Tải bản đầy đủ (.docx) (147 trang)

Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.18 KB, 147 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY

HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY

HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền

Hà nội - 2014


2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thúy

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN


VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊN

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VI

1.1.

Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, quá trình
triển, ý nghĩa chế định hòa giải trong

1.1.1.

Khái niệm chế định hòa giải trong ph
Việt Nam

1.1.2.

Đặc điểm chế định hòa giải trong phá

1.1.3.

Cơ sở của chế định hòa giải trong tố

1.1.4.

Quá trình hình thành và phát triển củ
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

1.1.5.

Ý nghĩa của chế định hòa giải trong t


1.2.

Khái niệm và các tiêu chí hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự

1.2.1.

Khái niệm hoàn thiện chế định hòa g
tụng dân sự

1.2.2.

Các tiêu chí hoàn thiện chế định hòa
tụng dân sự

4


Chương 2: CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRON

DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN H

2.1

Nguyên tắc tiến hành hòa giải

2.1.1

Hòa giải phải trên cơ sở sự tự nguyện

đƣơng sự

2.1.2.

Nội dung thỏa thuận giữa các đƣơng
và đạo đức xã hội

2.2.

Phạm vi hòa giải

2.2.1.

Những vụ án dân sự không đƣợc hòa

2.2.2.

Những vụ án dân sự không tiến hành

2.3.

Thành phần phiên hòa giải và nội dun

2.3.1.

Thành phần phiên hòa giải

2.3.2.

Nội dung hòa giải


2.4.

Trình tự tiến hành phiên hòa giải

2.5.

Xử lý kết quả hòa giải

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ C

THIỆN CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢ

TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NA

3.1.

Thực tiễn áp dụng chế định hòa giải tr

3.1.1.

Về phạm vi hòa giải

3.1.2.

Về thành phần tham hòa giải không đú

3.1.3.

Nội dung hòa giải và quyết định công


3.1.4.

Thủ tục, trình tự hòa giải

3.1.5.

Kỹ năng tiến hành hòa giải của ngƣời
hạn chế

3.2.

Phƣơng hƣớng hoàn thiện chế định h
tụng dân sự

5


3.2.1

Bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền t
và các nguyên tắc khác của giao lƣu d
kiện của nền kinh tế thị trƣờng định h

3.2.2.

Xác định rõ trách nhiệm của Nhà nƣớ
đƣơng sự thực hiện quyền tự định đo
hòa giải các vụ việc dân sự


3.2.3

Chế định hòa giải phải đảm bảo các ti
định hòa giải, góp phần phát huy dân
của đời sống xã hội, củng cố khối đoà
dậy tình tƣơng thân tƣơng ái của dân

3.2.4.

Chế định hòa giải phải giản đơn, thuậ
hòa giải nhanh chóng, hiệu quả

3.3.

Các kiến nghị hoàn thiện chế định hòa
quả của áp dụng chế định hòa giải

3.3.1.

Kiến nghị về hoàn thiện chế định hòa
tụng dân sự Việt Nam hiện hành

3.3.2.

Kiến nghị về thực hiện chế định hòa g
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

QĐCNTT

: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đƣơng sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TTDS

: Tố tụng dân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng

Số hiệu

Trang

bảng

2.1


Kết quả giải quyết các vụ việc dân sự của TAND các cấp
từ năm 2007 - 2013

8

85


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, xã hội loài ngƣời là tổng thể
các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp, đa chiều, đa lợi ích. Các mâu thuẫn,
tranh chấp là một hiện tƣợng xã hội phổ biến, khách quan trong đời sống xã
hội hàng ngày. Vấn đề ở đây không phải là phủ nhận, né tránh các mâu thuẫn,
tranh chấp mà phải tìm giải pháp tích cực, hữu hiệu giải quyết tranh chấp đó.
Trong nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp, hòa giải là một biện pháp quan
trọng để giải quyết kịp thời các tranh chấp, hƣớng tới mục đích bình đẳng và
hòa hợp trong các mối quan hệ xã hội. Hòa giải đã trở thành một nét đẹp
truyền thống, đạo lý của dân tộc Việt Nam, giúp giải quyết những mẫu thuẫn,
tranh chấp góp phần giữ gìn sự hòa thuận cho từng gia đình, bình yên cho
từng làng xóm, giữ trật tự, kỷ cƣơng, an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết
cộng đồng. Truyền thống này là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho
công cuộc xây dựng đất nƣớc Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 đã dẫn đến sự ra đời của
Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nƣớc ta đã chú trọng, phát huy
vai trò của hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp. Hòa giải đã trở thành
một nguyên tắc, thủ tục tố tụng, một chế định trong pháp luật tố tụng dân sự
(TTDS) nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết

tranh chấp và thể hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân.
Hiện nay, chế định hòa giải đã đƣợc quy định khá đầy đủ và chi tiết
trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 và đã trở thành phƣơng
thức hữu hiệu khi giải quyết các vụ việc dân sự. Trong đó, chế định hòa giải là
cơ sở để các cơ quan Tòa án tiến hành hòa giải góp phần bảo vệ quyền và

