Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hính sự theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.2 KB, 89 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Vế XUN MO

CĂN Cứ, CƠ Sở KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự
THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Vế XUN MO

CĂN Cứ, CƠ Sở KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự THEO
LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM (Trên cơ
sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN TT VIN

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Võ Xuân Mão


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ VÀ CƠ SỞ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................................................................. 4
1.1.

Khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự.....4


1.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự..................................................... 4
1.1.2. Những yêu cầu đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.......................7
1.2.

Khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự..............................10

1.2.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự..............................................................10
1.2.2. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự................................................................13
1.3.

Căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự
của một số quốc gia..........................................................................19

1.3.1. Trung Quốc.........................................................................................19
1.3.2. Liên bang Nga.................................................................................... 20
1.3.3. In-đô-nê-xia........................................................................................21
1.3.4. Một số quốc gia khác..........................................................................22
Tiểu kết chƣơng 1.........................................................................................25
Chƣơng 2: CĂN CỨ, CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945
ĐẾN NAY......................................................................................................................... 26
2.1.

Các quy định pháp luật về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự
từ 1945 đến trƣớc 1988....................................................................26


2.2.

Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự

năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 31

2.2.1. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 31
2.2.2. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 36
2.3.

Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm năm 2015

40

Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................... 47
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ CĂN CỨ, CƠ SỞ KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở HÀ TĨNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1.

Khái quát tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa
bàn Hà Tĩnh trong các năm 2010-2016

3.2.

48
48

Những vƣớng mắc, hạn chế trong việc áp dụng các quy định
về cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn của Hà
Tĩnh và một số kiến nghị

60


3.2.1. Những vướng mắc về pháp luật..........................................................60
3.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về căn cứ, và cơ sở
khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn Hà Tĩnh

63

3.2.3. Một số kiến nghị.................................................................................65
Tiểu kết chƣơng 3......................................................................................... 68
KẾT LUẬN....................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................71


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP:

Cải cách Tư pháp

KKT:

Khu kinh tế

TAND:

Tòa án nhân dân


TTHS:

Tố tụng hình sự

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã Hội Chủ Nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật tố tụng hình sự là phương tiện của nhà nước đương đại nhằm
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội và người thực hiện tội
phạm. Tuy nhiên, phụ thuộc vào kiểu tố tụng, mô hình tố tụng và truyền thống
pháp luật mỗi nhà nước có cách thức thực hiện khác nhau. Việc lựa chọn quy
định cách thức nào để khởi động tố tụng hình sự đối với vụ án do đặc điểm cụ
thể của mỗi quốc gia quy định. Tuy nhiên, mục đích chung hướng đến là nhà
nước phải chủ động nắm được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, xử
lý tội phạm, kiểm soát được tội phạm, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình
sự, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay không dấu hiệu tội phạm

để quyết định đưa vụ việc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự, đây là giai
đoạn đầu tiên, mở đầu cho các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình sự trong vụ
án hình sự. Giai đoạn này bắt đầu từ việc tiếp nhận và phát hiện các nguồn
thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự có căn cứ
đúng pháp luật làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo, ngược lại khởi tố không
có căn cứ pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt
tội phạm.
Thời gian qua, đã có nhiều bài báo, công trình khoa học, đề tài luận
văn, luận án đề cập dưới nhiều giác độ khác nhau nghiên cứu về: lý luận, thực
tiễn pháp luật thực định về khởi tố vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu
đã luận giải về tầm quan trọng, ý nghĩa và nội dung của chế định khởi tố vụ
án hình sự. Qua các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy:

1


a)

Có rất ít công trình nghiên cứu về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình

sự. Mặt khác, thực tiễn hoạt động khởi tố vụ án hình sự còn nhiều bất cập
trong đó có nguyên nhân từ các quy định pháp luật tố tụng hình sự mà nội
dung chưa rõ ràng, cần phải tiếp tục nghiên cứu.
b)

Chưa có công trình nào nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự trên địa
bàn một tỉnh, cụ thể như tỉnh Hà Tĩnh.

Từ công việc thực tiễn của học viên và được sự gợi ý của Bộ môn Luật
hình sự, học viên đã chọn đề tài: “Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo
Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)”
làm Luận văn tốt nghiệp cao học.
2.

Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

2.1. Mục đích
Làm sáng tỏ về lý luận những căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đồng thời, thông qua việc phân tích,
đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án
hình sự, xác định những nguyên nhân của kết quả cũng như hạn chế từ đó
kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn chế
định này.
2.2. Phạm vi: Luận văn thực hiện trên cơ sở thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh trong
áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về khởi tố vụ án hình sự.

2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật,
đặc biệt là những chế định trong Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình
sự và thực tiễn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch

2


sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong đó có hệ thống cơ quan tư pháp.

Chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp thể hiện
trong các nghị quyết: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, 48-NQ/TW ngày
24/5/2005, 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể được luận văn sử dụng bao gồm: phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê... được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
4. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần làm rõ hơn khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự;
việc áp dụng căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự vào thực tiễn ở tỉnh Hà Tĩnh
Điểm mới của luận văn:
từ

Làm rõ hơn cơ sở lý luận về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự

thực tiễn của một tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh.
-

Đánh giá việc thực hiện các quy định về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án

hình sự từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh;
Đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về
căn cứ,
cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự.

Chương 2: Các quy định pháp luật về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình
sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 3: Áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về căn cứ, cơ sở

khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh và một số kiến nghị.


3


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ VÀ
CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự
Để nghiên cứu về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự trước hết cần tìm
hiểu ý nghĩa, vai trò, đặc điểm và những yêu cầu đặt ra cho giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự với ý nghĩa là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự.

1.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự
Trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, yêu cầu mà pháp luật hình sự đặt
ra là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,
công minh theo đúng pháp luật. Thực hiện yêu cầu đó, các cơ quan tiến hành
tố tụng phải có một quá trình thu thập chứng cứ làm rõ tội phạm, sử dụng các
biện pháp cần thiết để ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra. Khi sự
việc có dấu hiệu của tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền phải làm sáng tỏ có
hay không có sự việc phạm tội, ai là người phạm tội và có thỏa mãn dấu hiệu
của cấu thành tội phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và những vấn đề khác có liên quan của vụ án... việc làm sáng
tỏ các tình tiết của vụ án trải qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn đó
bao gồm: khởi tố, điều tra, xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên
của quá trình tố tụng, bắt đầu bằng việc phát hiện những thông tin về tội phạm
và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Việc khởi tố vụ án hình sự là thể hiện nguyên tắc trách nhiệm của nhà

nước trong khởi tố và xử lý vụ án hình sự, là sự chính thức thừa nhận sự tồn
tại của một vụ án, khẳng định trên thực tế có sự kiện phạm tội đã xảy ra. Về
mặt lý luận Luật tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự là một khái niệm được

4


hiểu ở các góc độ khác nhau. Trước hết, khởi tố vụ án hình sự là một chế định
pháp lý, tập hợp những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về trình tự và thủ
tục khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được coi là một hành
vi tố tụng mà từ đó hoạt động điều tra tội phạm bắt đầu được tiến hành. Thứ
ba, khởi tố vụ án hình sự được coi là một giai đoạn tố tụng độc lập trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Cũng như các giai đoạn khác của tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự
có mục đích và nhiệm vụ riêng. Nếu như mục đích chung của tố tụng hình sự
là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, thì mục đích cụ
thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định tội phạm và phát hiện
người phạm tội, củng cố các dữ kiện, xác định các dấu hiệu của tội phạm bảo
đảm phản ứng mau lẹ của Nhà nước trước hành vi phạm tội, góp phần ngăn
ngừa và xử lý kịp thời tội phạm và người phạm tội. Mục đích và nhiệm vụ này
đều tuân thủ mục đích và nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là phát hiện
chính xác, nhanh chóng kịp thời và công minh mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự sự thể hiện việc tiếp nhận, xử lý tin báo và tố giác về tội
phạm, xác minh các tin báo, tố giác đó để kiểm tra tính hợp pháp của các lý
do và căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn này cũng có nhiệm vụ làm rõ
các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ việc, phòng ngừa và ngăn chặn tội
phạm, giữ gìn, bảo quản các dấu vết của vụ án. Có thể nói, việc khởi tố vụ án
hình sự tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xác định người

phạm tội và tội phạm ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Với mục đích và nhiệm vụ quan trọng như vậy, khởi tố vụ án hình sự có
nhiều ý nghĩa. Trước hết, về mặt chính trị - xã hội, khởi tố thể hiện việc phản
ứng kịp thời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đấu tranh

