Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM MINH TUẤN

C¸C TéI PH¹M TRONG LÜNH VùC CHøNG
KHO¸N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM MINH TUẤN

C¸C TéI PH¹M TRONG LÜNH VùC CHøNG
KHO¸N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Minh Tuấn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN THEO LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM................................................................................... 7
1.1.
Cơ sở của việc qui định các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
7
1.1.1. Khái niệm chứng khoán và thị trường chứng khoán............................ 7
1.1.2. Sự cần thiết phải tội phạm hoá một số hành vi vi phạm trên thị
trường chứng khoán........................................................................... 10

1.2.

Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán......................................................................................21
1.2.1. Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán...............................21
1.2.2. Đặc điểm của các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán...................22
1.3.

Quá trình phát triển của các quy định về các tội phạm trong
lĩnh vực chứng khoán trong pháp luật hình sự Việt Nam............34
1.3.1. Các quy định về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán trước
khi Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành....................................34
1.3.2. Các quy định về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán sau
khi Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành....................................35
Kết luận chương 1.........................................................................................39
Chương 2: CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015........................................40
2.1.

Khái quát chung về các quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán........................40
2.1.1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực chứng khoán................................................................................ 41


2.1.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trong lĩnh vực chứng khoán
44
2.1.3. Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực chứng khoán 48

2.1.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
lĩnh vực chứng khoán
48
2.2.

Đánh giá chung về các quy định về các tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán trong Bộ luật hình sự năm 2015
49
2.2.1. Những kết quả đạt được của các quy định về các tội phạm trong
lĩnh vực chứng khoán trong Bộ luật hình sự năm 2015 49
2.2.2. Những nội dung trong các quy định về các tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán trong Bộ luật hình sự năm 2015 cần tiếp tục
hoàn thiện 52
Kết luận chương 2.........................................................................................64
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM
TRONG LĨNH CHỨNG KHOÁN 65
3.1.

Thực tiễn áp dụng các các quy định về tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán 65
3.1.1. Tình hình vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán................................. 65
3.1.2. Tình hình các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
chứng khoán
67
3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực chứng khoán 71
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

trong lĩnh vực chứng khoán
71
3.2.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực chứng khoán 87
Kết luận chương 3.........................................................................................92
KẾT LUẬN....................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BLHS
BLTTHS
CK
CTTCP
TTCK


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) là thị trường vốn trung và dài hạn là
kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Bên cạnh thị trường tín dụng, thị
trường chứng khoán là một trụ cột không thể thiểu trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm phát triển TTCK từ năm 2011-2020 của Thủ tướng Chính phủ
tại Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 về phê duyệt chiến lược phát
triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 thì:

a)

Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phù hợp


với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hình thành
một hệ thống thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất trong
tổng thể thị trường tài chính của đất nước.
b)
Phát triển, mở rộng thị trường chứng khoán có tổ
chức, thu
hẹp thị trường tự do đồng thời đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng
và sự an toàn của thị trường, từng bước tiếp cận với các thông lệ và
chuẩn mực quốc tế.
c)

Phát triển thị trường chứng khoán theo hướng gắn kết với

việc cải cách, sắp xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực
cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cả về năng lực tài
chính và quản trị doanh nghiệp.
d)

Nhà nước thực hiện quản lý bằng công cụ pháp luật, có

các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát
triển ổn định, vững chắc; phát huy vai trò của các tổ chức tự quản,
hiệp hội nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích
các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Với quan điểm trên, trong thời gian qua, Nhà nước đã không ngừng