9


lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trên cơ sở tôn trọng quyền tự định
đoạt của các đƣơng sự. Hòa giải đã trở thành một chế định quan trọng trong
hoạt động TTDS. Thông qua hòa giải, Tòa án có thể giúp các đƣơng sự giải
quyết mâu thuẫn, thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự mà không cần phải kéo
dài phiên tòa xét xử, đỡ tốn kém thời gian, tiền của Nhà nƣớc, của các đƣơng
sự; hàn gắn những rạn nứt trong quan hệ giữa các đƣơng sự góp phần xây
dựng khối đoàn kết trong nhân dân. Bên cạnh đó, qua việc hòa giải Tòa án
còn có thể giải thích, nâng cao nhận thức pháp luật cho các đƣơng sự giúp
cho việc tổ chức thi hành án đƣợc thuận lợi. Đặc biệt, khi hòa giải thành các
đƣơng sự sẽ tự nguyện thi hành án, đa số các trƣờng hợp không phải áp dụng
các biện pháp cƣỡng chế thi hành án.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nƣớc đang
diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đã thúc đẩy sự phát triển, đan xen giữa các giao lƣu dân sự, kinh tế,
các quan hệ dân sự đã có những thay đổi đáng kể và nhanh chóng cần có sự
điều chỉnh phù hợp của pháp luật... Trong bối cảnh nhƣ vậy, BLTTDS nói
chung và chế định hòa giải nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có
những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có
những quy định chƣa phù hợp, chƣa đầy đủ, thiếu rõ ràng, có nhiều cách hiểu

khác nhau… và áp dụng chƣa thống nhất, hạn chế hiệu quả của hoạt động hòa
giải trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Chính từ thực trạng đó đòi
hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về chế định hòa
giải trong pháp luật TTDS Việt Nam nhằm góp phần hoàn thiện những quy
định của pháp luật TTDS. Vì vậy, BLTTDS đã đƣợc Quốc hội khóa XI, kỳ
họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004 và đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2011. So
với BLTTDS, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS năm 2011 có nhiều
sửa đổi, bổ sung, quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn
giải quyết các vụ việc dân sự trong giai đoạn hiện nay.

10


Với nhận thức nhƣ vậy, tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện chế định hòa
giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các vụ
việc dân sự tại Tòa án, chế định hòa giải đã và đang đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu lý luận và thực tiễn quan tâm. Nhiều công trình, bài viết khoa học nghiên
cứu về hòa giải trong TTDS nhƣ: Luận án tiến sĩ Luật học: "Chế định hòa
giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn", của
Trần Văn Quảng, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hòa giải trong tố
tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện", của Bùi Đăng Huy, Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội, 1996; Khóa luận tốt nghiệp: "Hòa giải trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam", của Nguyễn Kiều Oanh, Hà Nội, 2010; Khóa luận
tốt nghiệp: "Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn", của La Phƣơng Na, Hà Nội, 2011; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải
vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Lê Bích Ngọc,
2013… Tuy nhiên, kể từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS

năm 2011 có hiệu lực đến nay thì chƣa có công trình nào nghiên cứu một
cách tổng thể về hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật TTDS. Vì vậy,
vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu về hoàn thiện chế định hòa giải
trong pháp luật TTDS ở Việt Nam một cách toàn diện, đầy đủ, hệ thống cả về
lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa giải trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
chế định hòa giải và hoàn thiện chế định trong pháp luật TTDS Việt Nam; tìm
hiểu các quy định về hòa giải và thực tế áp dụng các quy định này trong hoạt
động giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân (TAND). Mặt khác, chỉ ra
những điểm còn thiếu đồng bộ, mâu thuẫn hoặc chƣa hợp lý về chế định hòa

11


giải trong pháp luật TTDS Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần
hoàn thiện chế định này.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
-

Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật

TTDS Việt Nam chế định hòa giải;
-

Hiện nay, việc áp dụng chế định hòa giải còn rất nhiều bất cập và hạn

chế, nên đã làm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể gặp
nhiều khó khăn, nhiều trƣờng hợp quyền và nghĩa vụ của chủ thể không thực

hiện đƣợc. Việc nghiên cứu, đánh giá mức độ hoàn thiện của chế định hòa giải
và thực tiễn áp dụng chế định hòa giải trong TTDS chỉ ra những nội dung, những
vấn đề còn thiếu sót, chƣa phù hợp, những hạn chế từ việc áp dụng chế định hòa
giải. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện chế định hòa giải trong TTDS Việt
Nam, đồng thời đề ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung
nghiên cứu những vấn đề sau:
-

Những vấn đề lý luận về chế định hòa giải và hoàn thiện chế định

hòa giải trong pháp luật TTDS Việt Nam.
- Thực trạng chế định hòa giải trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành.
-

Thực tiễn áp dụng và các kiến nghị hoàn thiện chế định hòa giải

trong pháp luật TTDS ở Việt Nam.
Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật TTDS có phạm vi nghiên
cứu rộng nên có thể đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều phƣơng diện khác nhau và
với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật
học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chế định hòa giải theo quy định của
BLTTDS Việt Nam hiện hành. Luận văn có đề cập nghiên cứu một số quy
định của pháp luật tố tụng về hòa giải trƣớc thời điểm BLTTDS đƣợc ban

12



hành. Tuy nhiên, cách tiếp cận về các vấn đề này chỉ là cơ sở để so sánh,
nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về hòa giải theo quy định của
BLTTDS Việt Nam. Luận văn cũng có đề cập việc hòa giải theo thủ tục tƣ
pháp ở một số nƣớc trên thế giới, nhƣng chỉ là để đối chiếu, so sánh khi cần
thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này. Vì định hƣớng nghiên cứu là tập
trung nghiên cứu dƣới góc độ pháp luật và thực tiễn áp dụng chế định hòa
giải trong pháp luật TTDS, nên các kiến nghị mà tác giả đƣa ra trong luận văn
là tổng thể các kiến nghị khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
chế định hòa giải trong pháp luật TTDS.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phƣơng pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng và Nhà
nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về cải cách tƣ pháp. Đồng thời,
tác giả cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể, nhƣ: phân tích,
chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, sử dụng các
kết quả thống kê thực tiễn xét xử của ngành Tòa án.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sĩ ở nƣớc ta
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về hoàn thiện chế định
hòa giải trong pháp luật TTDS.
Những đóng góp mới của luận văn là:
-

Luận giải những vấn đề lý luận về chế định hòa giải và hoàn thiện

chế định hòa giải trong pháp luật TTDS.
-

Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt


Nam về hòa giải. Làm sáng tỏ nguyên tắc, phạm vi, thành phần, nội dung,
trình tự, thủ tục hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đƣơng sự (QĐCNTT) tại Tòa án. Từ những nghiên cứu này, luận văn
đã chỉ ra những bất cập trong các quy định pháp luật và việc tổ chức thực hiện

13


hòa giải vụ việc dân sự tại Tòa án, ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng giải
quyết vụ việc dân sự, là nguyên nhân quan trọng đƣa việc giải quyết vụ việc
dân sự rơi vào tình trạng xét xử lòng vòng qua nhiều cấp, kéo dài nhiều năm,
gây bức xúc và mất niềm tin trong nhân dân.
-

Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện chế định hòa giải trong

pháp luật TTDS Việt Nam hiện nay. Luận văn này có thể đƣợc sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện chế định hòa giải trong
TTDS cũng nhƣ trong việc giảng dạy, nghiên cứu về chế định hòa giải trong
pháp luật TTDS Việt Nam.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế định hòa giải và hoàn thiện
chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Chương 2: Chế định hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành.

Chương 3: Thực tiễn áp dụng và các kiến nghị hoàn thiện chế định
hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.

14


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN, Ý NGHĨA CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam
Khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự thì phát sinh các quan hệ giữa
Tòa án với đƣơng sự và những ngƣời tham gia tố tụng khác. Các quan hệ này
xuất hiện khi đơn kiện đƣợc Tòa án thụ lý để giải quyết và tồn tại cho đến khi
giải quyết vụ việc dân sự kết thúc. Tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án và các chủ thể tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác tạo thành một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là ngành luật TTDS.
Nhà nƣớc bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể. Khi
cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
thì theo thủ tục do pháp luật quy định chủ thể đó đƣợc khởi kiện vụ án dân sự
để yêu cầu Tòa án bảo vệ (Điều 4 BLTTDS 2004). Trong phạm vi chức năng
của mình Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ chế độ XHCN; bảo vệ pháp chế XHCN

và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể, cá
nhân; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Do vậy, khi có chủ thể khởi kiện vụ án dân sự thì Tòa án có thẩm quyền phải
thụ lý vụ án và giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