5


chống tội phạm trên phương diện pháp luật hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là
một biện pháp rất quan trọng để xác định sự thật của vụ án và truy cứu trách
nhiệm hình sự người có hành vi phạm tội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; ngăn chặn, phòng ngừa các hành
vi phạm tội. Và điều quan trọng hơn là khẳng định trên thực tế „„nguyên tắc
không tránh khỏi hình phạt‟‟ của người có hành vi phạm tội. Việc khởi tố kịp
thời các vụ án hình sự còn góp phần đấu tranh chống tội phạm “ẩn”. Theo
nhận xét của nhiều nhà khoa học pháp lý hình sự, tình trạng tội phạm “ẩn”
vẫn còn là vấn đề nan giải với nhiều nguyên nhân khác nhau và ở các mức độ
khác nhau. Vì vậy, việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự là yếu tố quan trọng
làm giảm tội phạm “ẩn” trong tình hình hiện nay.
Bên cạnh đó khởi tố vụ án hình sự có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại
trừ tố tụng đối với vụ việc, cũng cần thấy rõ là nếu không khởi tố vụ án khi đã
có dấu hiệu tội phạm, hoặc khởi tố vụ án không kịp thời thì dễ dẫn đến việc
tội phạm bị bỏ lọt, bị che giấu, chứng cứ bị thất thoát, bị tiêu hủy làm cho việc
điều tra xử lý khó khăn. Ngược lại, giai đoạn khởi tố còn có nhiệm vụ làm rõ
các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ án. Khi có những căn cứ pháp luật quy
định không được khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp
hành để tránh oan, sai. Việc khởi tố cũng như không khởi tố vụ án theo đúng
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự sẽ tạo niềm tin cho xã hội vào sự
công minh của pháp luật, đồng thời cũng tiết kiệm chi phí của xã hội, nhà
nước và công dân.

Thứ hai, ý nghĩa pháp lý của việc khởi tố vụ án hình sự được thể hiện ở
chỗ khi các cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố hình sự là thời điểm bắt
đầu áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, tính độc lập

6


của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác trong quá trình tố
tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau; giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai
đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực
hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án thì không
được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn
chặn. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền chỉ được phép tiến
hành các biện pháp kiểm tra, xác minh nguồn tin mà không được phép tiến
hành bất cứ các biện pháp cưỡng chế tố tụng nào ngoại trừ một số trường hợp
được pháp luật quy định do không thể trì hoãn như khám nghiệm hiện trường,
bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang . Tuy quyết định khởi
tố vụ án hình sự chỉ là sơ bộ đánh giá hành vi phạm tội nhưng cũng đã chỉ ra
rằng tội phạm bị khởi tố là tội gì. Chỉ sau khi khởi tố vụ án hình sự thì các
hoạt động điều tra, khởi tố và hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại, khám xét, bắt bị can để tạm giam, đối chất, nhận dạng... mới
được tiến hành (trừ hành vi tố tụng cấp thiết như khám nghiệm hiện trường).
Cũng từ giai đoạn này, các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có
thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng được xác lập.
1.1.2. Những yêu cầu đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự phải xuất phát từ mục đích của pháp luật hình sự.
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh

phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội,
trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi
trường xã hội an toàn, lành mạnh, nhân văn. Để đạt mục tiêu này, nhà nước sử
dụng các biện pháp tổng hợp để đạt mục tiêu đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi

7


tội phạm ở mức độ thấp nhất. Vì vậy, việc khởi tố vụ án hình sự trước hết xuất
phát từ phương diện đấu tranh chống tội phạm trong khung khổ pháp luật hình
sự. Từ đó, nhiệm vụ đặt ra cho tố tụng hình sự nói chung, giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự nói riêng là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người,quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Khởi tố vụ án hình sự phải tuân theo các thủ tục của mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam.Trên thế giới hiện nay tồn tại ba mô hình tố tụng hình sự là:
mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình kết hợp
giữa thẩm vấn và tranh tụng. Với mỗi kiểu tố tụng đó hình thành mô hình
tương ứng: kiểu tố tụng thẩm vấn hình thành nên mô hình kiểm soát tội phạm;
kiểu tố tụng tranh tụng hình thành nên mô hình tố tụng tranh tụng. Còn mô
hình thứ ba là sự kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng hiện đang được một số
quốc gia áp dụng, tuy mức độ kết hợp có khác nhau (Mêxicô, Liên bang Nga,
Nhật Bản, Hàn Quốc…). [33, tr.18-35].
Hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam hiện đang áp dụng mô hình tố tụng
hình sự thẩm vấn (xét hỏi), thể hiện qua những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tố tụng hình sự Việt Nam xác định vai trò chứng minh tội

phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, tố tụng hình sự Việt Nam
xác định vai trò chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự, không coi đó là trách nhiệm của bị cáo. Bị cáo có quyền nhưng
không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Nhà nước trực tiếp là cơ quan
tư pháp có thẩm quyền chủ động phát động quá trình tố tụng và chấm dứt tố
tụng theo các quy định pháp luật do mình ban hành. Như vậy, việc giải quyết

8


vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Trong khi đó, mô
hình tố tụng tranh tụng nhấn mạnh một quy trình tìm kiếm bằng chứng nặng
tính hình thức thông qua tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, với vị trí
bình đẳng của các bên tranh tụng, xác định trách nhiệm và khả năng chứng
minh của các bên trong quá trình tố tụng đối với vụ án.
Thứ hai, tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án
thành các giai đoạn tố tụng.
Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự
thành các giai đoạn tố tụng (giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử). Ở
từng giai đoạn khác nhau, có những thành phần chủ thể khác nhau nhưng đều
hướng đến một mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan, tìm đến
chân lý của sự việc. Trong mỗi giai đoạn tố tụng có sự phân định tương đối
rành mạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố
tụng, quy định cụ thể và chặt chẽ thời hạn của từng hoạt động tố tụng và thời
hạn áp dụng từng biện pháp cưỡng chế tố tụng. Các giai đoạn tố tụng được
tiến hành gắn liền và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trước làm tiền đề cho giai
đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt được của
giai đoạn tố tụng trước.
Thứ ba, tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án

bằng phương pháp điều tra, thẩm vấn. Đây là phương pháp chủ yếu được sử
dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng, bắt đầu là việc khởi tố vụ án hình sự. Trong
giai đoạn điều tra, điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật
quy định để thu thập chứng cứ. Khi hồ sơ vụ án được chuyển sang cho Viện
kiểm sát đề nghị truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra quyết
định truy tố hoặc không truy tố người phạm tội. Tại phiên toà, phương pháp điều
tra, thẩm vấn là phương pháp chủ yếu được áp dụng. Tuy nhiên, theo tinh thần
cải cách tư pháp, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Việc

9


tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại phiên tòa; việc ra bản án phải
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa góp phần bảo đảm thủ tục tố tụng
dân chủ, quyền con người, quyền công dân được thực hiện tốt hơn.
Tố tụng hình sự Việt Nam xác định bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Tố tụng hình sự của bất kỳ hệ
thống quốc gia dân chủ nào cũng đều phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ:
vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để công lý được thực
thi nhưng lại vừa phải làm thế nào để trên con đường đi tìm sự thật và công lý
thì quyền của tất cả những người có liên quan đều phải được tôn trọng, bảo
đảm và bảo vệ. Tư pháp là lĩnh vực gắn trực tiếp với số phận con người,
quyền về nhân thân và quyền tài sản của họ là lĩnh vực dễ xảy ra những vi
phạm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy việc khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự cần phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật,
trước hết là pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm công lý của chế độ,
quyền con người, quyền công dân. Những hành vi xâm phạm đến quyền con
người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp là vi phạm Hiến pháp, pháp
luật cần được xử lý nghiêm khắc. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã có
nhiều quy định mới mang tính nguyên tắc về bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp.
1.2. Khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Khi một sự kiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra được thông tin đến các cơ
quan tiến hành tố tụng sẽ làm phát sinh mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ
thể có liên quan đến việc giải quyết sự kiện có dấu hiệu tội phạm. Với góc độ
là giai đoạn của tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi cơ quan
có thẩm quyền giải quyết tin báo tội phạm tiếp nhận thông tin về sự việc có
dấu hiệu tội phạm theo thủ tục luật định để xem xét giải quyết, kết thúc khi cơ

