Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vai trò của kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGHIÊM THỊ THANH THƢ

VAI TRò CủA KIểM SáT VIÊN
TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT Vụ áN HìNH Sự
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGHIÊM THỊ THANH THƢ

VAI TRò CủA KIểM SáT VIÊN
TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT Vụ áN HìNH Sự
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nghiêm Thị Thanh Thƣ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TRONG Q TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ ............7
1.1.
1.1.1.
1.1.2.

Khái niệm vai trị của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự .....................................................................................................7
Khái niệm Kiểm sát viên ...............................................................................7
Khái niệm giải quyết vụ án hình sự và vai trị của Kiểm sát viên trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự ...............................................................10

1.2.

Nội dung vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự ...................................................................................................12

1.2.1.

Vai trị của Kiểm sát viên trong các quan hệ tố tụng của quá trình giải
quyết vụ án hình sự .....................................................................................13
Các hoạt động thể hiện vai trị của Kiểm sát viên trong q trình giải

1.2.2.

quyết vụ án hình sự .....................................................................................20
1.3.
Vai trị của Kiểm sát viên trong một số mơ hình tố tụng trên thế giới.....34
1.3.1. Vai trị của Cơng tố viên trong mơ hình tố tụng tranh tụng ........................34
1.3.2. Vai trị của Cơng tố viên trong mơ hình tố tụng thẩm vấn ..........................36
1.3.3. Vai trị của Kiểm sát viên trong mơ hình tố tụng hỗn hợp ..........................38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................41
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ ..............43
2.1.
2.1.1.


Những quy định của pháp luật về vai trò của Kiểm sát viên trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự từ năm 1945 đến năm 2015............43
Những quy định của pháp luật về vai trị của Kiểm sát viên trong q
trình giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1945 đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ................................................43


Những quy định của pháp luật về vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .....48
2.2.
Những quy định của pháp luật về vai trị của Kiểm sát viên trong
q trình giải quyết vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự sửa
đổi năm 2015 ..............................................................................................54
2.2.1. Vai trò của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố........................56
2.2.2. Vai trò của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn xét xử ....................................................69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................74
2.1.2.

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI BÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI
TRỊ CỦA KIỂM SÁT VIÊN .........................................................................75
3.1.
Thực trạng hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình (giai đoạn 2011 – 2015) .........75
3.1.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ
pháp luật tố tụng hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát hai cấp tỉnh
Thái Bình trong giải quyết các vụ án hình sự .............................................75

3.1.2. Các hạn chế của Kiểm sát viên Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Thái Bình
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và ngun nhân ...........................84
3.2.
Giải pháp hồn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò của Kiểm
sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ..................................92
3.2.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự .................................92
3.2.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật khác ...........................................................95
3.3.
Giải pháp khác ...........................................................................................97
3.3.1. Giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp của Kiểm sát viên ............................................................................97
3.3.2. Giải pháp bảo đảm điều kiện làm việc của Kiểm sát viên ........................100
3.3.3. Giải pháp tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Kiểm sát viên ...101
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................103
KẾT LUẬN ............................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107
PHỤ LỤC ...............................................................................................................113


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

TTHS:


Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm sát viên là ngƣời trực tiếp thực hiện hai chức năng quan trọng của Viện
kiểm sát (sau đây viết tắt là VKS) là chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong việc giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng
minh đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ lợi ích
của Nhà nƣớc, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Do vậy,
Kiểm sát viên đóng vai trị rất quan trọng với tƣ cách là một chủ thể tham gia quá
trình giải quyết vụ án hình sự, thể hiện qua việc nắm giữ vai trị đầu mối và là chủ
thể xun suốt q trình giải quyết vụ án hình sự từ khi kiểm sát hoạt động xử lý tố
giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra đến khi xét xử, thi hành án.
Đến nay đội ngũ Kiểm sát viên không ngừng phát triển cả về số lƣợng và
chất lƣợng, tham gia hiệu quả vào q trình thực thi nhiệm vụ chính trị của VKS nói
riêng và bộ máy nhà nƣớc nói chung.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chức năng kiểm sát và thực hành quyền cơng
tố vẫn cịn xảy ra tình trạng bỏ sót, bỏ lọt tội phạm hoặc khởi tố tràn lan khơng đúng
pháp luật, có nhiều trƣờng hợp bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử oan, sai khi chƣa
đầy đủ dấu hiệu của tội phạm, gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc, làm ảnh hƣởng tới

quyền lợi ích hợp pháp của cơng dân. Bên cạnh đó, cơng tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra còn chƣa đƣợc hiệu quả, chất lƣợng chƣa cao, chƣa bám sát
chặt chẽ q trình điều tra vụ án. Tính chiến đấu và chủ động của Kiểm sát viên
thực hành quyền cơng tố trong q trình điều tra và xét xử tại Tòa án còn nhiều
trƣờng hợp thụ động, phát huy trách nhiệm chƣa cao. Tính chủ động, tích cực trong
việc tranh luận của Kiểm sát viên ở một số phiên tòa chƣa đƣợc thực hiện tốt. Nội
dung tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên với bị cáo, Luật sƣ còn nhiều lý lẽ thiếu
sắc bén, chƣa khoa học, chƣa sử dụng có hiệu quả tài liệu, chứng cứ khách quan kết