15


Pháp luật TTDS quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án và các chủ
thể tham gia tố tụng khác ở mỗi giai đoạn tố tụng. Pháp luật TTDS xác định
vai trò, trách nhiệm chủ động, tích cực của Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự, đồng thời bảo đảm cho các đƣơng sự trong vụ án có đầy đủ
quyền tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó tôn
trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự đƣợc xác định là một trong những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS.
Khi các bên yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, pháp luật luôn bảo
đảm cho các đƣơng sự có quyền tự quyết định các hành vi của mình phù hợp với
quy định của pháp luật nhƣ: tự rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện,
hòa giải, kháng cáo bản án và quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật… Các quy
định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải
các vụ việc dân sự trở thành chế định quan trọng của pháp luật TTDS.

Theo Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2008):
"Chế định là định ra, lập ra một phép tắc có hệ thống để ban hành" [67, tr. 153].

Theo Từ điển Luật học thì:
Chế định pháp luật đƣợc hiểu là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội trong phạm vi một ngành
luật. Dƣới góc độ pháp luật, hòa giải đƣợc coi là chế định pháp luật,
bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình hòa giải các vụ việc dân sự [65, tr. 76].

Theo giáo trình Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội thì: "Chế định pháp luật là một tập hợp đƣợc cấu trúc từ nhóm
các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật
thiết với nhau thuộc cùng một loại" [55].
Theo Từ điển Tiếng Việt do Trung tâm Ngôn ngữ học trực thuộc Viện
Khoa học xã hội biên soạn (1992), "Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng
ý

chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thỏa" [53, tr. 350].

16


Hòa giải là một biện pháp để giải quyết các tranh chấp, theo đó, với sự
giúp đỡ của bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian, các bên tranh chấp tự
nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp cho phù hợp với quy định của pháp
luật, truyền thống đạo đức xã hội. Hòa giải trong TTDS là hoạt động do Tòa
án tiến hành giúp các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc
dân sự. Để cho hoạt động hòa giải của Tòa án đƣợc khách quan, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự thì Tòa án phải tuân theo các quy
định về hòa giải trong TTDS Việt Nam.
Từ những phân tích trên, chế định hòa giải là một trong những chế
định của pháp luật TTDS, bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải vụ việc dân sự.
Cụ thể hơn chế định hòa giải là tổng hợp các quy định pháp luật tố tụng về
nguyên tắc, phạm vi,thành phần, nội dung, trình tự thủ tục do Tòa án tiến
hành nhằm giúp đỡ các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết
vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

1.1.2. Đặc điểm chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, sự vật, hiện tƣợng không chỉ
là sự biểu hiện của những mặt, những mối quan hệ bên ngoài, mà còn hàm chứa
bản chất của sự vật, hiện tƣợng đó. Hay nói cách khác, bản chất là những mặt,
những mối liên hệ bên trong, quy định sự vận động của sự vật, hiện tƣợng. Theo
đó, chế định hòa giải trong pháp luật TTDS không chỉ đơn thuần là tổng thể các
quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa
giải các vụ việc dân sự, mà còn phản ánh bản chất của các quan hệ xã hội đó.
Bản chất của chế định này thể hiện ở những điểm sau đây.

1.1.2.1 Chế định hòa giải điều chỉnh hoạt động hòa giải do Tòa án
tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chế định hòa giải với vị trí cấu thành của hệ thống pháp luật TTDS quy
định về nguyên tắc, phạm vi, nội dung, trình tự, thủ tục hòa giải của Tòa án trong
giải quyết vụ việc dân sự. Chế định hòa giải quy định về quyền và nghĩa

