Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.39 KB, 47 trang )

1
Luận văn
Tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán theo quy định của pháp
luật Việt Nam
2
MỤC LỤC
KẾT LUẬN 46
3
PHẦN MỞ ĐẦU
4
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trên thế giới đã có hơn 160 Sở giao dịch chứng khoán cùng hàng trăm thị
trường phi tập trung phân tán khắp các Châu lục. Có thể nói, thị trường chứng khoán
đã trở thành một bộ phận không thể tách rời và được xem là tín hiệu cho sức khỏe của
nền kinh tế mỗi quốc gia. Tuy ra đời khá muộn tại Việt Nam, nhưng chỉ trong vòng
hơn 10 năm, thị trường chứng khoán đã và đang phát triển với tốc độ vô cùng nhanh
chóng; pháp luật điều chỉnh hoạt động trên thị trường này theo đó cũng dần được định
hình. Trong khi pháp luật về quản lý hành chính đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào
hoạt động một cách có hiệu quả thì pháp luật hình sự trong lĩnh vực này lại đang gặp
nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng và triển khai, tội danh cùng với cấu thành của
chúng chưa được xác định một cách rõ ràng và đầy đủ. Thêm vào đó, tình hình tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán diễn ra vô cùng phức tạp và với mức độ nghiêm
trọng ngày càng cao. Thực tiễn đang báo động trong khi pháp luật còn quá nhiều hạn
chế, hậu quả tất yếu dẫn đến đó là xét xử không đúng người, đúng tội, bỏ lọt tội phạm.
Từ nhận thức trên, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đã và đang bắt tay vào việc
xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, khắc phục những hạn chế do lỗ hổng của pháp
luật tạo ra, góp phần làm lành mạnh hơn thị trường chứng khoán. Hòa chung mục đích
ấy, tác giả chọn đề tài “Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo quy định của
pháp luật Việt Nam” với mục đích làm rõ cấu thành các loại tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm xử lý nghiêm minh các hành vi phạm


tội của loại tội phạm kinh tế mới và nguy hiểm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vì chứng khoán là một hình thức đầu tư mới nên chưa có nhiều các công trình nghiên
cứu về loại tội phạm trong lĩnh vực này. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu gần như chỉ dừng
lại ở các bài viết trên các tạp chí của các chuyên gia hoặc các báo cáo, các bảng ghi nhớ
mang tính nội bộ của các tổ chức, doanh nghiệp; các nghiên cứu khoa học ở nước ngoài
chủ yếu đi sâu vào một hoặc hai loại tội phạm nổi bật (giao dịch nội gián, thâu tóm giá
chứng khoán). Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật
Hình sự quy định các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán, chứng khoán do
Bộ Tư pháp – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– Bộ Tài chính phối hợp thống nhất hướng dẫn là động thái mới và tích cực nhất, thể
hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn đề quản lý trong lĩnh vực nhạy cảm này.
5
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận này là phân tích được những cấu thành hành vi
của các loại tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán đã được quy định trong pháp luật
hình sự của Việt Nam, từ đó tạo điều kiện cho việc nhận thức, điều tra, kết luận và xử
lý loại tội phạm này; đồng thời cũng thông qua đó nhận ra những điểm còn thiếu sót để
hoàn thiện các tội danh đã được quy định và đề xuất các biện pháp để thực thi pháp
luật hình sự trong lĩnh vực chứng khoán một cách hiệu quả hơn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn trong các loại tội phạm về lĩnh
vực chứng khoán tại Việt Nam, từ quy định pháp luật đến thực tế diễn biến và thực thi,
đồng thời phân biệt giữa hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi bị xử phạt
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng đó là suy luận logic kết hợp xuyên
suốt với các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu với kiến thức tiếp cận được từ
các nguồn tài liệu giấy, điện tử và trao đổi với giáo viên hướng dẫn cũng như các giáo
viên có chuyên môn trong lĩnh vực chứng khoán.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài được hoàn thành sẽ trở thành một nguồn tài liệu giúp ích cho việc tìm hiểu,
phân tích, làm rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm trong lĩnh
vực chứng khoán theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Tài liệu này cũng sẽ giúp ích cho việc nhận thức mối liên kết giữa tình hình thị
trường chứng khoán và diễn biến thực tế các loại tội phạm, nhằm tạo ra một cái nhìn
khái quát nhất về tình hình tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam.
Các bạn sinh viên có thể sử dụng tài liệu này để tham khảo trong quá trình học tập,
đồng thời khóa luận cũng là nền tảng quan trọng để tác giả nghiên cứu sâu hơn về vấn
đề này trong thời gian tới.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm hai chương:
Chương 1: Lí luận về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
Chương 2: Tình hình tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam, thực
trạng và phương hướng hoàn thiện
6
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CHỨNG
KHOÁN
1.1 Khái quát về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
1.1.1 Khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10, do Quốc hội ban hành ngày
21 tháng 12 năm 1999, được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
Bộ luật Hình sự số 37/2009/QH12, do Quốc hội ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2009
(Bộ luật Hình sự 2009), tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô, xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
1
- là hình thức xử lý nghiêm khắc nhất mà nhà
nước dành cho một loại hành vi vi phạm pháp luật. Trong số các loại tội phạm, tội
phạm về kinh tế có thể được xem là một loại tội phạm mới nhưng lại có tốc độ phát
triển nhanh và ảnh hưởng sâu rộng nhất đến đời sống xã hội. Tội phạm kinh tế, nhìn