10


quan này quyết định theo một trong hai phương án là quyết định khởi tố vụ án
hình sự (khi xác định có dấu hiệu tội phạm) hoặc quyết định không khởi tố vụ
án hình sự (khi xác định không có dấu hiệu tội phạm). Căn cứ để khởi tố vụ
án hình sự là “dấu hiệu tội phạm” cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự. Để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không, cần dựa vào lý luận
pháp luật hình sự, trong đó xác định tội phạm là hiện tượng xã hội với bốn
dấu hiệu: (1) tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; (2) tính có lỗi; (3) tính
trái pháp luật hình sự; (4) tính chịu hình phạt [4, tr.105-107]. Như vậy, về mặt
pháp lý, căn cứ khởi tố vụ án hình sự đã được xác định là “dấu hiệu của tội
phạm”, nghĩa là chỉ được khởi tố khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm,
khi có đủ các đặc điểm của tội phạm thì mới có cơ sở xác định “có dấu hiệu
tội phạm” và khi đó mới (có thể) ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính phản ánh bản
chất xã hội và thuộc tính khách quan của tội phạm, thể hiện ở việc gây thiệt hại
hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của
luật hình sự. Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng nhất, quyết định những thuộc
tính khác của tội phạm, là căn cứ để phân loại tội phạm. Bộ luật hình sự coi tội

phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ. Những hành vi tuy có dấu hiệu
của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không
phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó
gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý. Luật hình sự Việt Nam không chấp
nhận việc quy tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội
mà không căn cứ vào lỗi của người thực hiện hành vi đó.

11


Tính trái pháp luật hình sự là đặc điểm pháp lý hình thức của tội phạm
thể hiện qua việc quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, dựa theo nguyên tắc của Luật La mã: không
có luật quy định thì không quy tội. Những hành vi được coi là trái pháp luật
cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Luật
hình sự, nghĩa là bị luật hình sự cấm, bị nhà làm luật coi là tội phạm, có lỗi
trong khi thực hiện hành vi thì mới bị coi là tội phạm. Tính trái pháp luật là
căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.
Tính chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành
vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình
phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm
cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái
pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt.

Tuy nhiên, trong giới luật có những ý kiến khác nhau về căn cứ khởi tố

vụ án hình sự. Một số tác giả cho rằng: căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là khi
có được những thông tin thực tế khách quan về hành vi phạm tội [32, tr.76]. Ý
kiến thứ hai cho rằng: căn cứ khởi tố vụ án hình sự là có sự việc xảy ra và sự
việc đó có dấu hiệu tội phạm [42, tr.154]. Ý kiến thứ ba cho rằng: có dấu hiệu
tội phạm là căn cứ cần và đủ để khởi tố vụ án hình sự [34, tr.200]. Còn theo
tác giả Lưu Thanh Hùng, các ý kiến trên đây đều xuất phát từ cặp phạm trù
nội dung - hình thức để phân tích, lý giải căn cứ khởi tố, nhưng do đặt trong
mối quan hệ khác nhau và phương diện tiếp cận khác nhau nên dẫn đến sự
giải thích khác nhau. Trên cơ sở lý luận chứng cứ và đặt căn cứ khởi tố trong
mối quan hệ với nguồn tài liệu chứa đựng phản ánh nó thì căn cứ khởi tố được
giải thích là chứng cứ chứng minh (xác định) có dấu hiệu tội phạm. Đặt trong
mối quan hệ giữa Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự thì căn cứ khởi tố được
giải thích là dấu hiệu của tội phạm [22]. Dấu hiệu tội phạm chính là

12


những tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội nói chung, chưa phải tài liệu về
người phạm tội cụ thể nào.
Như vậy, dấu hiệu của tội phạm được coi là căn cứ để khởi tố là những
thuộc tính của tội phạm: tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính có lỗi;
tính trái pháp luật hình sự; tính chịu hình phạt. Đó là những biểu hiện, những
“khía cạnh” của tội phạm được chứng minh, xác định bằng chứng cứ cụ thể.
Khi khởi tố vụ án hình sự, mới chỉ dừng lại ở việc xác định các dấu hiệu (biểu
hiện) của tội phạm, chưa phải là xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm. Tuy nhiên, khi khởi tố vụ án hình sự không chỉ dựa vào các dấu hiệu
tội phạm. Ngoài việc xác định các dấu hiệu của tội phạm còn phải tính đến
các chế định khác có liên quan như thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự hay đặc điểm của một số tội phạm cụ thể được quy
định trong Bộ luật hình sự.