17


vụ cho các chủ thể khi tham gia trong quá trình hòa giải. Khi các tranh chấp dân
sự xảy ra, các chủ thể có quyền tự thỏa thuận với nhau để giải quyết tranh chấp.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu hòa giải không thành, Tòa án phải củng cố,
hoàn hiện hồ sơ vụ việc để đƣa ra xét xử tại phiên tòa. Giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn rất quan trọng, nó làm tiền đề, cơ sở pháp lý
vững chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các quyết định của Tòa án đƣợc khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, hoạt
động hòa giải các vụ việc dân sự có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, hòa giải là một thủ tục
bắt buộc đối với hầu hết vụ việc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Hòa giải đã đƣợc pháp luật TTDS Việt Nam xác định là một nguyên
tắc, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để đƣơng sự thực hiện
quyền tự định đoạt của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thể
hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
công dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình
tƣơng thân, tƣơng ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng đồng.
Các quy định về hòa giải cũng nhƣ các hoạt động tố tụng khác trong quá
trình giải quyết các vụ việc dân sự luôn luôn đƣợc hoàn thiện đáp ứng yêu cầu
của đời sống xã hội. Theo quy định BLTTDS, hòa giải là một giai đoạn bắt buộc
đối với vụ án mà theo quy định phải tiến hành hòa giải ở giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm, chỉ đƣa ra xử tại phiên tòa sơ thẩm khi đã hòa giải không thành. Hòa
giải không phải là thủ tục bắt buộc tại phiên tòa sơ thẩm và các giai đoạn tố tụng
tiếp theo trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Theo quy định BLTTDS, hòa giải là một nguyên tắc, thủ tục giải quyết
các vụ việc dân sự. Điều 10 BLTTDS quy định: "Tòa án có trách nhiệm tiến
hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này" [31]. Theo Điều
186 BLTTDS quy định: "Khi các đƣơng sự thỏa thuận đƣợc với nhau về vấn đề
phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên
bản này đƣợc gửi ngay cho các đƣơng sự tham gia hòa giải" [31].

18


Nhƣ vậy, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trƣớc khi xét xử sơ thẩm đối
với những vụ việc dân sự mà pháp luật quy định phải hòa giải; nếu hòa giải
thành sau thời gian bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không
có đƣơng sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên
hòa giải hoặc một Thẩm phán đƣợc Chánh án Tòa án phân công ra QĐCNTT.
Nếu hòa giải không thành thì Tòa án quyết định đƣa vụ án ra xét xử tại phiên tòa

sơ thẩm. Hòa giải là thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm và ở các giai đoạn tố tụng tiếp
theo, nếu thấy có khả năng hòa giải thành thì Tòa án cũng tiến hành hòa giải.
Quy định này là cơ sở để các đƣơng sự có thể hòa giải với sự giúp đỡ của Tòa án
trong bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ án.

Thứ hai, Tòa án là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải giữa các
đương sự.
Trong quá trình hòa giải các vụ việc dân sự, Tòa án đƣợc pháp luật
quy định có vai trò trung gian tổ chức hòa giải giúp đỡ các đƣơng sự thỏa
thuận với nhau về giải quyết vụ án. Trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự là một nguyên tắc, thủ tục tố tụng không
chỉ bảo đảm quyền tự định đoạt của đƣơng sự, mà còn bảo đảm tính pháp lý
của hòa giải. Sau khi hoàn tất hồ sơ vụ án, Tòa án giải thích pháp luật liên
quan đến những quan hệ đang tranh chấp, giải quyết vƣớng mắc giúp các
đƣơng sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Kết quả của hòa giải do
Tòa án tiến hành là những văn bản có tính chất pháp lý (biên bản hòa giải
thành hoặc không thành), là cơ sở để tiếp tục các hành vi tố tụng nhƣ quyết
định công nhận hòa giải thành hoặc đƣa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm.
Mặt khác, ở phiên tòa sơ thẩm và ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo, pháp luật
quy định nếu thấy có khả năng hòa giải thì chỉ có Tòa án có thẩm quyền tiến
hành hòa giải và giải quyết các hậu quả pháp lý của vụ việc dân sự. Sự có mặt
của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa án trong hòa
giải các vụ việc dân sự. Đây là sự khác biệt giữa hòa giải do Tòa án tiến hành
với hòa giải do Tổ hòa giải ở cơ sở tiến hành, hay việc tự hòa giải của đƣơng
sự về giải quyết tranh chấp. Trong trƣờng hợp các đƣơng sự tự hòa giải thì

19


Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, còn việc hòa giải ở

Tổ hòa giải cơ sở thì không phải là thủ tục bắt buộc.
Thứ ba, kết quả hòa giải thành là sự thỏa thuận của các đương sự.
Trong các vụ việc dân sự, các đƣơng sự là chủ thể của các quan hệ có nội
dung tranh chấp nên họ mới có quyền thƣơng lƣợng và điều đình với nhau về giải
quyết các tranh chấp. Việc thỏa thuận giữa các đƣơng sự chỉ đạt đƣợc trên cơ sở
thƣơng lƣợng một cách tự nguyện, trung thực, hợp lý, hợp tình, không một ai với
bất kỳ một hình thức nào cƣỡng ép, can thiệp vào thỏa thuận của các đƣơng sự.