1



hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực CK và TTCK làm
cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán. Các
công cụ hành chính ngày càng được hoàn thiện giúp Nhà nước giám sát, kiểm
tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường chứng
khoán. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã tội phạm hoá một số hành vi phạm
phổ biến trong lĩnh vực chứng khoán.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2010) đã chính thức quy định về 3 tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); Tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán (Điều 181b); Tội thao túng giá chứng khoán (Điều
181c). Đây là lần đầu tiên tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán được quy
định trong Bộ luật hình sự và nó là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn
thiện khung pháp lý về thị trường chứng khoán nhằm bảo đảm thị trường
chứng khoán phát triển bền vững.
Mặc dù các nhà làm luật và các cơ quan quản lý và cơ quan áp dụng
pháp luật đã nỗ lực rất nhiều trong việc phòng ngừa và đấu tranh với các vi
phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, trên thực tiễn, các hành vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán vẫn ngày càng phức tạp, tinh vi và khó
xử lý. Vì lẽ đó, pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện. Đến nay, Bộ luật hình sự
năm 2015 đã được ban hành, Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa có
phát triển các quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán trong Bộ luật
hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010), đồng thời quy định
thêm tội danh mới trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy vậy, cho đến nay, việc xử
lý hình sự đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán còn rất
khiêm tốn. Nguyên nhân của hiện tượng này không phải là do thị trường
chứng khoán không có nhiều vi phạm nghiêm trọng, phức tạp.

2



Nguyên nhân chính là các quy định của pháp luật về các tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán còn chung chung, chưa được hướng dẫn cụ thể. Hơn nữa,
các vi phạm về chứng khoán rất tinh vi, phức tạp và khó chứng minh. Trong
khi đó, năng lực và kinh nghiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong lĩnh
vực chứng khoán vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Vì vậy, cần
tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tội phạm
trong lĩnh vực chứng khoán, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Các tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo cứu, học viên nhận thấy cho đến nay đã có một số công trình
nghiên cứu liên quan đến một số khía cạnh về các tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán:
Đỗ Thị Minh Phượng (2012), Đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong
lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2012
-

Đỗ Thúy Vân (2010), Cần hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định

tại Điều 181a, 181b, 181c Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, số 4;
-

Dương Tuyết Miên (2010), Về các tội phạm chứng khoán trong luật

sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2;

-

Hoàng Thị Quỳnh (2009), Một số ý kiến về sửa đổi, bổ sung Bộ luật

Hình sự năm 1999 liên quan đến tội phạm chứng khoán, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 8;
Nguyễn Đức Mai (2014), Tìm hiểu các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh
tế và các tội phạm về môi trường, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật;


3


-

Nguyễn Thị Giao Linh (2015), Tội cố ý công bố thông tin sai lệch

hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo pháp luật hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà Pháp luật Việt-Pháp (2011), Kỷ yếu hội thảo Xử lý cá hành
vi vi

phạm pháp luật về tài chính và chứng khoán, Hà Nội, ngày 17/11/2011;
-

Phan Anh Tuấn (2011), Các tội phạm về chứng khoán trong luật hình

sự Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
hình sự về các tội này, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4;

Viên Thế Giang (2012), Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che

-

giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 1;
Viên Thế Giang (2013), Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong

-

lĩnh vực chứng khoán ở VN hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3;
lĩnh

Vũ Phúc Du (2009), Cần quy định một số tội phạm mới trong

vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Tạp chí Kiếm sát, số 04 (tháng
02/2009
Về cơ bản, các công trình khoa học đã công bố đã giải quyết được
những khía cạnh nhất định về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy
nhiên, các công trình này ra đời khi Bộ luật hình sự năm 2015 chưa được ban
hành và có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, cho đến nay, vẫn cần một công trình
khoa học nghiên cứu một cách toàn diện về các tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán. Vì vậy, đề tài luận văn vẫn đáp ứng tính mới và thời sự.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo luật hình sự Việt
Nam, như: khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, tình hình xử

lý tội phạm này, các hạn chế bất cập và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.