1


hợp với việc viện dẫn điều luật áp dụng để lập luận, chứng minh bảo vệ quan điểm
của mình. Mặt khác, năng lực chuyên môn, kiến thức pháp luật và kinh nghiệm thực
tế của Kiểm sát viên hiện còn chƣa đồng đều. Văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên tại
phiên tòa cũng là một trong những vấn đề đang đƣợc quan tâm.
Trƣớc tình hình trên và trƣớc nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nƣớc, yêu cầu
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phịng
chống tội phạm ở nƣớc ta trong tình hình hiện nay, hồn thành tốt nhiệm vụ cải cách
tƣ pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích tình hình thực tiễn, qua
đó đƣa ra phƣơng hƣớng, giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự là địi hỏi mang tính khách quan và cấp thiết.
Nghiên cứu về vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự (sau đây viết
tắt là TTHS) là vấn đề quan trọng, không chỉ giúp cho mọi ngƣời nhận thức đúng,
đủ về chủ thể này trong hoạt động TTHS mà cịn thơng qua đó hồn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế tổ chức, các chế độ đãi ngộ đối với Kiểm sát viên; tạo điều kiện
cho đội ngũ Kiểm sát viên có thể thực hiện tốt vai trị của mình. Đây cũng chính là
lý do học viên chọn đề tài “Vai trị của Kiểm sát viên trong q trình giải quyết vụ
án hình sự (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)” làm luận văn thạc sĩ

luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trƣớc luận văn đã có một số cơng trình nghiên cứu về kiểm sát viên, có thể
kể đến nhƣ:
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tăng thẩm quyền cho kiểm sát viên trong quá
trình tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt
Nam” của tác giả Trần Mạnh Đông (bảo vệ năm 2009 tại Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội) nghiên cứu về tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên theo Bộ luật tố tụng
hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS) năm 2003 trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự theo nội dung cải cách tƣ pháp.

2


- Luận văn thạc sĩ luật học “Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa (bảo vệ năm
2010 tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội) nghiên cứu về những ngƣời tiến
hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự (bao gồm cả Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng và Kiểm
sát viên VKSND).
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát
nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
Thành phố Hà Nội) của tác giả Nguyễn Thị Hạnh (bảo vệ năm 2015 tại Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội) nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
những ngƣời tiến hành tố tụng thuộc VKSND và thực tiễn hoạt động của những
ngƣời tiến hành tố tụng trong VKSND Thành phố Hà Nội.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình khác có liên quan đến hoạt động của Kiểm
sát viên nhƣ: “Hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật số 10/2006; “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát
và một số kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Duy Giảng (VKSND tối cao,
năm 2013); “Bàn về vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”
của tác giả Phạm Xuân Khoa đăng trên tạp chí Kiểm sát số 23/2014; “Nâng cao
năng lực tranh tụng của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương tại phiên
tòa xét xử các vụ án hình sự” của tác giả Lê Thị Ngọc Dung trên Tạp chí Dân chủ
và pháp luật tháng 9/2014; “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên” của tác giả Lê
Mạnh Hùng (VKSND Thanh Khê, Đà Nẵng, năm 2015)…
Qua nghiên cứu cho thấy nội dung của các công trình nghiên cứu, luận văn,
các bài viết trên tạp chí khoa học đã công bố ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là từ
khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 thì hầu hết các cơng

3


trình đó đều là những cơng trình nghiên cứu trực diện về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND; về địa vị pháp lý của tất cả các chủ thể tiến hành tố tụng trong VKSND;
hoặc là nghiên cứu đơn lẻ, đề cập đến một vài vấn đề liên quan đến hoạt động của
Kiểm sát viên trong một số giai đoạn tố tụng cụ thể. Chƣa có một cơng trình khoa học
nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc về vị trí, vai trị của Kiểm sát
viên trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, vai trị của Kiểm
sát viên trong TTHS ở tất cả các giai đoạn tố tụng và những hạn chế, bất cập cịn tồn
tại chƣa đƣợc phân tích đầy đủ và có hệ thống để có những phƣơng hƣớng, giải pháp
nâng cao vai trò của chủ thể này trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự.
Từ nhận định trên, luận văn này sẽ tiếp tục nghiên cứu về vai trò của Kiểm
sát viên nhƣng ở trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự, với sự phân tích
số liệu cụ thể trên thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình. Từ đó đƣa ra những phƣơng
hƣớng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao vị trí, vai trị của Kiểm sát viên.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, luật thực định vai trị của Kiểm sát
viên trong q trình giải quyết vụ án hình sự (trên cơ sở dữ liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Thái Bình).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung lý luận và thực tiễn có liên quan đến
vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự với giới hạn
khơng gian, thời gian nghiên cứu thực tiễn là trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong giai
đoạn 5 năm (2011 – 2015).
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tồn diện cơ sở lý luận về vị trí, vai trị của Kiểm sát
viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và phân tích tình hình thực tiễn để từ
đó đƣa ra những giải pháp tăng cƣờng vị thế, vai trò của đội ngũ Kiểm sát viên
trong thời gian tới ở Việt Nam.

4


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, giải mã đƣợc những vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ Kiểm sát
viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ hai, khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên
của VKSND tỉnh Thái Bình trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự; thấy đƣợc
những thành tựu, ƣu điểm, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế của đội ngũ này
và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
Thứ ba, xác định, đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai
trò đội ngũ Kiểm sát viên trong thời gian tới ở tỉnh Thái Bình nói riêng và trên
phạm vi cả nƣớc nói chung.