dưới góc độ chính sách hình sự, là khái niệm để chỉ chung tất cả các loại tội phạm có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động của cơ quan, tổ chức trong việc vận
hành nền sản xuất, thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và đảm bảo sự
công bằng, hợp lý trong phân chia, thụ hưởng các quyền lợi và kết quả vật chất khác do
nền sản xuất mang lại
2
. Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán (TPCK) – một trong
những nhóm tội phạm kinh tế xuất hiện muộn nhất, cũng không nằm ngoài quy luật
này. Tại Việt Nam, hoạt động chứng khoán chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật Chứng
khoán số 70/2006/QH11, Quốc hội ngày 29 tháng 06 năm 2006, đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán số 62/2010/QH12,
Quốc hội ngày 24 tháng 11 năm 2010 (Luật Chứng khoán 2010). Việc xử lý hành vi
vi phạm hiện nay được thực hiện thông qua chế tài hành chính và hình sự. Tuy nhiên,
trong khi quy định về xử phạt hành chính đã có từ lâu, các quy định về tội phạm trong
lĩnh vực này mới chỉ được đề cập đến trong Bộ luật Hình sự 2009.
Nhìn chung, nhận thức về loại tội phạm này còn rất mới và chưa rõ ràng, sự phát
triển ngày càng nhanh và phức tạp của thị trường chứng khoán (TTCK) cũng gây nên
không ít khó khăn khi áp dụng các quy định của pháp luật hình sự vào thực tế. Chính vì
vậy các nhà đầu tư nên thận trọng và cân nhắc khi tiến hành giao dịch trên TTCK, đồng
1
Điều 8.1 Bộ luật Hình sự 2009
2
Đỗ Thị Minh Phượng, Đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 07/2012
7
thời các cơ quan chức năng cũng nên có một quy trình xem xét chặt chẽ và kỹ lưỡng
khi xử lý các hành vi phạm tội này. Vậy TPCK là gì? Đầu tiên chúng ta sẽ tiếp cận với
khái niệm về chứng khoán.
Theo Luật Chứng khoán 2010, chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành,

được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử
3
; trong số
đó, cổ phiếu (loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành
4
) là loại hình tiêu biểu nhất và có
thể xem là đại diện cho toàn bộ TTCK. Chính từ đặc điểm này, TPCK có đối tượng tác
động chủ yếu là cổ phiếu của các công ty. Vậy phạm vi xâm nhập của TPCK rộng như
thế nào? Câu trả lời đó là gần như tất cả các bước nhằm mục đích đưa ra thị trường và
duy trì giao dịch đối với loại tài sản này, TPCK đều có thể can thiệp.
Chuỗi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm tổ chức thị trường, chào
bán, phát hành, niêm yết, kinh doanh, giao dịch, đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán…
Tương tự như vậy, TPCK cũng bao gồm nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Theo như phân
loại trong Luật Chứng khoán 2010 thì có thể chia hành vi vi phạm chứng khoán có thể
bị truy cứu TNHS thành các nhóm sau:
- Nhóm 1: nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra
công chúng
- Nhóm 2: nhóm hành vi vi phạm quy định về niêm yết chứng khoán
- Nhóm 3: nhóm hành vi vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng
khoán
- Nhóm 4: nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán
và chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán
- Nhóm 5: nhóm hành vi vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán
- Nhóm 6: nhóm hành vi vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh
toán chứng khoán, về ngân hàng giám sát
- Nhóm 7: nhóm hành vi cản trở việc thanh tra
5
Khác với quy định trong Luật Chứng khoán 2010, Bộ luật Hình sự 2009 chỉ phân
loại TPCK thành ba tội danh:

3
Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán 2010
4
Khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán 2010
5
Điều 121, 123, 124, 125, 126, 127, 130 Luật Chứng khoán 2010
8
- Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán;
- Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
- Tội thao túng giá chứng khoán
6
.
Trong phạm vi đề tài và dựa trên định nghĩa về tội phạm tại phần chung của Bộ
luật Hình sự 2009, tác giả chỉ tập trung phân tích ba tội danh được quy định trong Bộ
luật Hình sự 2009 đã nêu ở trên.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu TPCK là hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm rối loạn
hoạt động bình thường của TTCK, xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước trong
lĩnh vực chứng khoán và được quy định trong Bộ luật Hình sự 2009.
1.1.2 Các đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
- Đặc điểm thứ nhất, TPCK là loại tội phạm kinh tế đặc trưng của nền kinh tế
thị trường, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của TTCK
Một trong những yêu cầu của việc sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự cũ và cho ra
đời Bộ luật Hình sự 2009 là điều chỉnh những bất cập trong các quy định để phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện tại, đảm bảo pháp luật hình sự phải đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, không ngừng cập nhật và đổi mới
để theo kịp với những thủ đoạn, hành vi phạm tội mới, nhằm đạt mục tiêu không bỏ lọt
tội phạm. Tội phạm về chứng khoán là một trong số những nội dung mới phát sinh, cần
xây dựng và không ngừng hoàn thiện về pháp lý để tạo hành lang an toàn cho việc phát
triển thị trường, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.

TPCK là một loại tội phạm đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Nó ra đời khi nền
kinh tế thị trường phát triển đến một giai đoạn nhất định, khi việc trao đổi mua bán các
loại hàng hóa thông thường đã trở nên quen thuộc, chứng khoán trở thành loại hàng
hóa mới đầy tính hấp dẫn. TTCK hội tụ đầy đủ những ưu, nhược của nền kinh tế thị
trường: Quy luật cung cầu, giá trị khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng kinh
doanh hiệu quả, đẩy mạnh sản xuất, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư; Ngược lại, thông
tin bất cân xứng trở thành rào chắn lớn nhất cho việc thực hiện giao dịch trên thị
trường một cách công bằng và chuẩn xác.
TPCK là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là mặt trái và tồn tại song song với sự tồn
tại và phát triển của TTCK. Mỗi bước phát triển của TTCK thì tính chất, mức độ của
6
Điều 181a, 181b, 181c Bộ luật Hình sự 2009
9
TPCK càng gia tăng. Đây không phải là vấn đề đáng lo lắng; một hiện tượng luôn tồn
tại hai mặt, phát triển TTCK đồng nghĩa với việc chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng công
cụ, vũ khí để chống lại các hành vi vi phạm xuất hiện dày đặc và ở trình độ cao. Có thể
nói việc bổ sung ba tội phạm mới về chứng khoán vào Bộ luật Hình sự 2009 cũng như
những nỗ lực mới nhất trong việc soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một
số điều của Bộ luật Hình sự 2009 quy định các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính
– kế toán, chứng khoán đã cho thấy quyết tâm của nhà nước ta trong việc hạn chế, ngăn
ngừa những hậu quả xấu từ hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán.
- Đặc điểm thứ hai, mức độ ảnh hưởng của TPCK thường lớn hơn so với các
loại tội phạm kinh tế khác
Một trong những đặc điểm của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy
hiểm này thể hiện ở việc nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. Đặc
điểm của các tội phạm kinh tế nói chung và TPCK nói riêng là tác động trực tiếp đến
nền kinh tế quốc gia, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các mặt của đời sống. Đối với
TPCK, tác động mạnh nhất của chúng thể hiện trên TTCK. Trong thời điểm hiện nay,
khi trên thế giới cụm từ “công ty cổ phần” hay “TTCK” đã trở thành một phần không
thể thiếu đối với nền kinh tế thì tại Việt Nam, tuy muộn hơn nhưng hầu hết các công ty,