1.2.2. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ quan
có thẩm quyền khởi tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Khi nhận được sự tố
giác hay tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải kiểm tra
nhằm xác định có dấu hiệu tội phạm hay không và có những căn cứ được khởi
tố vụ án hình sự hay không, để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án
hình sự. Những thông tin đó bao gồm:
-

Thứ nhất, thông tin từ việc tố giác tội phạm. Tố giác tội phạm là

quyền và nghĩa vụ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Mọi người
có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tố giác về
tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm của
một người nào đó hay pháp nhân nào đó với cơ quan có thẩm

13


quyền. Khái niệm tố giác được giải thích là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết [2]. Như vậy, đặc trưng của tố
giác về tội phạm là cung cấp thông tin của cá nhân có danh tính rõ ràng về
hành vi có dấu hiệu tội phạm để các cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh,
xử lý theo pháp luật. Tố giác bao gồm hai nội dung: “tố cáo” và “phát giác”
về tội phạm. Tính chất của tố cáo là cá nhân có quyền tố cáo hành vi của bất
kỳ chủ thể nào cho rằng có dấu hiệu phạm tội mà bản thân mình biết được,
khẳng định được với các cơ quan có thẩm quyền. Còn phát giác là việc cá

nhân phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm của bất kỳ chủ thể nào mà mình
tiếp cận được thông tin không phải ở mức độ biết được, khẳng định được trực
tiếp với các cơ quan có thẩm quyền để phát hiện, xác minh, xử lý theo pháp
luật. Luật cho phép công dân có thể tố cáo về mọi tội phạm, với bất cứ cơ
quan nào mà họ thấy tiện lợi. Như vậy, việc tố giác không chỉ giới hạn ở việc
công dân đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án để tố cáo. Tố giác
của công dân có thể trực tiếp bằng miệng, bằng văn bản, qua điện thoại hoặc
thư điện tử. Việc người bị hại làm đơn trình báo về sự việc phạm tội gây thiệt
hại cho họ cũng là một hình thức của tố giác tội phạm. Việc tố giác qua điện
thoại có thể coi là trường hợp tố giác bằng miệng. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm
quyền tiếp nhận điện thoại phải kiểm tra, ghi nhận số điện thoại, nội dung tố
cáo và người tố cáo.
-

Thứ hai, nguồn tin từ tin báo của tổ chức, cá nhân:Tin báo về tội

phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá
nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên
phương tiện thông tin đại chúng. Đặc trưng của tin báo là ở tính chất thông tin
sơ bộ, ban đầu để xác định sự việc là có thật, có căn cứ sự việc; còn hành vi
đó là tội phạm hay chưa thì cần phải được cơ quan có thẩm quyền xác minh,

14


kết luận. Chủ thể cung cấp tin báo là cơ quan, tổ chức được thành lập hợp
pháp, đang tồn tại thực hoặc là cá nhân có danh tính rõ ràng và chịu trách
nhiệm về nội dung tin báo hoặc có thể là những thông tin mà tổ chức, cá nhân
này nhận được, sau đó báo tin ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra bằng văn
bản. Việc khởi tố vụ án hình sự dựa trên cơ sở tin báo của tổ chức, cá nhân chỉ

được thực hiện sau khi cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra đã kiểm ra, xác minh và đã xác định có
dấu hiệu tội phạm theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tin báo tội phạm trên các phương tiện thông tin đại
chúng.Các
phương tiện thông tin đại chúng có vai trò rất quan trọng trong việc đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Bộ luật tố tụng hình sự của nhiều quốc gia đều quy
định tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là cơ sở để xác định dấu
hiệu tội phạm. Vì vậy, khi có tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông
tin đại chúng các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tiến hành xem xét, xác minh tin báo đó, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì
khởi tố vụ án hình sự để điều tra phát hiện người phạm tội. Đặc trưng của tin
báo loại này cũng giống ở tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó là tính chất
thông tin sơ bộ, ban đầu để xác định sự việc là có thật, có căn cứ sự việc; còn
hành vi đó là tội phạm hay chưa thì cần phải được cơ quan có thẩm quyền xác
minh, kết luận. Chủ thể cung cấp tin là cơ quan, thông tin đại chúng được
thành lập hợp pháp. Thông tin này chỉ ở dạng cung cấp dưới dạng thông tin
đến công chúng trong đó có cơ quan pháp luật qua hình thức thông tấn (phát
hành bằng nguồn hợp pháp như báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử) mà
không trực tiếp gửi đến cơ quan pháp luật. Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 850
cơ quan báo chí và nhiều phương tiện truyền thông khác đang phát huy tác
dụng mạnh mẽ, đi đầu trong phản ánh cuộc đấu tranh chống tội phạm trên
nhiều chuyên trang, chuyên mục. Nhiều thông tin do báo chí phản ánh là cơ