5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp, cũng nhƣ các
thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý nhƣ: Lịch sử pháp luật, Lý luận về
Nhà nƣớc và pháp luật, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu,
sách chuyên khảo, các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học.
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể là: thống kê, so sánh,
phân tích tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp khảo sát thực tiễn, nghiên
cứu báo cáo.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu có hệ thống và tồn diện các vấn đề lý
luận về vai trị của Kiểm sát viên trong tồn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Luận văn phác thảo trung thực và chính xác và khách quan thực tiễn khách
quan tại địa bàn tỉnh Thái Bình, những thành tựu cũng nhƣ tồn tại, hạn chế trong
quá trình đội ngũ Kiểm sát viên tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự.
Luận văn cũng nêu lên đƣợc những giải pháp, kiến nghị thiết thực nhằm
hoàn thiện pháp luật TTHS; nâng cao vai trò, chất lƣợng của Kiểm sát viên tại địa
bàn tỉnh Thái Bình nói riêng, đội ngũ Kiểm sát viên trên tồn quốc nói chung nhằm
đáp ứng yêu cầu của cải cách tƣ pháp.

5


7. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm ba chƣơng:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Kiểm sát viên trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
- Chương 2: Quy định của pháp luật về vai trò của Kiểm sát viên trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.

- Chương 3: Thực trạng hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình và một số giải pháp nâng cao vai trò
của Kiểm sát viên.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm vai trị của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự
1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên
Hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng trong TTHS ở Việt Nam bao gồm Cơ
quan điều tra, VKS, Tịa án. Mỗi cơ quan đều có vai trị nổi bật ở những giai
đoạn tố tụng khác nhau. Trong ba cơ quan nêu trên chỉ có duy nhất VKS là cơ
quan tiến hành tố tụng tham gia xuyên suốt tồn bộ q trình giải quyết vụ án
hình sự. Từ khi thành lập đến nay,VKS với đội ngũ cán bộ, cơng chức có năng
lực chun mơn, phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức chuẩn mực đã có
những đóng góp to lớn vào cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, vi phạm
pháp luật, phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội; bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc tôn trọng; trật tự an ninh, an
tồn xã hội đƣợc giữ vững. Đóng góp vào thành tích đáng tự hào của VKS là
hoạt động của đội ngũ Kiểm sát viên – những ngƣời đại diện trực tiếp cho VKS
tham gia quá trình TTHS theo quy định của pháp luật.
Nói tới vai trị là nói tới tác dụng, chức năng của ai hoặc của cái gì trong sự
hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức, một q trình, một sự
việc. Vai trị của một chủ thể đƣợc xác định từ tƣ cách, vị trí của chủ thể đó trong
một tập thể, tổ chức, trong một quá trình, sự việc. Để xác định vai trò của Kiểm sát

viên cần xuất phát từ cách tiếp cận về Kiểm sát viên trong một mối quan hệ nhất
định, một thiết chế nhất định.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thƣ, “Kiểm sát viên là cán bộ của cơ quan
kiểm sát được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, có thẩm quyền và nghĩa vụ
luật định, thực hiện chức năng kiểm tra giám sát việc chấp hành triệt để nghiêm
chỉnh pháp luật của Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân” [22, tr. 563]. Từ điển

7


Bách khoa toàn thƣ chỉ ra nội hàm của khái niệm Kiểm sát viên gồm ba nội dung: 1,
là cán bộ của cơ quan kiểm sát – Kiểm sát viên ở đây có tƣ cách là một cán bộ trong
thiết chế cơ quan kiểm sát; 2, đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật; và 3, có
thẩm quyền và nghĩa vụ luật định, thực hiện chức năng kiểm tra giám sát việc chấp
hành triệt để nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nƣớc, tổ chức xã hội và công dân. Tuy
nhiên, nội dung thứ ba khơng cịn phù hợp, khơng chính xác tại thời điểm hiện tại khi
chức năng của VKS đã thay đổi, Kiểm sát viên là ngƣời tiến hành tố tụng của VKS
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp của VKS.
Theo Từ điển Luật học thì: “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố” [57, tr. 263]. Khái niệm này chƣa phản ánh rõ địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên mà chỉ thể hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên theo chức năng của VKS
đƣợc quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND tại thời điểm đƣa ra khái
niệm và khơng cịn phù hợp với thời điểm hiện tại.
Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 định nghĩa: “Kiểm sát viên là người được
bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp” [55, Điều 1]. Khái niệm trên đã xác định đúng về
nhiệm vụ của Kiểm sát viên từ giác độ chức năng hiện hành của VKSND nhƣng cũng
tồn tại những hạn chế trong cách xây dựng khái niệm nhƣ trong Từ điển Luật học.
Theo chúng tôi, để làm rõ khái niệm và vai trò của Kiểm sát viên, thứ nhất,

cần khẳng định Kiểm sát viên là một công chức Nhà nƣớc, là cơng chức nhà nƣớc
có nghĩa trƣớc tiên họ phải thỏa mãn các điều kiện của một công chức trong bộ máy
Nhà nƣớc. Theo Luật cán bộ công chức năm 2008 thì Kiểm sát viên là cơng chức
Nhà nƣớc, có nghĩa họ phải là công dân Việt Nam đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thƣờng xuyên trong các cơ quan nhà
nƣớc ở Trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện, hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc, đƣợc
xếp vào một ngạch công chức nhất định. Kiểm sát viên là một công chức của VKS –
ngƣời đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng của VKS
là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. VKS thực hiện chức