doanh nghiệp lớn đều đã được niêm yết trên sàn giao dịch hoặc đang trong giai đoạn
chuyển đổi cổ phần hóa. Chính vì vậy TPCK càng mang tính nguy hiểm hơn các loại
tội phạm kinh tế khác bởi phạm vi tác động rộng lớn của nó. Chúng không chỉ ảnh
hưởng nặng nề lên các chỉ số chứng khoán, làm đình trệ quá trình giao dịch mà còn kéo
theo các hệ lụy liên quan đến các thị trường bất động sản, vàng, ngoại tệ… Nếu ở mức
độ nghiêm trọng, tình hình kinh tế - chính trị, quốc phòng an ninh của quốc gia cũng sẽ
chịu những khó khăn nhất định. Thêm vào đó, điều dễ dàng nhận thấy đó là ảnh hưởng
của chứng khoán đến đời sống của từng cá nhân, từng gia đình: ăn chứng khoán, ngủ
chứng khoán, trở thành tỷ phú sau một đêm nhờ chứng khoán rồi cũng phá sản, tự vẫn,
gia đình tang hoang do chứng khoán mà ra. Lợi nhuận kiếm được hay mất đi từ chứng
khoán có thể xem là biến động mạnh nhất trong số các hoạt động của nền kinh tế. Một
ví dụ điển hình chứng minh cho nhận định trên đó là trường hợp của bà Nguyễn Thị
Kim Phượng, cổ đông lớn của công ty Vật tư và vận tải xi măng (VTV). Chỉ với một
vài hành động chào mua công khai và bán ra cổ phiếu VTV âm thầm, bà đã thu về số
10
tiền bất chính lên đến hơn 16 tỷ đồng
7
– một khoản lợi nhuận khổng lồ mà chưa chắc
một công ty trong một năm có thể kiếm được. Việc hoành hành của tội phạm chứng
khoán còn thể hiện sự khinh thường pháp luật, làm ảnh hưởng đến trật tự quản lý của
nhà nước, góp phần kích thích các loại tội phạm khác phát triển. Với sức ảnh hưởng
sâu rộng và bản chất phức tạp, việc ngăn ngừa loại tội phạm nguy hiểm này là hết sức
cấp bách và cần phải được chú trọng.
- Đặc điểm thứ ba, diễn biến của quá trình tố tụng hình sự đối với tội phạm
chứng khoán có tác động hai chiều đến diễn biến thị trường, tâm lý nhà đầu tư
Trong năm 2010, khi cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ ông Lê Văn Dũng – Chủ
tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc công ty Dược Viễn Đông về hành vi thao
túng giá chứng khoán (sẽ được phân tích cụ thể ở chương sau), dư luận không khỏi
xôn xao và chờ đợi kết quả xử lý. Vì đây là vụ án về TPCK đầu tiên ở Việt Nam nên
tâm lý thị trường đã đặt sức ép lên các cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa ra kết quả

trong thời gian sớm nhất và hình phạt nghiêm khắc nhất. Mỗi thông tin được đưa ra
không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân người phạm tội mà còn với các chủ thể tham gia trên
thị trường, họ sẽ dựa vào đó để làm thước đo lòng tin, độ rủi ro và tiềm năng đầu tư ở
thời điểm hiện tại. Tác động hai chiều này vừa mang mặt tích cực vừa có tác động tiêu
cực. Sức ép sẽ là động lực khiến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc khẩn
trương, triệt để và có hiệu quả. Tuy nhiên, với một lĩnh vực phạm tội mới như TPCK,
đáng lẽ chúng ta phải đầu tư nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu, tìm hiểu thật kỹ
càng mới có thể đưa ra quyết định chính xác thì ở đây thời gian lại bị giới hạn triệt để.
Ngay cả quyết định được đưa ra cũng không phải là ý kiến độc lập của bản thân những
người thực thi pháp luật mà quyết định đó còn phải làm hài lòng tâm lý thị trường hiện
đang rất bất an. Chính đặc điểm nhạy cảm, phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý các chủ thể
tham gia của TTCK đã khiến TPCK trở thành một loại tội phạm mang đặc trưng riêng.
Để phù hợp với đặc điểm này, chúng ta cần có một cơ chế thông tin đầy đủ nhưng giới
hạn hợp lý những điều nên thông tin trong phạm vi quy định của pháp luật trong từng
giai đoạn của quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo ổn định thị trường, ổn định tâm lý nhà
đầu tư.
- Đặc điểm thứ tư, cấu thành của TPCK
7
Đỗ Thị Minh Phượng, Đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 07/2012
11
Thứ nhất, về chủ thể của TPCK: Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng
lực TNHS, đạt một độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể
8
. Pháp luật
hình sự Việt Nam vẫn chưa quy định về TNHS đối với tổ chức.
Chủ thể của loại tội phạm này bao gồm cả chủ thể đặc biệt và chủ thể thường. Chủ
thể thường là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (ví dụ chủ thể của tội
cướp tài sản là chủ thể thường, ai cũng có thể thực hiện hành vi cướp tài sản); chủ thể
đặc biệt là những người phải kèm theo những điều kiện nhất định mới có thể gây ra