4


Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội phạm chứng khoán
theo
luật hình sự Việt Nam, như khái niệm, đặc điểm, các nội dung cơ bản.
Nghiên cứu thực trạng quy định về các tội phạm chứng khoán
theo
luật hình sự Việt Nam trong lịch sử cũng như BLHS hiện hành.
lĩnh

Nghiên cứu thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm trong

vực chứng khoán trong những năm vừa qua để từ đó đánh giá được những hạn
chế, tồn tại trong thực tiễn xử lý này.
-

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng đối với các tội phạm này trên thực tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Đề tài có phạm vi nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về các
tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thực tiễn áp dụng từ năm 2012 cho
đến nay. Như vậy, trong phần lý luận, luận văn chỉ tập trung giải quyết các

vấn đề lý luận về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời, trong
chương 2, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá Mục 2, chương XXVIII
BLHS năm 2015 về các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm, chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: nghiên cứu tài
liệu kết hợp với phân tích, so sánh, tổng hợp logic lịch sử, tổng hợp, phân
tích, thống kê...


5


6.

Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán theo luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo Bộ luật hình
sự năm 2015
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG
LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Cơ sở của việc qui định các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán

1.1.1. Khái niệm chứng khoán và thị trường chứng khoán
Hiểu theo khía cạnh kinh tế, chứng khoán là một khoản đầu tư dài hạn
dưới hình thức cho tổ chức phát hành vay hoặc góp vốn vào tổ chức phát
hành. Về mặt bản chất, khi một người đầu tư vào một chứng khoán thì được
hiểu là người đó góp vốn vào hoặc cho tổ chức phát hành vay một khoản tiền
nhất định. Đương nhiên, nhà đầu tư sẽ được ghi nhận một số quyền nhất định.
Ví dụ: quyền được trả lãi định kỳ (đối với trái phiếu, chứng chỉ nợ), quyền
hưởng cổ tức (cổ phần). Như vậy, dưới góc độ pháp lý, chứng khoán là một
văn bản xác nhận một khoản đầu tư mà nhà đầu tư đóng góp vào chủ thể phát
hành dưới hình thức góp vốn hoặc cho vay. Điều 6.1 Luật Chứng khoán năm
2006 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) định nghĩa chứng khoán như sau:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức
phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ,
bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a)
b)

Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;

Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền

chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số


chứng khoán;
c)

Hợp đồng góp vốn đầu tư;

d)
định.

Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy

7


Giáo trình Pháp luật về thị trường chứng khoán của Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội định nghĩa chứng khoán là:
“Chứng khoán là giấy tờ có giá, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát
hành” [28, tr. 22].
Giáo trình Pháp luật về thị trường chứng khoán của Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội cũng chỉ ra các đặc điểm của chứng khoán bao gồm:
-

Chứng khoán xác nhận quyền sở hữu tài sản nhất định và nó có thể

được chuyển nhượng từ chủ thể này sang chủ thể khác [28, tr. 23].
Quyền phát sinh từ chứng khoán đi liền với quyền đối với
chứng
khoán và đồng thời quyền đối với chứng khoán đi liền với quyền phát sinh từ
chứng khoán [28, tr. 24].
Mệnh giá của chứng khoán không phải là giá trị thực tế mà chỉ

là giá
trị danh nghĩa [28, tr. 24]
-

Chứng khoán có khả năng sinh lời [28, tr. 24]

-

Chứng khoán có tính thanh khoản [28, tr. 25]

-

Chứng khoán có tính rủi ro cao [28, tr. 25]

Học viên đồng tình với các tiếp cận của Giáo trình Pháp luật về thị trường
chứng khoán của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Một yếu tố quan trọng
là chứng khoán có thể ghi danh hoặc không ghi danh. Chứng khoán ghi danh là
chứng khoán mà tên và đặc điểm nhân thân khác của chủ sở hữu quyền, lợi ích
được ghi nhận bởi chứng khoán được ghi trên bề mặt của chứng khoán. Chứng
khoán không ghi danh là chứng khoán mà tên của chủ sở hữu quyền, lợi ích được
ghi nhận bởi chứng khoán không được ghi trên bề mặt của chứng khoán. Thay
vào đó, người cầm giữ chứng khoán được coi là chủ sở hữu chứng khoán trừ
trường hợp có chứng cứ chứng minh việc cầm giữ không ngay tình. Từ đó, học
viên đưa ra định nghĩa về chứng khoán như sau:


8


Chứng khoán là văn bản ghi nhận các quyền và lợi ích có thể được

chuyển nhượng của người được ghi danh trên văn bản hoặc cầm giữ văn bản
này đối với tài sản hoặc vốn góp của tổ chức phát hành ra văn bản này.
Chứng khoán bao gồm các loại cơ bản sau đây:
-

Cổ phiếu là một loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành ghi

nhận một người nào đó có cổ phần trong công ty, hay nói cách khác ghi nhận
quyền và lợi ích của người này đối với tài sản và lợi nhuận của công ty. Cổ
phiếu có thể được phát hành dưới hình thức bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện
tử. Trong lý thuyết và thực tiễn, cổ phiếu bao gồm cổ phiếu thường (ghi nhận
cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi (ghi nhận cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi).
-

Trái phiếu là loại chứng khoán được phát hành bởi doanh nghiệp,

chính phủ hoặc chính quyền địa phương ghi nhận tổ chức phát hành nợ người
sở hữu trái phiếu một khoản tiền nhất định và có nghĩa vụ trả gốc khi đáo hạn
và trả lãi theo lãi suất xác định theo định kỳ.
-

Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ

phát hành, xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp
của quỹ đầu tư.
-

Các loại chứng khoán khác: Khi thị trường chứng khoán phát triển thì


sẽ phát sinh ra những loại chứng khoán khác, phái sinh từ các chứng khoán
trên như chứng quyền, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng
góp vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác.
Như phần trên đã nêu, chứng khoán có thể được chuyển nhượng và có
tính thanh khoản. Điều đó có nghĩa rằng chứng khoán có thể được mua bán
như các hàng hoá trên thị trường. Nói cách khác, chứng khoán cũng được coi
là một loại hàng hoá đặc biệt. Như vậy, khi khối lượng giao dịch mua, bán,
trao đổi các hàng hoá đặc biệt này đạt được một mức độ nhất định, thị trường
của các loại hàng hoá đặc biệt này được hình thành.

9


Ban đầu thị trường chỉ đơn giản là nơi tụ tập của các thương gia trao
đổi mua bán hàng hoá. Sau đó, khi khối lượng giao dịch ngày càng tăng lên,
cùng với sự tăng lên của số người tham gia, nơi tụ tập phát triển thành một
khu chợ để trao đổi, mua bán hàng hoá. Sau một thời gian, khi các giao dịch
ngày càng lớn và phức tạp, trong khu chợ này đã hình thành các các quy tắc
hoạt động riêng. Tiếp theo, khi khối lượng và tính phức tạp của giao dịch lại
tiếp tục tăng lên dẫn đến hình thành các thị trường riêng biệt. Thị trường
chứng khoán được ra đời từ sự phân tách này.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên, về cơ bản hầu hết các nhà khoa học đều có nhận định chung về thị
trường chứng khoán, đó là:
-

Là nơi tổ chức chứng khoán trực tiếp hoặc thông qua trung gian, chào

bán chứng khoán cho nhà đầu tư (thị trường sơ cấp); và
-


Là nơi trao đổi, mua, bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư (thị trường

thứ cấp)
Vì vậy, thị trường chứng khoán là nơi chào bán, giao dịch các hàng hoá
đặc biệt gọi là chứng khoán.
1.1.2. Sự cần thiết phải tội phạm hoá một số hành vi vi phạm trên thị
trường chứng khoán
Cần phải hiểu rằng chứng khoán được coi là giấy tờ có giá. Nhưng giá
trị được ghi trên tờ giấy (mệnh giá) và giá thị trường của nó (có thể cao hơn
hoặc thấp hơn) lại vô hình và đôi khi “ảo”. Ví dụ, trên tờ trái phiếu có ghi
mệnh giá là 10.000.000 đồng, lãi suất 7%/năm (trả định kỳ vào ngày 31/12
hàng năm), đáo hạn 31/05/2020. Như vậy, trái phiếu ghi nhận rằng chủ sở hữu
trái phiếu sẽ được tổ chức phát hành trả nợ gốc 10.000.000 đồng vào ngày đáo
hạn (31/05/2020) và được trả lãi định kỳ vào ngày 31/12 hàng năm. Tuy
nhiên, việc chủ sở hữu trái phiếu có được trả nợ gốc đúng hạn hay