8


năng, nhiệm vụ của mình thơng qua hệ thống cơng chức là ngƣời tiến hành tố tụng
nhƣ Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên và những công
chức khác, những bộ phận giúp việc khác. Nhƣ vậy, Kiểm sát viên là một trong số
các cơng chức góp phần thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của VKS. Hiến pháp
2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp” [47, Điều 107]. Kiểm sát viên là chủ thể tiến hành tố tụng, có vai trị quan
trọng và trực tiếp trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự của VKS.
Thứ hai, Kiểm sát viên là một chức danh tƣ pháp, chức danh này đƣợc sử
dụng để định danh một ngƣời hành nghề luật, làm việc trong hệ thống tƣ pháp mà
cụ thể là chỉ ngƣời làm việc trong VKS, nhân danh Nhà nƣớc tham gia vào các hoạt
động tố tụng theo quy định của pháp luật. GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
Chức danh tƣ pháp chỉ những ngƣời thực hiện nhiệm vụ trong
các cơ quan tƣ pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) đƣợc đào
tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất
định, có danh xƣng, đƣợc bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi
đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của

pháp luật [68, tr. 5].
Nhƣ vậy, từ khía cạnh thứ hai, có thể hiểu Kiểm sát viên là một chức danh tƣ
pháp, thực hiện một loại hình nghề luật tƣơng ứng – nghề công tố/nghề kiểm sát tùy
theo quan điểm của mỗi quốc gia trên thế giới và sẽ có vai trị tƣơng ứng với tính
chất nghề nghiệp của họ trong sự phân công lao động xã hội.
Thứ ba, khi đƣợc phân công giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh
thƣơng mại… Kiểm sát viên là một loại ngƣời tiến hành tố tụng, có các thẩm quyền
tiến hành tố tụng, có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện các quyết định và
hành vi tố tụng và cũng phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các quyết định, hành
vi tố tụng do họ thực hiện. ở khía cạnh này, Kiểm sát viên có vai trị tố tụng của họ
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Nhƣ vậy, cả ba tƣ cách này của Kiểm sát viên đều gắn với hoạt động nghề

9


nghiệp của họ. Trong đó, tƣ cách ngƣời tiến hành tố tụng của Kiểm sát viên thể hiện
cả tƣ cách của một công chức nhà nƣớc làm việc tại VKS và tƣ cách ngƣời hoạt
động nghề nghiệp. Tƣ cách ngƣời tiến hành tố tụng gắn với một vụ án, vụ việc cụ
thể mà họ đƣợc phân công thụ lý và cũng thể hiện đầy đủ, trọn vẹn vai trò nghề
nghiệp của họ.
1.1.2. Khái niệm giải quyết vụ án hình sự và vai trị của Kiểm sát viên
trong q trình giải quyết vụ án hình sự
Giải quyết vụ án hình sự là một khái niệm đƣợc nhắc đến khá thƣờng xuyên
trong q trình TTHS. Tuy nhiên, hiện nay chƣa có định nghĩa hoàn chỉnh và thống
nhất về khái niệm này.
Trong cuốn Sổ tay kiến thức pháp luật của Điều tra viên, tại trang 288, tác
giả Nguyễn Ngọc Anh nhận định: “Trong tố tụng hình sự, xử lý vụ án hình sự chính
là việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua các giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự. Xử lý vụ án cịn có một cách gọi

khác là giải quyết vụ án” [1].
Nhƣ vậy, có thể hiểu giải quyết vụ án hình sự chính là tất cả các hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án.
Chúng tôi cho rằng, theo cách hiểu thơng thƣờng mang tính chất phổ biến thì
giải quyết đƣợc hiểu là việc một chủ thể quyết định thực hiện một hay nhiều hoạt
động để nhằm đạt đƣợc mục đích nhất định nào đó.
Giải quyết vụ án hình sự là hoạt động đƣợc thực hiện bởi các chủ thể, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng mang tính quyền lực nhà nƣớc.
Nội dung giải quyết vụ án hình sự là các hành vi, quyết định nhằm xác định hành vi
phạm tội; xác định và giải quyết trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội, xử lý các
vấn đề liên quan đến ngƣời phạm tội và các vấn đề khác của vụ án. Giải quyết vụ án
hình sự theo nghĩa hẹp bao gồm những “hoạt động quyết định những vấn đề liên
quan đến sự tồn tại, kết thúc vụ án (quyết định khởi tố vụ án, đình chỉ điều tra, đình
chỉ vụ án…), mở rộng hay thu hẹp phạm vi điều tra vụ án hoặc quyết định đƣa vụ

10


án tới những thời điểm tố tụng quan trọng (kết thúc điều tra đề nghị truy tố chuyển
sang VKS, quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, quyết định đƣa cụ án ra xét xử,
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung…)” [8]. Theo nghĩa rộng có thể định nghĩa
giải quyết vụ án hình sự là hoạt động của những chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố
tụng theo quy định của pháp luật quyết định những vấn đề liên quan đến phạm vi,
tính chất, tiến độ của vụ án hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự đƣợc nhận định bắt đầu từ giai đoạn tiếp
nhận nguồn tin về tội phạm, tiếp đó là các hoạt động trong giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và kết thúc bằng việc bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa án đƣợc ra quyết định thi hành. Quá trình này gắn
liền với một loạt các quyết định của các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền mang tính