hành vi phạm tội (ví dụ tội tham ô có chủ thể đặc biệt, vì chỉ có những người có chức
vụ mới có hành vi tham ô và bị kết vào tội này). Đối với TPCK, chủ thể đặc biệt xuất
hiện trong tội phạm về cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động giao dịch chứng khoán.
Thứ hai, về khách thể của TPCK: Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ
xã hội bị tội phạm xâm hại như: “…chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa”
9
và “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”
10
, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh
hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp thống trị được nhà nước bảo vệ bằng các
quy phạm pháp luật hình sự.
Nói một cách dễ hiểu, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Hành vi phạm tội của TPCK đã xâm phạm, gây rối loạn, làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của TTCK, xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước trong lĩnh
vực chứng khoán, đồng thời xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà đầu tư và các doanh
nghiệp có liên quan.
Dựa vào khách thể loại (nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, được nhóm các
quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội phạm), TPCK thuộc
8
Trang 45, Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy, Tập bài giảng Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.

9
Điều 1 Bộ luật Hình sự 2009
10
Khoản 1 điều 8 Bộ luật Hình sự 2009
12
nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý về kinh tế (chương XVI Bộ luật Hình sự
2009).
Đối tượng tác động của loại tội phạm này là các thông tin liên quan đến hoạt động
chứng khoán và giá của chứng khoán.
Thứ ba, về mặt chủ quan của TPCK: Mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm
lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó
gây ra, là mặt bên trong của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội
11
.
Lỗi là yếu tố bắt buộc phải có của cấu thành tội phạm. Lỗi gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Cố ý phạm tội được hiểu là người phạm tội nhận thức được hành vi phạm tội là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu
quả có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
12
;
Vô ý phạm tội được hiểu là người phạm tội tuy thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng
tin rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được, hoặc người phạm tội
không nhận thức được hậu quả mặc dù bắt buộc hoặc có thể nhận thấy
13
. Tất cả các
TPCK được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác định cấu thành
của tất cả các loại TPCK.
Thứ tư, về mặt khách quan của TPCK: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên
ngoài của tội phạm bao gồm những dấu hiệu của tội phạm, diễn ra và tồn tại bên ngoài

thế giới khách quan bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những biểu hiện bên
ngoài khác (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…)
14
.
Trong mặt khách quan của TPCK, hành vi cấu thành gồm các hành vi sau:
+ Một là, hành vi cố ý cố ý cung cấp thông tin sai lệch hoặc cố ý che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán.
+ Hai là hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán; tiết lộ, cung
cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán.
+ Ba là, hành vi thao túng giá chứng khoán.
11
Trang 45, Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy, Tập bài giảng Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh
12
Điều 9 Bộ luật Hình sự 2009
13
Điều 10 Bộ luật Hình sự 2009
14
Trang 44, Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy, Tập bài giảng Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh
13
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong tất cả các
cấu thành TPCK, tác giả sẽ phân tích kỹ hơn đối với từng tội phạm cụ thể ở phần sau.
1.2 Quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp
luật Việt Nam
1.2.1 Nguyên tắc đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán ở Việt Nam
Các hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua chỉ dừng lại
ở mức đơn giản. Chủ thể của hành vi chủ yếu là các cổ đông nội bộ, cổ đông lớn hoặc

nhân viên của công ty đại chúng – những đối tượng dễ dàng tiếp cận với nguồn thông
tin và thực hiện hành động phạm pháp, cũng là những đối tượng thuộc phạm vi mà cơ
quan nhà nước dễ dàng kiểm soát và điều tra. Tuy nhiên, về lâu dài, số lượng vụ việc
cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi vi phạm nói chung
và TPCK nói riêng sẽ ngày càng gia tăng, do vậy tăng cường đấu tranh phòng chống
TPCK cần được tiến hành khẩn trương và đảm bảo những nguyên tắc sau
15
:
Thứ nhất, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư: Khoản 3, Điều 4 Luật
Chứng khoán 2010 quy định rất rõ ràng đây là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Có thể nói nguyên tắc này đã
bao hàm đầy đủ ý nghĩa các nguyên tắc còn lại được quy định tại Điều 4 LCK (tôn
trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân;
công bằng, công khai, minh bạch; tự chịu trách nhiệm về rủi ro; tuân thủ quy định của
pháp luật). Trên TTCK, nhà đầu tư là chủ thể quan trọng nhất đảm bảo cho hoạt động
của thị trường được tiếp diễn; đồng thời, họ cũng chính là những chủ thể dễ bị tổn
thương nhất bởi rủi ro về thông tin sai lệch. Chính vì vậy, việc bảo vệ nhà đầu tư là
nguyên tắc tất yếu quan trọng, cũng là lý do chính khi nhà nước đưa ba điều luật mới
về TPCK vào Bộ luật Hình sự 2009.
Thứ hai, đảm bảo ổn định thị trường: thị trường chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi
các nhà đầu tư muốn tham gia đầu tư. Sự phát triển mạnh, yếu của TTCK phụ thuộc
phần lớn vào tâm lý nhà đầu tư. Chính vì vậy, việc ổn định tâm lý đầu tư, từ đó đưa thị
trường vào quỹ đạo phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ cần đặt ra trong
quá trình đấu tranh phòng chống TPCK. Như đã đề cập ở trên, để gây được lòng tin ở
15
Đỗ Thị Minh Phượng, Đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 07/2012
14
nhà đầu tư, ngoài việc tăng cường đấu tranh, nhanh chóng đưa các hành vi phạm tội ra
xét xử thì cần xây dựng cơ chế thông tin hợp lý, giới hạn những điều cần thiết phải