Sự thỏa thuận của chính các đƣơng sự là đặc trƣng cơ bản của hòa giải,
thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Chỉ có đƣơng sự mới có
quyền quyết định về việc giải quyết quyền và lợi ích của họ trong quá trình hòa
giải vụ việc dân sự. Đây cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải với xét xử. Khi xét
xử, đƣơng sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết của Tòa án theo quy
định của pháp luật, không có sự thƣơng lƣợng giữa Tòa án và các đƣơng sự,
còn khi hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa
thuận với nhau mà không đƣợc can thiệp vào thỏa thuận đó.

Thứ tư, hòa giải vụ việc dân sự được tiến hành theo trình tự, thủ tục
do chế định hòa giải quy định.
Hòa giải vụ việc dân sự, cũng nhƣ các thủ tục tố tụng khác do Tòa án
tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật. Việc quy định trình tự và thủ tục hòa
giải các vụ việc dân sự bảo đảm tính khách quan, công bằng trong hoạt động hòa
giải của Tòa án, bảo đảm sự bình đẳng của các đƣơng sự trong quá trình giải
quyết vụ án. Với ý nghĩa là một nguyên tắc, thủ tục TTDS, mọi quan hệ phát
sinh trong quá trình hòa giải các vụ việc dân sự đƣợc pháp luật điều chỉnh. Các
quy định của pháp luật TTDS về trình tự, thủ tục hòa giải là cơ sở để tiến hành
hòa giải các vụ việc dân sự và bắt buộc Tòa án và những ngƣời khác tham gia
hòa giải các vụ việc dân sự phải tuân thủ các quy định đó.

Từ những phân tích về hoạt động hòa giải, chế định hòa giải điều

chỉnh mọi hoạt động hòa giải phát sinh trong quá trình Tòa án tiến hành giải

20


quyết vụ việc dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Chế định hòa giải thể
hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong hòa giải các vụ việc dân sự không chỉ
thể hiện ở việc Tòa án phải tổ chức hòa giải để các đƣơng sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án, mà còn ở việc bảo đảm thực hiện kết quả hòa giải
thỏa thuận về giải quyết vụ án của các đƣơng sự trong hòa giải phù hợp với
quy định của pháp luật đƣợc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đƣơng sự. Nhƣ vậy, khi kết quả hòa giải đƣợc Tòa án ra quyết định công
nhận thì bắt buộc các bên thực hiện những cam kết của mình.
1.1.2.2. Chế định hòa giải có mối liên hệ mật thiết với các chế định
khác trong pháp luật tố tụng dân sự, đặc biệt là chế định chuẩn bị xét xử
-

Mối quan hệ giữa chế định hòa giải với chế định khởi kiện và thụ lý

vụ việc dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, chế định khởi kiện, thụ lý
vụ việc dân sự và chế định hòa giải là những vấn đề có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Khi chủ thể của quyền khởi kiện thực hiện quyền khởi kiện của
mình thì Tòa án mới xem xét thụ lý.
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, tổ chức hoặc các chủ thể khác
theo quy định của pháp luật dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
bảo vệ quyền, lợi ích của mình hay của ngƣời khác. Tòa án chỉ thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, khi có yêu cầu của các chủ thể.
Khởi kiện vụ án dân sự, là giai đoạn khởi đầu trong TTDS. Khi ngƣời khởi
kiện thực hiện quyền khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn khởi kiện cho

Tòa án có thẩm quyền, Tòa án có trách nhiệm nhận đơn, vào sổ theo dõi để
xem xét giải quyết. Một mặt, Tòa án sẽ phải xác minh nội dung sau: thẩm
quyền giải quyết, điều kiện về ngƣời khởi kiện, thời hiệu, nội dung vụ việc…
Khi việc khởi kiện đáp ứng các yêu cầu thì Tòa án tiến hành thụ lý vụ án.
Thụ lý vụ việc dân sự là công việc đầu tiên của Tòa án trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, là cơ sở pháp lý phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng,
đặt trách nhiệm giải quyết vụ việc dân sự cho Tòa án. Hoạt động thụ lý vụ án