10


không sẽ phụ thuộc vào năng lực tài chính của tổ chức phát hành tại thời điểm
đáo hạn. Trong khi đó, số tiền 10.000.000 đồng (có thể nhiều hơn hoặc ít hơn)
mà chủ sở hữu trái phiếu bỏ ra để mua trái phiếu này là số tiền thật. Điều đó
có nghĩa là chủ sở hữu trái phiếu có thể mất trắng số tiền này, nếu như tổ chức
phát hành lâm vào tình trạng phá sản hoặc chây ì không trả. Đây chính là rủi
ro của chứng khoán.
Về mặt lý thuyết và thực tế, thị trường chứng khoán là thương trường
khốc liệt mà ở đó thông tin đóng vai trò quyết định. Nhà đầu tư bỏ tiền ra đầu
tư vào một hoặc một số chứng khoán cụ thể, vì trên cơ sở thông tin có được,
nhà đầu tư tin rằng chứng khoán mang lại lợi nhuận cho mình về ngắn hạn

hoặc dài hạn. Nhưng thông tin đó là gì và từ đâu? Đó là thông tin về cơ cấu tổ
chức, lĩnh vực hoạt động, tình hình hoạt động, tình hình tài chính của tổ chức
phát hành và những thông tin khác liên quan đến tổ chức phát hành. Liệu
thông tin này có thực sự sẵn có ở công cộng không? Câu trả lời là không.
Những thông tin này là những thông tin trong nội bộ của tổ chức phát hành,
nó chỉ được công khai theo quy định của pháp luật. Ví dụ, khi chào bán chứng
khoán ra công chúng, tổ chức phát hành phải công bố bản cáo bạch. Đối với
tổ chức niêm yết thì phải công bố thông tin định kỳ, thông tin bất thường và
thông tin theo yêu cầu. Tuy nhiên, các thông tin này đến từ bộ máy quản lý
nội bộ của tổ chức phát hành. Vì vậy, những người bên trong tổ chức phát
hành sẽ nắm được nhiều thông tin hơn so với các nhà đầu tư trên thị trường.
Đó chính là sự bất cân xứng thông tin. Nhìn chung, hầu hết các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực chứng khoán dựa trên sự bất cân xứng thông tin. Các
hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, che giấu hoặc cung cấp thông tin không đúng sự thật để trục
lợi. Chứng khoán dù tồn tại dưới hình thức nào thì cũng là sự ghi nhận mối
quan hệ ít nhất giữa hai chủ thể cơ bản, đó là tổ chức phát hành và nhà đầu tư.

11


Khi chào bán chứng khoán cho nhà đầu tư, tổ chức phát hành có nghĩa vụ công
bố cho nhà đầu tư những thông tin (đặc biệt là tình hình và năng lực tài chính của
tổ chức phát hành). Các thông tin này là những thông tin của tổ chức phát hành.
Vì vậy, chỉ những người trong nội bộ của tổ chức phát hành mới có được thông
tin đầy đủ và chính xác. Trong thực tiễn, rất có thể thông tin mà tổ chức phát
hành công bố ra thị trường cho nhà đầu tư, là thông tin đã được “trang điểm” để
hấp dẫn nhà đầu tư. Với sự thiếu thông tin, nhà đầu tư có nguy cơ mắc bẫy của
những kẻ xấu, mua chứng khoán do tổ chức không đủ năng lực phát hành. Thiệt
hại trước hết là cho nhà đầu tư, rồi đến gây hiệu ứng domino cho toàn thị trường.