thông tin trong phạm vi quy định pháp luật trong quá trình giải quyết để tránh gây biến
động trên thị trường, đồng thời nên cân nhắc kỹ lưỡng việc hình sự hóa các loại vi
phạm về chứng khoán nhằm tạo tâm lý thoải mái khi thực hiện giao dịch trên thị trường
cho nhà đầu tư cũng như các chủ thể trung gian, phát hành.
Thứ ba, việc xử lý TPCK cần được tiến hành khẩn trương, triệt để bởi vì nếu để
thời gian càng lâu, các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm càng có phạm vi hoạt động
rộng và mức độ thiệt hại gây ra càng lớn. Đồng thời, việc nhanh chóng xử lý các hành
vi phạm tội sẽ góp phần đẩy lùi tâm lý phạm tội, mang tính răn đe và thức tỉnh các cá
nhân đang hoặc sẽ có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, việc thực thi phải được thực hiện
triệt để, tránh tình trạng sai lệch sẽ càng khiến tình hình tội phạm trở nên phức tạp và
gây kích động tâm lý các chủ thể trên thị trường.
Thứ tư, không ngừng tăng cường kiến thức về chứng khoán và TTCK cho các cán
bộ làm nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử: vì TPCK là loại tội phạm mới nên các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm cần dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về các yếu
tố có liên quan đến các tội danh này, đồng thời song song với quá trình xử lý tội phạm
cần thường xuyên tiến hành các buổi trao đổi nghiệp vụ, tổng kết rút kinh nghiệm để
từng bước nhận diện rõ ràng hơn hành vi phạm tội cũng như những biến dạng của
chúng để có biện pháp đối phó kịp thời.
Trên đây là các nguyên tắc cần được đảm bảo trong quá trình triển khai quy định
pháp luật, vậy pháp luật quy định cụ thể như thế nào tác giả sẽ phân tích ngay sau đây.
1.2.2 Quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo Bộ luật Hình
sự Việt Nam
Theo thông lệ của phần lớn các quốc gia trên thế giới thì lĩnh vực chứng khoán
thường được quy định theo xu hướng tránh bị hình sự hóa và nâng cao các biện pháp
về kinh tế. Còn nếu đã phạt hình sự thì sẽ có những hình thức trừng phạt thích đáng ở
mức rất cao. Tại Hoa Kỳ, trong lĩnh vực chứng khoán, cá nhân vi phạm có thể bị kết tội
hình sự lên đến 25 năm tù giam, bị phạt đến 5 triệu USD – tương đương hơn 10 tỷ
đồng Việt Nam (hoặc có thể bị áp dụng cả hai hình thức trên). Số tiền phạt cũng có thể
lên đến 25 triệu USD – tương đương hơn 50 tỷ đồng Việt Nam - trong những trường
15

hợp chủ thể phạm tội là tổ chức
16
. Có thể nói mức phạt này cao hơn rất nhiều so với
quy định của pháp luật Việt Nam (tối đa là 500 triệu đồng theo pháp luật hình sự).
Việc quy định tổ chức – pháp nhân cũng có thể bị truy cứu TNHS cũng là một điểm
khác biệt lớn giữa pháp luật hình sự Hoa Kỳ và pháp luật hình sự Việt Nam.
Các loại TPCK được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật Hoa Kỳ có thể kể
ra đây như: Cố ý vi phạm pháp luật về chứng khoán, sản xuất và sử dụng giấy tờ giả,
gian lận chứng khoán, gian lận điện tử, giao dịch nội gián, thao túng thị trường. Đặc
biệt có một loại tội phạm khá đặc biệt đó là giao dịch quyền chọn trước ngày đáo hạn
17
.
Ta có thể thấy rằng pháp luật hình sự Hoa Kỳ đã quy định cụ thể hơn, định ra nhiều
loại tội danh hơn và phạm vi cũng rộng hơn so với pháp luật Việt Nam hiện tại. Điều
này là không đáng ngạc nhiên vì Hoa Kỳ được xem là cái nôi của pháp luật về chứng
khoán với một TTCK đứng hàng đầu thế giới. Chúng ta nên tham khảo pháp luật Hoa
Kỳ nói riêng và các quốc gia tiên tiến khác nói chung để dần hoàn thiện hơn pháp luật
của mình. Vậy cụ thể quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này là như thế nào?
Sau khoảng thời gian bắt đầu làm quen với thị trường, giao dịch chứng khoán hiện
nay đã bám gần sát với giá trị thật của chứng khoán. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy một
thực tế đó là giá chứng khoán vẫn bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông, với tác động từ
các kênh thông tin chính xác và không chính xác. Những sự tác động không theo một
luật lệ nào và không thể kiểm soát rõ ràng đã và đang tác động tiêu cực đến hoạt động
đầu tư chứng khoán và pháp luật cần phải can thiệp mạnh hơn nữa để chấm dứt tình
trạng này. Trong quá trình xem xét và phân tích, ngoài Bộ luật Hình sự 2009, cần dẫn
chiếu đến các văn bản liên quan của pháp luật chuyên ngành chứng khoán (như Luật
Chứng khoán 2010, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 07 năm 2012 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của LCK và Luật SĐ, BS một số điều của
LCK (Nghị định số 58/2012/NĐ-CP) …) để có cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về
các hành vi phạm tội này.