định đoạt đối với số phận pháp lý của một hay nhiều ngƣời bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Có nhiều quan điểm khác nhau về phân chia các giai đoạn của quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Trong luận văn này chúng tôi lựa chọn tiếp cận vai trị của
Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và một phần giai đoạn thi hành án. Thi hành án là giai đoạn tiếp theo của
xét xử nhƣng nó khơng phải là hoạt động tƣ pháp thuần túy mà cịn mang tính chất
hành chính. Khi Tịa án ra quyết định thi hành án đồng nghĩa với việc kết thúc quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động của Cơ quan công an, Ủy ban nhân dân,
Cơ quan thi hành án hình sự… tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa lại là
hoạt động tác nghiệp thi hành án, không chịu sự điều chỉnh của pháp luật TTHS mà
cần áp dụng các quy định của luật thi hành án. Do vậy, giải quyết vụ án hình sự chỉ
dừng lại ở phân đoạn đầu tiên của giai đoạn thi hành án hình sự.
Từ các phân tích nêu trên về mối quan hệ giữa tƣ cách của Kiểm sát viên với
vai trò của Kiểm sát viên và từ các phân tích về nội dung q trình giải quyết vụ án
hình sự, chúng tơi cho rằng: “Vai trị của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự là sự thể hiện địa vị pháp lý của Kiểm sát viên với tư cách là người
tiến hành tố tụng của VKSND, thông qua các hoạt động tố tụng để góp phần giải
quyết vụ án hình sự theo thẩm quyền, từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và một phần của giai đoạn thi hành án hình sự”.

11


1.2. Nội dung vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự
Kiểm sát viên là một ngƣời tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự. Khi
đƣợc phân cơng thụ lý một vụ án hình sự, Kiểm sát viên trở thành ngƣời tiến hành
tố tụng trong một vụ án hình sự cụ thể - hiện thực hóa chức năng của VKS trong vụ
án cụ thể này. Vai trò ngƣời tiến hành tố tụng của Kiểm sát viên tƣơng ứng với chức
năng của VKS là một cơ quan tiến hành tố tụng nhƣng phải chịu trách nhiệm cá

nhân đối với các hành vi, quyết định tố tụng của họ trong vụ án. Với tƣ cách ngƣời
tiến hành tố tụng, họ có vai trị tố tụng trong việc giải quyết vụ án thông qua việc
thực hiện hành vi, quyết định tố tụng trong phạm vi quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm do
Luật TTHS quy định. Vai trò của Kiểm sát viên với tƣ cách ngƣời tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện trong các mối quan hệ tố tụng của
họ với những ngƣời tiến hành tố tụng trong và ngoài VKS, với ngƣời tham gia tố
tụng và các tổ chức, cá nhân khác trong TTHS để thực hiện các thẩm quyền tố tụng
của họ. Nói cách khác, vai trị của Kiểm sát viên với tƣ cách ngƣời tiến hành tố tụng
xuất phát từ địa vị pháp lý của họ. Theo lý luận chung về nhà nhà nƣớc pháp luật,
địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan
hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật, là sự thể hiện
thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng
như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thơng qua địa
vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng
thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể trong các mối quan hệ
pháp luật [57, tr. 244]. Do đó, để xác định nội dung vai trị của Kiểm sát viên cần
“định vị” họ trong các mối quan hệ tố tụng cụ thể, gắn với địa vị pháp lý của họ
trong mối quan hệ với các chủ thể pháp luật khác. Tuy nhiên, ở góc độ lập pháp,
pháp luật TTHS không thể quy định riêng thành các điều khoản độc lập quyền và
nghĩa vụ của Kiểm sát viên với chủ thể này hay chủ thể khác mà phải xây dựng
thành các nhóm quyền và nghĩa vụ tố tụng tƣơng ứng với các chức năng của cơ
quan tiến hành tố tụng mà họ là ngƣời tiến hành tố tụng trực tiếp của cơ quan đó. Vì

12


vậy, chúng tơi xác định nội dung vai trị của Kiểm sát viên trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự từ hai giác độ cơ bản dƣới đây.
1.2.1. Vai trò của Kiểm sát viên trong các quan hệ tố tụng của quá trình
giải quyết vụ án hình sự

Quá trình giải quyết vụ án hình sự có nhiều giai đoạn với sự tham gia của nhiều
chủ thể khác nhau. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ
pháp từ giai đoạn khởi tố, điều tra đến thi hành án hình sự. Do vậy, Kiểm sát viên có
mối quan hệ pháp luật với nhiều chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia TTHS.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tiến hành tố tụng
khác của VKS.
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với những ngƣời tiến hành tố tụng khác
trong VKS là mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng và
Kiểm tra viên trong cùng một cơ quan VKS.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi thực hiện chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của VKS, Kiểm sát viên tuân theo
pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trƣởng VKS cấp mình. Phó Viện trƣởng giúp
Viện trƣởng thực thi nhiệm vụ. Khi có vụ án xảy ra, Kiểm sát viên thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự phân cơng của Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng (đƣợc Viện
trƣởng ủy nhiệm). Kiểm sát viên có trách nhiệm báo cáo trung thực, chính xác, đầy
đủ nội dung vụ việc, tiến độ giải quyết và đề xuất hƣớng xử lý. Viện trƣởng, Phó
Viện trƣởng (đƣợc Viện trƣởng ủy nhiệm) sau khi nghe Kiểm sát viên báo cáo thì
ghi ý kiến chỉ đạo của mình vào phiếu đề xuất của Kiểm sát viên. Mặc dù là ngƣời
tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS nhƣng hoạt động của Kiểm sát
viên khơng mang tính độc lập cao nhƣ Thẩm phán. Kiểm sát viên chỉ đƣợc thực
hiện độc lập một số hoạt động tố tụng và đồng thời phải tuân thủ nguyên tắc thủ
trƣởng và nguyên tắc trực thuộc một chiều đặc thù của ngành Kiểm sát. Trong quá
trình tác nghiệp, Kiểm sát viên phải thƣờng xuyên báo cáo với Viện trƣởng, Phó
viện trƣởng (đƣợc Viện trƣởng ủy nhiệm). Mối quan hệ giữa Viện trƣởng, Phó Viện
trƣởng với Kiểm sát viên trong cùng một cơ quan VKSND đƣợc điều là mối quan

