" sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nớc nhằm sử
dụng sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Nhận thức đợc vấn đề này, Đảng và Nhà nớc ta đã có những bớc đi đúng đắn
trong đờng lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phơng hoá các
quan hệ quốc tế, mở cửa và hớng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nớc ta
sống dậy, hoạt động ngoại thơng trong 10 năm đổi mới đã đạt đợc những thành tựu
đáng kể, nh hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở nớc ta không ngừng gia tăng, từ năm
1986 đến năm 1996 trung bình hàng năm tăng 25-27% đóng góp một phần không
nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nớc. Do vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ
VIII, Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở
rộng, đa phơng hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn làm bạn của tất cả các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phơng và đa phơng với các nớc các tổ chức
quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải
quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thơng lợng.
2-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân (KTQD):
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không
phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua
bán trong một nền thơng mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Do đó xuất

khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến cao, hoặc
có thể chịu thiệt hại khôn lờng vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ
bên ngoài mà các chủ thể trong nớc tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế
đợc.
ở một góc độ khác, xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong cán cân thanh
toán quốc tế. ở các nớc có nền sản xuất hàng hoá phát triển cao, xuất khẩu không
những đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu trong nớc mà còn đảm bảo chi cho các
nguồn khác, ngoài ra còn tạo ra dự trữ ngoại tệ cho Nhà nớc, tăng thu cho ngân
sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc
làm, nâng cao mức sống của ngời dân. Nhờ có xuất khẩu mà phát huy cao độ tính
năng động, sáng tạo của mọi ngời, mọi đơn vị, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi
địa phơng trong xã hội, chất lợng sản phẩm luôn đợc nâng cao, việc đa tiến độ
khoa học kỹ thuật mới đợc thờng xuyên và có ý thức. Việc xuất khẩu trong điều
kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn tới việc hình thành các liên
doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nớc một cách tự giác tạo sức mạnh
phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực, nó liên kết chặt chẽ giữa các nhà
sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả từ phía các nhà
sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nớc, tạo ra sự
tăng trởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với
các ngời giàu.
Vì vậy, trong định hớng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh
tế đối ngoại nói chung và chính sách TMQT nói riêng phải đợc coi là một chính
sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lợc nhằm phục vụ quá trình phát triển của
nền KTQD. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ đợc tối đa nguồn vốn kỹ
thuật công nghệ tiên tiến của nớc ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát
triển, giải quyết việc làm cho ngời lao động, thực hiện phơng châm phát triển th-
ơng mại với nớc ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nớc, vừa có sản phẩm tiêu
dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu.
Với những nớc nghèo nh nớc ta, sự phát triển mạnh của xuất khẩu sẽ góp
phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế quan trọng, thể hiện nh sau:

2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nớc:
Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ của
trang thiết bị quá cũ, lạc hậu. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc,
trớc mắt chúng ta phải nhập khẩu một số lợng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại
bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thờng dựa
vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu t nớc ngoài và xuất khẩu. Ba nguồn
vốn đầu phụ thuộc vào nớc ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu
là xuất khẩu. Đối với nhiều nớc, xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu
trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá.
2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển:
Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo hàng hoá xuất khẩu,
nhất là các ngành áp dụng kỹ thuật tiên tiến sản xuất ra các hàng hoá có khả năng
cạnh tranh trên thị trờng thế giới, giúp tạo ra một năng lực công nghiệp mới không
những cho phép tăng sản xuất về mặt số lợng mà còn tăng chất lợng sản phẩm vì
tăng năng suất lao động.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ, đó là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu thế
phát triển chung của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nớc ta. Việc phát triển các
ngành công nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và
sản xuất ra những sản phẩm có trình độ kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc tế mà một
lực lợng lao động đợc đào tạo, rèn luyện về trình độ kỹ thuật và chuyên môn lành
nghề. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát
triển ngành sản xuất nguyên liệu nh bông, thuốc nhuộm,... Sự phát triển của
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (gạo, dầu, thực vật, chè,...) có

thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó
nh bao bì,...
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nớc.
- Xuất khẩu hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trờng
thế giới về giá cả, chất lợng.

×