21


có phát sinh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thực hiện quyền khởi kiện
vụ án dân sự của các đƣơng sự có đúng các quy định pháp luật không? Thụ lý vụ
việc dân sự là cơ sở pháp lý để ràng buộc các chủ thể trong quan hệ dân sự đƣợc
điều chỉnh bằng pháp luật TTDS. Trong quan hệ này, Tòa án là chủ thể thực hiện
quyền lực nhà nƣớc thông qua việc thụ lý giải quyết tranh chấp và các quy định
của Tòa án có tính chất bắt buộc đối với các bên. Thụ lý vụ án dân sự có mối
quan hệ mật thiết với các chế định khác đặc biệt là chế định hòa giải. Tòa án chỉ
tiến hành hòa giải sau khi đã thụ lý vụ việc dân sự. Không có các hoạt động khởi
kiện và thụ lý vụ việc dân sự thì vấn đề Tòa án tiến hành hòa giải đối với các
đƣơng sự cũng không đặt ra trong giai đoạn này.
- Mối quan hệ giữa chế định hòa giải với chế định chuẩn bị xét xử sơ thẩm

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ việc dân sự, Tòa án tiến hành
hòa giải giữa các đƣơng sự với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều 10
BLTTDS quy định: "Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này" [31]. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, theo quy định tại khoản
2 Điều 179 BLTTDS quy định: tùy từng trƣờng hợp, Tòa án ra một trong các quyết
định sau đây: Công nhận sự thỏa thuận của các đƣơng sự; Tạm đình chỉ giải quyết

vụ án; Đình chỉ giải quyết vụ án; Đƣa vụ án ra xét xử.

Trong đó quyết định công nhận sự thỏa thuận của đƣơng sự là kết quả
của việc hòa giải thành. Điều đó có nghĩa hòa giải đƣợc tiến hành nhƣ một thủ
tục bắt buộc trƣớc khi mở phiên tòa sơ thẩm và việc hòa giải nằm trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hay nói cách khác chế định hòa giải là một thành
phần trong chế định chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Chế định hòa giải có ý nghĩa to lớn
cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong trƣờng hợp hòa giải thành thì sẽ giảm
bớt đƣợc nhiều giai đoạn tố tụng phức tạp và khó khăn nhƣ giai đoạn xét xử với
thủ tục sở thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái
thẩm… Trong trƣờng hợp hòa giải không thành cũng giúp Tòa án có điều kiện
tìm hiểu kỹ hơn nội dung của vụ việc dân sự với những tình tiết liên quan. Trên
cơ sở đó áp dụng những cách thức giải quyết vụ việc dân sự cho phù

22


hợp. Vì vậy, kết quả của hòa giải tại giai đoạn chuẩn bị xét xử có mối quan hệ
là tiền đề, cơ sở để Tòa án thực hiện các bƣớc tiếp theo trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự. Trong trƣờng hợp, hòa giải không thành, thì Tòa án
quyết định đƣa vụ án ra xét xử sơ thẩm, phân công Thẩm phán giải quyết vụ
án; thông báo thụ lý vụ án; lập hồ sơ; quyết định đƣa vụ án ra xét xử và triệu
tập những ngƣời tham gia tố tụng đến phiên tòa. Trong thời hạn 1 tháng kể từ
ngày có quyết định đƣa vụ án ra xét xử, Tòa án mở phiên tòa để xét xử vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án bắt buộc phải tiến
hành thủ tục hòa giải. Tính chất bắt buộc đƣợc hiểu là Tòa án có trách nhiệm
chủ động tiến hành thủ tục hòa giải dù việc hòa giải thành có khả quan hay
không. Nếu Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải bi coi nhƣ vi phạm
nghiêm trọng thủ tục TTDS và là căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc
thẩm để hủy án và xét xử sơ thẩm lại (Khoản 2 Điều 277, khoản 3 Điều 299

BLTTDS năm 2004).
Lịch sử hơn nửa thế kỷ của nền tƣ pháp dân chủ nhân dân đã khẳng
định chế định hòa giải trong pháp luật TTDS không chỉ thể hiện quyền tự định
đoạt của đƣơng sự, mà còn thể hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tập thể khi giải quyết các tranh
chấp dân sự, nâng cao chất lƣợng của nền tƣ pháp. Việc tăng cƣờng hoạt
động hòa giải của TAND các cấp không chỉ đơn thuần với ý nghĩa là một biện
pháp giải quyết có hiệu quả các vụ việc dân sự, mà còn khơi dậy truyền thống
tƣơng thân, tƣơng ái, đoàn kết gắn bó của dân tộc Việt Nam.
1.1.3. Cơ sở của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
1.1.3.1. Cơ sở pháp lý
Pháp luật về hòa giải đƣợc Nhà nƣớc ta quy định khá cụ thể trong các
văn bản pháp luật và ngày càng hoàn thiện để phù hợp với chính sách pháp
luật của Nhà nƣớc nói chung, phù hợp với thực tế xét xử các vụ việc dân sự.
Chế định hòa giải vụ việc dân sự là một đặc trƣng của pháp luật TTDS,
đƣợc pháp luật TTDS quy định mà không đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng

23


hình sự và tố tụng hành chính. Trong quan hệ pháp luật giải quyết đối với vụ án
hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nƣớc với bị can, bị cáo (ngƣời thực hiện hành
vi

phạm tội). Do đó, bị can, bị cáo không có quyền thỏa thuận với cơ quan đại

diện cho Nhà nƣớc truy tố tội danh cũng nhƣ mức hình phạt mà bị can, bị cáo
phải chấp hành. Đối với tố tụng hành chính, mối quan hệ pháp luật cần giải quyết
trong vụ án là mối quan hệ hành chính giữa cơ các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị
quản lý với các cơ quan Nhà nƣớc thực hiện quyền quản lý nhà nƣớc có quyết

định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Do đó, các đƣơng sự trong vụ án
hành chính không có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành
chính, nên vấn đề quy định chế định hòa giải cũng không đƣợc đặt ra. Đối với
quan hệ pháp luật đƣợc giải quyết trong các vụ việc dân sự là quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại và lao động. Trong quan
hệ này, các chủ thể đều bình đẳng, các chủ thể trong quan hệ này đều có quyền tự
mình, bằng hành vi tố tụng của mình để tự dàn xếp, thƣơng lƣợng với nhau hoặc
thông qua sự giúp đỡ của Tòa án thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Pháp
luật khuyến khích và bảo đảm để các đƣơng sự hòa giải với nhau về việc giải
quyết tranh chấp dân sự. Điều 11 Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định: Trong quan
hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định pháp luật đƣợc
khuyến khích. Không ai đƣợc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong việc
giải quyết các tranh chấp dân sự [32].
Việc quy định hòa giải là một thủ tục bắt buộc của Tòa án trƣớc khi mở
phiên tòa sơ thẩm, xuất phát từ luật nội dung (cụ thể là BLDS). Trong quan hệ
dân sự thì các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào áp đặt, cấm đoán, cƣỡng
ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi cam kết thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt
buộc thực hiện đối với các bên. Theo đó, BLDS điều chỉnh mối quan hệ giữa các
chủ thể bằng phƣơng pháp bình đẳng, thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 10
BLTTDS: Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để
các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này [31]. Do đó, pháp luật TTDS quy định về chế định hòa giải
nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể

24


khi tiến hành hoạt động hòa giải nhằm xác định trách nhiệm của Tòa án trong
việc giúp các đƣơng sự thỏa thuận với nhau, tạo điều kiện để các đƣơng sự
thực hiện quyền tự định đoạt về giải quyết vụ việc dân sự. Việc ghi nhận và

bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS có ý nghĩa
thực tiễn vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho các đƣơng sự thực hiện
các quyền do pháp luật nội dung quy định.
Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam, việc hoàn thiện
chế định hòa giải trong pháp luật TTDS đang đƣợc Nhà nƣớc hết sức chú trọng.
Biện pháp hòa giải các tranh chấp không dừng lại ở lĩnh vực dân sự, mà đã và
đang trở thành một biện pháp quan trọng giải quyết các tranh chấp kinh tế, lao
động. Việc hoàn thiện chế định hòa giải là một yêu cầu khách quan trƣớc sự phát
triển của đời sống xã hội trong tình hình mới và là một trong những nội dung
quan trọng trong quá trình xây dựng BLTTDS hiện nay.

1.1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời, thực tiễn là tiêu chuẩn,
thƣớc đo của lý luận. Thực tiễn kiểm nghiệm để khẳng định tính đúng đắn,
phù hợp quy luật hoặc bác bỏ một luận điểm nào đó lỗi thời không phù hợp
thực tiễn. Mặt khác, thực tiễn cũng là tấm gƣơng phản chiếu để phát triển lý
luận. Trong đời sống pháp luật, thực tiễn xét xử đã khẳng định hòa giải là một
biện pháp truyền thống quan trọng mang tính phổ biến trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự. Điều đó đƣợc thể hiện ở những điểm sau đây:
Chế định hòa giải là biện pháp truyền thống giải quyết có hiệu quả
các vụ việc dân sự.
-

Chế định hòa giải đƣợc hình thành một cách khách quan trƣớc yêu
cầu của đời sống kinh tế, xã hội và chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội, tập quán trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt
Nam, làng xã trong nền văn minh lúa nƣớc là nơi hội tụ của những ngƣời nông
dân với một cơ cấu cộng đồng bền chặt. Ở một vùng đất thiên tai khắc nghiệt và


25


×