Như vậy, các hành vi che giấu thông tin, cung cấp thông tin không đúng sự thật
là một trong những hành vi rất phổ biến trên thị trường chứng khoán. Nếu các
hành vi che giấu thông tin, cung cấp thông tin không đúng sự thật không được
ngăn chặn hoặc kiểm soát thì hiện tượng lừa đảo chiếm đoạt tài của nhà đầu tư
một cách tinh vi sẽ diễn ra phổ biến trên thị trường gây ảnh hưởng tiêu cực cho
môi trường đầu tư và nền kinh tế.

Thứ hai, giao dịch nội gián: Đây cũng là một hành vi tận dụng sự bất
cân xứng thông tin để trục lợi. Hành vi nội gián thể hiện ở việc những người
quản lý công ty hoặc những người có liên quan của những người này tận dụng
thông tin nội bộ của công ty mua bán chứng khoán của công ty. Sự bất minh
của hành vi này thể hiện ở chỗ, vì biết được thông tin một cách không công
bằng mà những người có được thông tin hưởng lợi từ việc mua bán chứng
khoán, trong khi đó những nhà đầu tư khác không được hưởng lợi, thậm chí
chịu thiết thòi. Hành vi này trái với nguyên tắc công bằng trên thị trường
chứng khoán.
Nguyên tắc công bằng có nghĩa là mọi chủ thể tham gia thị
trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được đối xử bình
đẳng không phụ thuộc vào yếu tố như địa vị pháp lý, tôn giáo, dân

12


tộc, giàu hay nghèo…Ngoài ra, các chủ thể còn có quyền bình đẳng
trong việc tiếp cận và chia sẻ thông tin tin… [28, tr. 79]
Bên cạnh đó, hành vi này cũng gây ra sự thiếu lành mạnh trên thị
trường chứng khoán, tạo ra tình trạng, một nhóm người lợi dụng vị trí trong
công ty trục lợi và đẩy thiệt thòi cho số đông các nhà đầu tư không có khả
năng tiếp cận được những thông tin nội bộ này.
Thứ ba, hành vi thao túng thị trường chứng khoán: Hành vi thao túng

thị trường chứng khoán cũng tận dụng sự bất cân xứng về thông tin. Những
người nắm giữ thông tin sẽ tạo ra những thông tin giả hoặc những hiện tượng
giả về cầu hoặc cung chứng khoán, làm cho các nhà đầu tư hiểu sai về tình
trạng cung hoặc cầu chứng khoán, dẫn đến đưa ra quyết định mua hoặc bán
chứng khoán. Hậu quả là số đông nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại, trong khi đó một
nhóm nhỏ thao túng thị trường được hưởng lợi nguồn lợi bất chính khổng lồ.
Qua việc phân tích ba nhóm hành vi vi phạm cơ bản trên cho thấy các
hành vi vi phạm trên thị trường chứng khoán không chỉ gây thiệt hại cho cá
nhân nhà đầu tư mà còn có thể gây ra thiệt hại cho toàn bộ hệ thống thị trường
và cho toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng
khoán có khả năng tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của thị trường
chứng khoán.
PGS.TS. Lê Thị Thu Thuỷ và Ths. Đỗ Minh Tuấn đã có đưa ra tiêu của
một thị trường chứng khoán phát triển bền vững như sau:
(i) Quy mô của thị trường (mức độ vốn hoá, hệ số vòng quay,
tỷ lệ giữa tổng giao dịch toàn thị trường so với GDP trong một
năm). Thị trường chứng khoán phát triển bền vững cần có sự ổn
định và tăng tiến theo thời gian của ba tiêu này; (ii) khả năng tiếp
cận thị trường: doanh nghiệp, cũng như nhà đầu tư dễ dàng nhanh
chóng trao đổi vốn trên thị trường; (iii) thị trường chứng khoán phải