1.2.2.1 Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán
Điều 181a Bộ luật Hình sự 2009 quy định về tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, theo đó:
16
Ronald W.Breaux, Daniel H.Gold, Criminal Enforcement of the U.S Securities Laws, Haynes and Boon LLP.
17
Ronald W.Breaux, Daniel H.Gold, Criminal Enforcement of the U.S Securities Laws, Haynes and Boon LLP.
16
“1. Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến
việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị
trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm
trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm”.
Tội danh này xuất hiện xuyên suốt trong chuỗi hoạt động chứng khoán bao gồm:
chào bán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký,
lưu ký, thanh toán, bù trừ chứng khoán.
Theo quy định trên, chủ thể của tội phạm là những “người cố ý công bố thông tin
sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt
động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh
toán chứng khoán”; nhưng dựa trên quy định của pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ

công bố thông tin thì có thể khẳng định đây là chủ thể đặc biệt. Cụ thể, người có nghĩa
vụ công bố thông tin được quy định trong Luật Chứng khoán 2010 và theo hướng dẫn
cụ thể tại Thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05 tháng 04 năm 2012 của Bộ Tài chính
hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (Thông tư số
52/2012/TT-BTC) gồm: công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái
phiếu ra công chúng, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty quản lý quỹ, công ty
đầu tư chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán và người có liên quan. Việc công bố
thông tin phải do người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc người được ủy quyền
công bố thông tin thực hiện. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải chịu trách
nhiệm về nội dung thông tin do người được ủy quyền công bố
18
. Như vậy, người trực
18
Điều 3 Thông tư số 52/2012/TT-BTC
17
tiếp thực hiện tội phạm chỉ có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc
người được ủy quyền công bố thông tin.
Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu theo hướng những chủ thể khác có thể bị kết tội đồng
phạm. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm. Đồng phạm trong TPCK bao gồm: người tổ chức (chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy
việc thực hiện tội phạm), người thực hành (người trực tiếp thực hiện tội phạm), người
xúi giục (người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm), người giúp
sức (tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm).
19
Ví dụ,
Giám đốc công ty đại chúng trước khi thực hiện hành vi phạm tội công bố thông tin sai
lệch hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng khoán có nhận được sự hỗ trợ của
trưởng phòng tài chính về phương án thực hiện tội phạm thì Giám đốc có thể bị truy
cứu TNHS về tội Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán (người tổ chức, người thực hành), còn trưởng phòng tài chính có thể bị

truy cứu TNHS về tội đồng phạm (người giúp sức).
Cũng căn cứ quy định trên, khách thể của tội phạm là các quy định của nhà nước
liên quan đến hoạt động chứng khoán đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khác trên thị trường. Hành vi này đã phá vỡ nguyên tắc công khai,
minh bạch được quy định tại Điều 4 Luật Chứng khoán 2010 – đây được xem là
nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động trên thị trường chứng khoán. Có thể thấy, thông
tin có vị trí đặc biệt quan trọng đối với TTCK, bởi vì nhà đầu tư phải dựa chủ yếu
trên cơ sở thông tin có liên quan để quyết định đầu tư. Pháp luật quy định nhà đầu tư có
quyền được nhận những thông tin chính xác, kịp thời và trung thực từ những chủ thể
có nghĩa vụ công bố thông tin. Khi nhận được thông tin liên quan từ những chủ thể
trên mà những thông tin này lại không đúng sự thật hoặc đã bị che giấu một phần
quan trọng thì khả năng nhận diện quy luật thị trường của các nhà đầu tư đã bị làm
sai lệch và quyết định đầu tư sai lầm là điều khó tránh khỏi. Điều này không chỉ
xâm phạm quyền được thông tin của các nhà đầu tư mà còn gây ra các thiệt hại về tài
sản cho họ
20
.
Hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán có đối tượng tác động là các thông tin, sự thật về tất cả các hoạt động liên quan
19
Điều 20 Bộ luật Hình sự 2009
20
Phan Anh Tuấn, Các tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm này, Tạp chí Khoa học pháp lý số 04/2011
18
đến chứng khoán: chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ
chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán. Người phạm tội có
thể tác động tới những thông tin có ý nghĩa như số liệu, tình hình tài chính, quyết định
của Hội đồng cổ đông… những thông tin này có thể ảnh hưởng đến giá chứng khoán
hoặc đến chiều hướng phát triển của TTCK.

Xét về mặt chủ quan của tội phạm, người phạm tội có lỗi cố ý. Họ biết rõ hành vi
của mình gây nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng nhưng vẫn mong muốn
thực hiện.
Về mặt khách quan của tội phạm, có hai loại tội phạm khác nhau được nhắc đến:
+ Thứ nhất là hành vi công bố thông tin sai lệch, nghĩa là công bố thông tin
không chính xác, không trung thực, không đúng với sự thật hoặc có khả năng gây hiểu
nhầm liên quan đến hoạt động chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh
chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán.
Những thông tin này có thể có nội dung liên quan đến việc mua lại cổ phiếu, bán cổ
phiếu quỹ, kết quả giao dịch, hồ sơ niêm yết tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch
chứng khoán… Việc công bố thông tin trên TTCK hiện nay được thực hiện theo quy
định tại Thông tư số 52/2012/TT-BTC.
+ Thứ hai là hành vi che giấu sự thật, nghĩa là hành vi không công bố thông tin
bắc buộc theo quy định của pháp luật hoặc công bố không đầy đủ, không kịp thời
những thông tin do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu khi có sự cố bất thường
xảy ra trên TTCK liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán. Những thông tin
này có thể là các sự kiện ảnh hưởng đến giá chứng khoán (ví dụ như ký kết hoặc hủy bỏ
một hợp đồng kinh tế lớn, sáp nhập, chia tách công ty…); chào mua công khai; giao
dịch của tổ chức, cá nhân, nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu
có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng có sự thay đổi về số lượng cổ phiếu
vượt quá 1% số lượng cổ phiếu cùng loại đang lưu hành… Những sự thật này cần được
thông báo cho các nhà đầu tư biết để có kế hoạch điều chỉnh đầu tư hoặc để cơ quan
nhà nước nắm rõ tình hình nhằm có hướng xử lý sự cố kịp thời, đảm bảo hoạt động ổn
định của thị trường.
Tội phạm này có cấu thành vật chất, tội phạm chỉ được xem là hoàn thành khi gây
ra hậu quả nghiêm trọng. Nói cách khác, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách
quan và hậu quả do hành vi khách quan gây ra là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Người
19
thực hiện hành vi chỉ chịu TNHS về hành vi của mình nếu cơ quan tố tụng chứng minh
được hậu quả nghiệm trọng xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi đó.