13


hệ chỉ huy, mệnh lệnh – phục tùng, xuất phát từ sự phân định thẩm quyền hành

chính và quyền hạn trong TTHS của các chức danh này. Thẩm quyền của Viện
trƣởng, Phó Viện trƣởng theo quy định của pháp luật mang tính mệnh lệnh và phải
đƣợc Kiểm sát viên chấp hành nghiêm chỉnh. Trong chỉ đạo nghiệp vụ, Viện trƣởng
ra quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp; có trách nhiệm giám sát các hoạt động và chỉ đạo kịp thời các vấn đề
nghiệp vụ đối với Kiểm sát viên và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Kiểm tra viên là chức danh tƣ pháp, đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp.
Kiểm tra viên đƣợc hiểu là ngƣời giúp Kiểm sát viên thực thi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình theo quy định của pháp luật. Kiểm tra viên đƣợc phân cơng giúp việc cho
Kiểm sát viên trong q trình giải quyết vụ án nên trong mối quan hệ này, Kiểm sát
viên giữ vai trò chỉ đạo nhiệm vụ cho Kiểm tra viên, hƣớng dẫn, giám sát, kiểm tra
Kiểm tra viên thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật. Kiểm tra
viên tiến hành nghiên cứu hồ sơ, báo cáo kết quả với Kiểm sát viên, thực hiện
nhiệm vụ đƣợc giao và chịu trách nhiệm trƣớc Kiểm sát viên.
Thứ hai, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tiến hành tố tụng
khác, người được giao một số nhiệm vụ khác ngồi VKS.
Q trình giải quyết vụ án hình sự có sự tham gia của nhiều cơ quan tiến hành
tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan đó. Tham gia giải quyết các vụ
án hình sự, chủ thể có mối quan hệ với Kiểm sát viên khơng chỉ có Viện trƣởng, Phó
viện trƣởng, Kiểm tra viên trong cùng một cơ quan VKS mà còn bao gồm những
ngƣời tiến hành tố tụng khác, ngƣời đƣợc giao một số nhiệm vụ khác ngoài VKS.
Đều có chung nhiệm vụ là đấu tranh phịng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh
chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải đƣợc
phát hiện kịp thời, nhanh chóng, khơng để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội
nên các cơ quan VKS, Cơ quan điều tra, những cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra (bao gồm các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải
quan, Lực lƣợng cảnh sát biển, Kiểm ngƣ, Kiểm lâm, Công an nhân dân đƣợc giao

14



nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Quân đội nhân dân đƣợc giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có mối liên hệ mật thiết với nhau trong quá
trình tiến hành hoạt động TTHS mà đại diện trực tiếp là giữa Kiểm sát viên với
Điều tra viên, những ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
của các cơ quan theo luật định. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên,
những ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vừa mang tính
chỉ đạo vừa có tính chất phối hợp, kiểm sốt lẫn nhau. Tính chất chỉ đạo thể hiện ở
việc Kiểm sát viên đại diện cho VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp có quyền tác động trực tiếp vào hoạt động điều tra của các Điều tra
viên, các cá nhân có thẩm quyền của cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Trong trƣờng hợp cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp hoặc trình
Viện trƣởng VKS ra các quyết định tố tụng và yêu cầu Cơ quan điều tra, những cơ
quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những ngƣời tiến
hành tố tụng của các cơ quan này phải thực hiện. Nhƣng ngƣợc lại, Điều tra viên,
những ngƣời có thẩm quyền thuộc các cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Lực lƣợng cảnh sát biển,
Kiểm ngƣ, Kiểm lâm, Công an nhân dân, Qn đội nhân dân khơng có quyền can
thiệp vào hoạt động của Kiểm sát viên. Pháp luật TTHS quy định cơ chế kiểm soát
lẫn nhau giữa Cơ quan điều tra và VKS (Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng
hình sự). Kiểm sát viên đại diện cho VKS kiểm tra, giám sát kết quả hoạt động tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của Điều tra viên đƣợc
phân công giải quyết vụ án hình sự; đồng thời có trách nhiệm thơng báo các kết quả
giải quyết vụ án cho Điều tra viên. Cơ chế kiểm soát lẫn nhau giúp loại bỏ các hành
vi vi phạm pháp luật, tăng hiệu quả hoạt động của các bên khi tham gia giải quyết
vụ án hình sự. Bên cạnh đó, VKS và các cơ quan điều tra này thuộc hệ thống cơ
quan nhà nƣớc khác nhau, có sự độc lập nhất định và khơng có sự ràng buộc với
nhau trong quan hệ hành chính. Pháp luật TTHS cũng khơng có những quy định và
chế tài về chế độ trách nhiệm của từng cơ quan, của những ngƣời tiến hành tố tụng,

của Kiểm sát viên, của Điều tra viên một cách cụ thể rõ ràng để đảm bảo thực hiện
mối quan quan hệ này [56, tr. 48]. Do đó, trong q trình điều tra, thực hành quyền