13


hoạt động hiệu quả: tổng giao dịch qua thị trường ngày càng tăng về
quy mô, an toàn với chi phí ổn định hoặc ngày càng thấp đi; (iv) có
sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của các chủ thể tham thị trường; (v)
Hiệu quả trong hoạt động vận hành, quản lý, giám sát thị trường
chứng khoán; (vi) Khả năng dự báo, ngăn ngừa và phòng chống rủi
ro hệ thống; (vii) khung pháp lý hoàn chỉnh và hiệu quả điều chỉnh

cao; (viii) sự tương tác, cân bằng lành mạnh và sự đồng bộ giữa các
thành tố của thị trường chứng khoán và giữa thị trường chứng
khoán với các khu vực khác của nền kinh tế; (viii) thị trường chứng
khoán phát triển ổn định [27, tr. 29].
Một trong những đặc điểm của thị trường chứng khoán phát triển bền
vững mà các tác giả nêu ra là “khả năng dự báo, ngăn ngừa và phòng chống
rủi ro hệ thống”. Rủi ro hệ thống được xác định là:
Rủi ro làm rối loạn các hoạt động tài chính mà (i) bị gây ra bởi
một số bộ phận của hệ thống tài chính; và (ii) có nguy cơ gây ra hậu
quả tiêu cực cho nền kinh tế…Cơ sở của định nghĩa này là quan điểm
rằng rủi ro hệ thống không chỉ gắn với sự đổ vỡ của những bộ phận
đáng kể của hệ thống tài chính mà còn với những tiêu cực bên ngoài,
và cụ thể là nền kinh tế vận hành trong tình trạng suy yếu [27, tr. 31].

Để ngăn ngừa rủi ro hệ thống, các tác giả có đưa ra nhiều giải pháp
trong đó có: (4) xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực hành vi của các chủ
thể tham gia thị trường, nhằm ngăn ngừa và chống các hành vi kinh doanh
không lành mạnh như thao túng thị trường, nội gián, lừa dối… [27, tr. 31].
Như vậy, việc ngăn ngừa và chống hành vi không lành mạnh trên thị
trường chứng khoán là đòi hỏi tất yếu. Vấn đề là sử dụng công cụ nào để thực
hiện được giải pháp này?
Trước hết, Nhà nước sẽ sử dụng công cụ giáo dục, thuyết phục nhằm

14


thay đổi nhận thức của các chủ thể trên thị trường, giúp cho họ nhận thức và
có hành động đúng, không thực hiện các hành vi không lành mạnh gây tổn
thương cho nhà đầu tư và thị trường. Mặc dù không phủ nhận tính hiệu quả
của công cụ này, nhưng rõ ràng công cụ này không thể ngăn ngừa triệt để các

vi

phạm xảy ra trên thị trường.
Tiếp theo, Nhà nước sử dụng công cụ dân sự, nghĩa là, nhà đầu tư thực

hiện quyền khởi kiện dân sự đối với chủ thể có hành vi phạm chuẩn mực trên
thị trường, nhằm buộc chủ thể vi phạm chấm dứt hành vi phạm và buộc bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, biện pháp dân sự không phải lúc nào cũng có thể
thực hiện một cách hiệu quả. Ví dụ, không phải lúc nào đương sự cũng thành
công trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, ví chứng minh thiệt hại không
phải là công việc dễ dàng. Bên cạnh đó, biện pháp dân sự sẽ tỏ ra hiệu quả
hơn nếu được sử dụng để bảo vệ lợi ích tư. Trong khi đó, hành vi vi phạm trên
thị trường chứng khoán không chỉ xâm phạm lợi ích tư mà còn xâm phạm lợi
ích công cộng. Vì vậy, cần thiết phải có biện pháp khác.
Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính bao gồm các điều kiện và thủ
tục hành chính trong chào bán chứng khoán, thực hiện nghĩa vụ công bố
thông tin, áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt, xử lý vi phạm hành chính…
Các biện pháp hành chính cũng tác động vào tài sản của người vi phạm (như
phạt tiền, buộc khắc phục hậu quả,…) Tuy nhiên, tính cưỡng chế của các biện
pháp hành chính thường không nghiêm khắc.
Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15
tháng 11 năm 2013 (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 145/2016/NĐ-CP
ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy

15



×