Tùy theo mức độ mà Hình phạt dành cho tội phạm cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán có thể là:
+ Phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng;
+ Cải tạo không giam giữ đến hai năm;
+ Phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
Phạm tội trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
+ Có tổ chức;
+ Thu lợi bất chính lớn;
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Nhìn chung quy định về tội phạm Công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán tại Điều 181a Bộ luật Hình sự 2009 là tương đối hợp lý
và đầy đủ.
1.2.2.2 Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
Điều 181b Bộ luật Hình sự 2009 quy định về tội sử dụng thông tin nội bộ để mua
bán chứng khoán, theo đó:
“1. Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng
khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua
bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua
bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn, thì bị phạt tiền từ một
trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
20

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.”
Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán được quy định tại điều 181b
Bộ luật Hình sự 2009 đề cập đến thông tin nội bộ liên quan đến công ty đại chúng
(công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng hoặc có cổ phiếu được niêm
yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc là công
ty cổ phần có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở
lên)
21
hoặc quỹ đại chúng (quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ
ra công chúng)
22
.
Căn cứ theo quy định trên, chủ thể của tội phạm là người biết được thông tin nội
bộ của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng, bao gồm những người sau:
+ Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc của công ty đại chúng; thành viên Ban đại
diện quỹ đại chúng;
+ Cổ đông lớn của công ty đại chúng, quỹ đại chúng;
+ Người kiểm toán báo cáo tài chính của công ty đại chúng, quỹ đại chúng;
+ Người khác tiếp cận được thông tin nội bộ trong công ty đại chúng, quỹ đại
chúng;
+ Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và người
hành nghề chứng khoán của công ty;
+ Tổ chức, cá nhân có quan hệ hợp tác kinh doanh, cung cấp dịch vụ với công
ty đại chúng, quỹ đại chúng và cá nhân làm việc trong tổ chức đó;
+ Tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp có được thông tin nội bộ từ những
đối tượng trên.

23
Như vậy chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi nhất định và
biết được thông tin nội bộ.
Về khách thể của tội phạm, việc sử dụng thông tin nội bộ nhằm thu lợi bất chính
đã phá vỡ nguyên tắc công bằng trên thị trường được quy định tại Điều 4 Luật Chứng
21
Điều 25.1 LCK.
22
Điều 6.28 LCK.
23
Điều 6.33 LCK.
21
khoán 2010, đồng thời vi phạm Điều 9 Luật Chứng khoán 2010 về những hành vi bị
cấm.
Bên cạnh đó, hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán đã gây
thiệt hại cho các nhà đầu tư khác – những người bất lợi hơn rất nhiều so với những
người được tiếp cận với thông tin nội bộ. Những người ở thế chủ động về thông tin sẽ
có kế hoạch mua bán chứng khoán nhằm thu lợi nhuận hoặc tránh lỗ trong khi những
người còn lại không hề có bất kỳ cơ sở nào để thực hiện giao dịch, họ chỉ có thể đứng
nhìn hậu quả bất lợi xảy ra khi thông tin chính thức được công bố.
Về mặt chủ quan của tội phạm, người phạm tội có lỗi cố ý, dù biết việc sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán là trái pháp luật nhưng vì trục lợi nên vẫn
thực hiện; mục đích “thu lợi bất chính lớn” là dấu hiệu định tội.
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện thông qua các hành vi sau đây:
+ Sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
+ Tiết lộ, cung cấp thông tin này cho người khác mua bán chứng khoán, dù cố ý
hay vô ý
24
;
+ Tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán.

“Thu lợi bất chính lớn” là điều kiện bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Việc tiết lộ, cung cấp hoặc tư vấn thông tin nội bộ phải dẫn đến kết quả là người
được tiết lộ, cung cấp, tư vấn tiến hành mua bán chứng khoán thu lợi bất chính lớn. Vì
nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp, tiết lộ, tư vấn mà bên thứ ba không tiến hành bất kỳ
giao dịch nào sau khi biết thông tin nội bộ thì không cấu thành tội này.
Người phạm tội phải đối mặt với một trong các hình phạt sau :
+ Bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng;
+ Cải tạo không giam giữ đến ba năm;
+ Phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Người phạm tội bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm trong các trường hợp sau:
+ Có tổ chức;
+ Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
+ Gây hậu quả nghiêm trọng;
+ Tái phạm nguy hiểm.
24
Điều 70.1 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP.
22
Trong số các loại TPCK thì tội phạm giao dịch nội gián được đánh giá là mang
tính chất nghiêm trọng và diễn ra phổ biến nhất tại Hoa Kỳ cũng như các quốc gia có
TTCK phát triển. Vì vậy tác giả xin đưa ra một số đặc điểm cơ bản của loại tội này
trong tương quan so sánh với pháp luật Hoa Kỳ.
Đối với tội phạm giao dịch nội gián, cá nhân của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có
liên quan, từ nhân viên của công ty luật, ngân hàng, môi giới, công ty in ấn, và thậm
chí nhân viên Chính phủ đều có thể bị truy tố nếu mua bán chứng khoán dựa trên
nguồn thông tin nội bộ chưa được công khai
25
. Dưới đây là những trường hợp bị liệt
vào giao dịch nội gián bất hợp pháp theo quy định của Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ:
- Giám đốc, cán bộ và những nhân viên giao dịch chứng khoán của chính công ty
mình khi biết trước những thay đổi quan trọng và chưa được công bố.