15


cơng tố và kiểm sát điều tra thì cần phải có sự phối hợp giữa Kiểm sát viên với Điều
tra viên, những ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Chất
lƣợng của hoạt động TTHS trong giai đoạn điều tra phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
nhận thức, phƣơng pháp cũng sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả của các Kiểm sát
viên, Điều tra viên tham gia vụ án.
Ngoài Cơ quan điều tra, VKS thì hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng cịn
có một bộ phận rất quan trọng đó là Tịa án. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và
Thẩm phán thể hiện bản chất mối quan hệ của hai cơ quan nhà nƣớc mà họ là ngƣời
đại diện. Đó là mối quan hệ phối hợp và kiểm soát, chế ƣớc lẫn nhau của Tòa án và
VKS. Kiểm sát viên và Thẩm phán là các chức danh tƣ pháp, tham gia giải quyết vụ
án hình sự với tƣ cách là ngƣời tiến hành tố tụng. Tính chất phối hợp nhƣng có sự
kiểm tra, chế ƣớc lẫn nhau của mối quan hệ này thể hiện rõ trong giai đoạn xét xử
mà cụ thể là tại các phiên tịa hình sự. Tại phiên tòa, nếu Kiểm sát viên với tƣ cách
là ngƣời đại diện thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tƣ pháp của VKS sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của Thẩm
phán và ngƣợc lại, Thẩm phán đảm nhiệm tốt vai trị của mình, tiến hành hoạt động
xét xử đúng đắn, khách quan và công bằng cũng sẽ giúp cho Kiểm sát viên hồn
thành tốt vai trị của mình. Hiệu quả xét xử của Tòa án phụ thuộc phần nhiều vào
hoạt động của Kiểm sát viên. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa… [5]. Sự phối hợp giữa Kiểm sát viên và
Thẩm phán tại phiên tòa phải đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật, tránh thông đồng
dẫn đến đƣa ra phán quyết sai lầm, bỏ lọt tội phạm và làm oan ngƣời vơ tội. Bên
cạnh tính phối hợp thì mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Thẩm phán còn mang tính

chế ƣớc lẫn nhau. Là những chủ thể tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên và Thẩm phán
có sự tác động qua lại nhằm kiểm soát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán là ngƣời kiểm sốt tồn bộ
q trình xét xử. Thẩm phán là chủ thể đại diện cho Tịa án có quyền xem xét, kết
luận về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên trong quá

16


trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét và kết luận về tính hợp pháp của chứng cứ, tài
liệu do Kiểm sát viên thu thập. Trong trƣờng hợp xét thấy cần thiết, Thẩm phán có
quyền trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung, yêu cầu VKS bổ sung, hồn thiện
chứng cứ. Tại phiên tịa, Kiểm sát viên có trách nhiệm chứng minh tính có căn cứ
của nội dung truy tố bằng việc đƣa ra những căn cứ pháp lý, các chứng cứ chứng
minh, lập luận để buộc tội bị cáo và bác bỏ các quan điểm, chứng cứ mà bị cáo,
ngƣời bào chữa của bị cáo đƣa ra. Tuy nhiên, Kiểm sát viên chỉ đƣa ra ý kiến, đề
xuất quan điểm giải quyết đối với vụ án còn vai trò quyết định trong việc đƣa ra bản
án lại thuộc về thẩm quyền của Thẩm phán. Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có quyền
u cầu Kiểm sát viên trình bày các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tịa.
Kiểm sát viên tại phiên tịa ngồi thực hành quyền cơng tố cịn tiến hành kiểm sát
việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tịa. Kiểm sát viên kiểm sát
tính hợp pháp và có căn cứ của bản án đã tuyên. Nếu có vi phạm pháp luật, Kiểm
sát viên có quyền yêu cầu tịa án khắc phục những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện
trƣởng để tiến hành kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Thứ ba, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng.
Những ngƣời tham gia TTHS bao gồm ngƣời tố giác, báo tin về tội phạm,
kiến nghị khởi tố; ngƣời bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; ngƣời bị giữ trong trƣờng
hợp khẩn cấp; ngƣời bị bắt; ngƣời bị tạm giữ; bị can; bị cáo; ngƣời bị hại; nguyên
đơn dân sự; bị đơn dân sự; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời
làm chứng; ngƣời bào chữa; ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự,

của ngƣời bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; ngƣời phiên dịch, ngƣời dịch thuật; ngƣời
giám định; ngƣời định giá tài sản, ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân
phạm tội. Các chủ thể này đều có một vị trí nhất định trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự mà hoạt động của họ góp phần khẳng định vai trò của Kiểm sát viên
trong thực thi các nhiệm vụ, chức năng của VKS.
Kiểm sát viên đại diện cho VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát tƣ
pháp từ giai đoạn khởi tố vụ án đến khi kết thúc xét xử và thi hành bản án có hiệu
lực của tòa án. Trong mối quan hệ với các chủ thể tham gia TTHS, Kiểm sát viên