15


sở tin cậy để các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự khởi tố vụ án. Trong một
số trường hợp cơ quan thông tin đại chúng đề nghị cơ quan có thẩm quyền có
ý

kiến trả lời bạn đọc thì cơ quan có thẩm quyền được yêu cầu phải có
văn
bản trả lời cơ quan thông tin đại chúng đã đưa tin.
các

Thứ tư, các cơ quan tư pháp (điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và

cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra trực tiếp phát
hiện dấu hiệu của tội phạm trong hoạt động nghiệp vụ hoặc hoạt động quản lý
nhà nước của mình (cơ quan hải quan, kiểm lâm…). Đây là những trường hợp
các cơ quan nêu trên thông qua các hoạt động thuộc phạm vi trách nhiệm của
mình đã phát hiện dấu hiệu của tội phạm và trên cơ sở đó để ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
-

Thứ năm, kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước.Kiến nghị khởi tố là

việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản vàg ửi kèm
theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cóthẩm
quyền xem xét , xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Kiến nghị nói trên thể
hiện quan điểm của cơ quan nhà nước qua công tác quản lý nhà nước, thanh
tra, kiểm tra, giám sát phát hiện ra vi phạm pháp luật ở mức độ tội phạm cần
phải xử lý. Kết quả xác minh đã sơ bộ có đủ tài liệu minh chứng để góp phần
làm sáng tỏ sự thật, nhất là các tài liệu liên quan đến vụ án kinh tế, tham
nhũng. Cơ quan nhà nước bày tỏ quan điểm chính thức về hoạt động đánh giá
thông tin vi phạm, thể hiện nghĩa vụ của nhà nước mà cơ quan đó đại diện đấu
tranh với vi phạm pháp luật. Kiến nghị khởi tố là quan điểm của cơ quan nhà
nước, do vậy, nó phải được thể hiện bằng văn bản kiến nghị do người có thẩm
quyền ký. Thông thường đó là kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán nhà nước thông qua hoạt động nghiệp vụ khi phát hiện những hành

vi vi phạm pháp luật, có dấu hiệu tội phạm nên đã chuyển hồ sơ cho cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát để tiến hành xem xét, khởi tố vụ án theo thẩm quyền.


16


-

Thứ sáu, người phạm tội tự thú, đầu thú. Tự thú là việc người phạm

tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình
trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Đầu thú là việc người
phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ
quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Pháp luật quy định tự thú
là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện tính nhân
văn và thực hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người
đã lầm lỗi nhưng biết nhận ra, ăn năn hối cải và quyết tâm sửa chữa để trở
thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời với quy định này cũng
mang ý nghĩa phòng ngừa tích cực, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho cơ
quan điều tra nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngăn chặn kịp thời những
hành vi có thể sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm, mặt khác nó còn tác động đến tư
tưởng của những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội cũng phải
tự kiềm chế hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình. Người phạm tội có
thể tự thú trước cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án hoặc cơ quan, tổ chức
khác. Các cơ quan, tổ chức tiếp nhận tự thú phải lập biên bản ghi rõ họ, tên,
tuổi nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú, trong đó ghi cụ
thể về hành vi phạm tội, những người có thể biết được việc phạm tội, công cụ,
phương tiện phạm tội (nếu có) và những tình tiết khác cho phép khẳng định
lời khai của người tự thú là đúng. Cán bộ tiếp nhận cùng người tự thú ký tên

vào biên bản. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự
thú không phải là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì cơ quan, tổ chức này có
trách nhiệm báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Các nguồn thông tin trên đây mới chỉ là những cơ sở ban đầu để cơ
quan có thẩm quyền xác minh, thẩm tra để từ đó xác định có hay không có
căn cứ để khởi tố vụ án. Nói cách khác, những nguồn thông tin đó chưa phải
là căn cứ khởi tố mà chỉ là nguồn, là cơ sở hàm chứa những thông tin cho
phép đi đến kết luận có dấu hiệu tội phạm hay không để khởi tố vụ án hình sự.
17


×