- Bạn bè, đối tác kinh doanh và các thành viên gia đình của các đối tượng trên sử
dụng thông tin nêu trên để thực hiện các giao dịch chứng khoán.
- Nhân viên của các công ty luật, ngân hàng, môi giới và công ty in ấn (những
người nhận thông tin để cung cấp dịch vụ) thực hiện giao dịch chứng khoán dựa trên
nguồn thông tin biết trước thị trường.
- Nhân viên Chính phủ thực hiện giao dịch mua/bán dựa trên nguồn thông tin biết
được từ công việc hay những mối quan hệ công việc.
- Những người đã chiếm dụng và lợi dụng nguồn thông tin mật từ ban lãnh đạo
hay người chủ sử dụng lao động.
26
Chúng ta có thể thấy về mặt chủ thể, pháp luật của hai quốc gia có điểm tương
đồng khi quy định phạm vi khá rộng, tuy nhiên luật hình sự của Hoa Kỳ đã quy định cụ
thể hơn rất nhiều, còn quy định hình sự của Việt Nam vẫn mang tính chung chung,
khái quát. Thêm vào đó, pháp luật Hoa Kỳ đã thể hiện kỹ thuật lập pháp vượt trội khi
đưa các đối tượng “Những người đã chiếm dụng và lợi dụng nguồn thông tin mật từ
ban lãnh đạo hay người chủ sử dụng lao động” để đề cập đến các chủ thể có được
thông tin nội bộ một cách bất hợp pháp – điều mà pháp luật Việt Nam đã không quy
định.
1.2.2.3 Tội thao túng giá chứng khoán
25
/>26
/>23
Tội thao túng giá chứng khoán được quy định tại Điều 181c Bộ luật Hình sự 2009,
theo đó:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây
gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả
tạo;
b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua

bán.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm”.
Căn cứ vào quy định trên có thể thấy chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường,
là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Về mặt khách thể của tội phạm, tội thao túng giá chứng khoán đã xâm phạm các
quy định của nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, một số trường hợp gây
thiệt hại cho các tổ chức niêm yết và các nhà đầu tư khác trên thị trường.
Về mặt chủ quan, tội phạm có lỗi cố ý. Người phạm tội ý thức được sự nguy hiểm
có thể xảy ra đối với tổ chức niêm yết nói riêng và toàn thị trường nói chung nhưng vì
trục lợi nên vẫn cố tình thực hiện.
Điều 181c Bộ luật Hình sự 2009 đã nêu ra mặt khách quan của tội phạm gồm hai
hành vi:
+ Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả;
+ Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục
mua bán chứng khoán.
24
Trong khi Bộ luật Hình sự 2009 chỉ quy định hai hành vi một cách chung chung,
Nghị định số 58/2012/NĐ-CP đã quy định cụ thể hơn rất nhiều, phân hành vi thao túng
giá chứng khoán thành sáu hành vi khác nhau:
+ Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác
hoặc thông đồng với nhau liên tục mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả
tạo;

+ Một người hay một nhóm người thông đồng với nhau đặt lệnh mua và bán
cùng loại chứng khoán trong cùng ngày giao dịch hoặc thông đồng với nhau giao dịch
mua bán chứng khoán mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc
quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá chứng
khoán, cung cầu giả tạo;
+ Liên tục mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng chi phối vào thời điểm mở
cửa hoặc đóng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho
loại chứng khoán đó trên thị trường;
+ Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt
lệnh mua, bán chứng khoán gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá chứng khoán, thao
túng giá chứng khoán;
+ Đưa ra ý kiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện thông
tin đại chúng về một loại chứng khoán, về tổ chức phát hành chứng khoán nhằm tạo
ảnh hưởng đến giá của loại chứng khoán đó sau khi đã thực hiện giao dịch và nắm giữ
vị thế đối với loại chứng khoán đó;
+ Sử dụng các phương thức hoặc thực hiện các hành vi giao dịch khác để tạo
cung cầu giả tạo, thao túng giá chứng khoán.
27
Đặc biệt, tội phạm có cấu thành vật chất, chỉ hoàn thành khi gây ra hậu quả nghiêm
trọng.
Người phạm tội có thể phải đối mặt với một trong các hình phạt sau:
+ Bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng;
+ Cải tạo không giam giữ đến ba năm;
+ Phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Người phạm tội bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm trong các trường hợp sau:
+ Có tổ chức;
27
Điều 70.2 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP
25
+ Thu lợi bất chính lớn;

+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Việc quy định cấu thành của tội phạm thao túng giá chứng khoán còn vướng mắc ở
quy định về mặt khách quan của tội phạm, các hành vi phạm tội không chỉ được lập
quy định đóng mà còn thiếu rõ ràng, cụ thể. Hạn chế này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn
trong quá trình điều tra và kết luận tội phạm.
Nhìn chung, TPCK có khung hình phạt thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. Theo
quy định của pháp luật hình sự, tội ít nghiêm trọng: hình phạt tù tối đa đến 3 năm; tội
nghiêm trọng: đến 7 năm tù; tội rất nghiêm trọng: đến 15 năm và tội đặc biệt nghiêm
trọng: từ 15 năm trở lên
28
, các tình tiết tăng nặng ở ba loại tội phạm được xác định có
điểm tương đồng. Ngoài các hình phạt kể trên, TPCK còn có thể chịu hình phạt bổ
sung: bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm.
Người phạm tội có thể được xem là không có tội nếu rơi vào một trong các trường
hợp: Sự kiện bất ngờ
29
, phòng vệ chính đáng
30
hoặc tình thế cấp thiết
31
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự 2009 còn quy định các trường hợp được miễn trừ khác
Bộ luật Hình sự 2009 bao gồm: Hết thời hiệu truy cứu TNHS
32
, tội phạm không còn
nguy hiểm cho xã hội hoặc khi người phạm tội cố gắng giảm thiểu hậu quả do hành
động của mình gây ra
33

.
1.2.3 Những quy định mới về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán trong dự
thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự quy
định các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán, chứng khoán (dự thảo số
5 – hoàn thành ngày 20/06/2012)
Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự quy định
các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán, chứng khoán đã mất một thời
28
Điều 8.3 Bộ luật Hình sự 2009
29
Điều 11 Bộ luật Hình sự 2009
30
Điều 15 Bộ luật Hình sự 2009
31
Điều 16 Bộ luật Hình sự 2009
32
Điều 23 Bộ luật Hình sự 2009
33
Điều 25 Bộ luật Hình sự 2009

×