17


đóng vai trị là ngƣời đại diện cho quyền lực nhà nƣớc tiến hành hoạt động TTHS
mà những hoạt động đó ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của các cá nhân hoặc
của ngƣời họ là đại diện tham gia tố tụng.
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với ngƣời bị giữ trong trƣờng hợp khẩn cấp;
ngƣời bị bắt; ngƣời bị tạm giữ; bị can; bị cáo là mối quan hệ giữa một bên đại diện
cho quyền lực nhà nƣớc với một bên là cá nhân có dấu hiệu phạm tội. Điều này dẫn
đến tính bất bình đẳng tất yếu trong mối quan hệ này. Kiểm sát viên với tƣ cách là
tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, tìm
ra sự thật của vụ án. Căn cứ vào hồ sơ và bản kết luận điều tra mà VKS quyết định
truy tố bị can ra trƣớc tòa bằng một bản cáo trạng hay trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Trƣờng hợp vụ án đƣợc đƣa ra xét xử, Kiểm sát viên đại
diện cho VKS thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa, lập luận để buộc tội bị cáo. Mối
quan hệ giữa Kiểm sát viên với bị cáo là mối quan hệ giữa bên buộc tội đại diện cho
quyền lực nhà nƣớc với bên bị buộc tội. Là ngƣời bị buộc tội nên quyền của ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng sẽ bị hạn chế nhất định theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ngƣời bị buộc tội vẫn đƣợc coi là khơng có tội cho
đến khi đƣợc chứng minh theo trình tự luật định và có bản án đã có hiệu lực pháp luật
tun họ có tội. Vì thế, ngƣời bị buộc tội vẫn phải đƣợc những ngƣời tiến hành tố

tụng, trong đó có Kiểm sát viên tơn trọng, bảo đảm quyền con ngƣời; tuyệt đối không
đƣợc đối xử với họ nhƣ ngƣời phạm tội. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên khơng chỉ tiến
hành buộc tội bị cáo mà cịn có trách nhiệm thu thập các chứng cứ, tài liệu để gỡ tội
cho bị cáo. Ngồi các tình tiết chứng minh tội phạm, Kiểm sát viên cịn đƣa ra các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự... Bên cạnh hoạt
động thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn kiểm sát hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, cơ quan đƣợc trao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động tố tụng và
các chủ thể có thẩm quyền của các cơ quan đó nhằm bảo đảm tồn bộ q trình
chứng minh tội phạm phải đƣợc tiến hành một cách chặt chẽ theo đúng trình tự, thủ
tục do luật định; đảm bảo ngƣời bị buộc tội đƣợc thực hiện quyền bào chữa của mình
một cách đầy đủ và thuận lợi. Nhƣ vậy, Kiểm sát viên không chỉ là đại diện cho VKS

18


tiến hành buộc tội mà còn là ngƣời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ngƣời tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; ngƣời bị hại; nguyên
đơn dân sự; bị đơn dân sự; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời
làm chứng; ngƣời bào chữa; ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự,
của ngƣời bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; ngƣời phiên dịch, ngƣời dịch thuật; ngƣời
giám định; ngƣời định giá tài sản, ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân
phạm tội là những cá nhân góp phần vào q trình làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án. Kiểm sát viên có thể căn cứ vào lời khai của ngƣời tố giác, báo tin về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; ngƣời bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời làm chứng; kết quả giám định của
giám định viên, biên bản định giá của ngƣời định giá tài sản và sự trợ giúp của
phiên dịch viên, dịch thuật viên trong trƣờng hợp ngƣời tham gia tố tụng không biết
Tiếng Việt để tìm ra các chứng cứ chứng minh tội phạm. Đây là những chủ thể trợ
giúp Kiểm sát viên thực hiện hoạt động của mình và phải có mặt khi đƣợc triệu tập.

Ngƣời bào chữa có thể là luật sƣ; ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo hoặc bào chữa viên nhân dân. Họ giữ vai trò quan trọng trong tranh
tụng, đại diện cho bên gỡ tội tranh luận với Kiểm sát viên giữ quyền cơng tố tại phiên
tịa để làm sáng tỏ nội dung vụ án. Nếu nhƣ Kiểm sát viên đại diện cho quyền lực nhà
nƣớc thực hành quyền công tố theo sự phân cơng của Viện trƣởng VKS thì ngƣời bào
chữa là ngƣời đại diện cho cá nhân bị truy tố, thực hiện các hoạt động để “gỡ tội”,
bảo vệ cho thân chủ mình trong phiên tịa hình sự. Trong q trình tranh tụng tại
phiên tịa, các quan điểm của Kiểm sát viên và ngƣời bào chữa sẽ tạo nên bức tranh
toàn cảnh của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử có cái nhìn khách quan và chính xác,
qua đó đƣa ra phán xét đúng đắn. Sự tham gia của ngƣời bào chữa trong vụ án hình
sự là động lực để Kiểm sát viên không ngừng trau dồi kiến thức, chun mơn nghiệp
vụ, bản lĩnh để có thể tham gia tranh tụng tốt tại phiên tòa. Kiểm sát viên và ngƣời
bào chữa cùng tham gia giải quyết vụ án sẽ đảm bảo đƣợc tính nghiêm minh của pháp
luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.

19


×