Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Mô hình gia đình việt nam theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự 60 38 01 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.74 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG

MÔ HÌNH GIA ĐÌNH VIỆT NAM THEO
LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG

MÔ HÌNH GIA ĐÌNH VIỆT NAM THEO LUẬT
HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học:PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG


Hà Nội – 2017
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Mai Hƣơng

3


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................................
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH GIA
ĐÌNH .........................................................................................................................
1.1.Khái niệm và bản chất của gia đình ..............................................................
1.2. Khái niệm và vai trò của mô hình gia đình đối với đời sống và pháp luật ......
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết về xây dựng mô hình gia
đình ..........................................................................................................................
1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của mô hình Gia đình .................................

1.3.2. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam về
mô hình gia đình ......................................................................................................

CHƢƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG MÔ HÌNH
GIA ĐÌNH CỦA VIỆT NAM THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM
2014
..............................................................................................

2.1.

Những quy định của pháp luật trƣớc đây về mô hình gia đình ........

2.1.1. Xác lập quan hệ hôn nhân ............................................................................
2.1.2

Thiết lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con .........................

2.1.3. Quan hệ của các thành viên trong gia đình với nhau ....................................
2.2.
2.2.1
2.2.2
2.3.

Những quy định của luật Hôn nhân và gia đình 2014 về mô hình g

Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình 2014 .......
Quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 về Mô hình

Thực trạng mô hình gia đình ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại .


2.3.1. Những mặt tốt ................................................................................................
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................................
3.1.2

Những sai lầm thƣờng thấy trong các gia đình ...................

CHƢƠNG III: CÁC KHUYẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
MÔ HÌNH GIA ĐÌNH CỦA VIỆT NAM ..............................................................
3.1.
Phƣơng hƣớng hoàn thiện mô hình gia đình cho pháp luật Việt Na
3.2.

Các khuyến nghị cho các bên trong việc xây dựng mô hình gia đìn

3.2.1. Các khuyến nghị cho các cơ quan xây dựng pháp luật .................................
3.2.2. Các khuyến nghị cho các cơ quan thực hiện pháp luật .................................
4


3.2.3. Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức ngƣời dân và cộng đồng.........75
KẾT LUẬN............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 77

5


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng con ngƣời, là môi

trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quan niệm truyền thống, đất nƣớc đƣợc
hình dung nhƣ một gia đình lớn mà việc tổ chức và vận hành chỉ là sự phóng
to mô hình gia đình nhỏ, gồm những ngƣời gắn bó với nhau trên cơ sở quan
hệ huyết thống hoặc hôn nhân.
Gia đình là một tổ chức xã hội đƣợc hình thành từ khá sớm trong lịch
sử của loài ngƣời. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con ngƣời tách khỏi giới
động vật và tự tổ chức cuộc sống với tƣ cách là một cộng đồng độc lập thì
cũng là lúc hình thức sơ khai của gia đình ra đời. Lúc đầu gia đình chỉ bao
gồm các thành viên có quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những ngƣời
mẹ cùng các con, cháu (giai đình mẫu hệ). Sau đó đƣợc mở rộng bao gồm các
thành viên khác có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng
huyết thống. Về quy mô ga đình, lúc đầu số lƣợng các thành viên gia đình
tƣơng đối đông có khi lên tới hàng trăm ngƣời. Về sau, do yêu cầu thích ứng
với cuộc sống ngày càng phát triển của xã hội loài ngƣời nên số lƣợng các
thành viên gia đình giảm dần. Mô hình gia đình hiện đại ngày nay, số thành
viên có khi chỉ có từ một đến ba ngƣời.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời có rất nhiều điểm mới liên
quan đến việc hình thành một gia đình, mối quan hệ giữa những ngƣời trong
gia đình sự chấm dứt các mối liên hệ gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và
gia đình hiện nay, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con ngƣời, bình đẳng giới
và góp phần phát huy các giá trị văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của
ngƣời Việt Nam.
6


Để có cơ hội đƣợc nghiên cứu sâu hơn về mô hình gia đình tôi đã lựa

chọn đề tài “Mô hình gia đình Việt Nam theo Luật hôn nhân và gia đình
2014” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình
2.

Tính mới của đề tài
Do Luật hôn nhân và gia đình 2014 vừa mới có hiệu lực ngày

01/01/2015 nên hiện nay chƣa có nhiều công trình nghiên cứu nào về mô hình
gia đình theo Luật mới. Mặt khác đề tài “Mô hình gia đình Việt Nam theo
Luật hôn nhân và gia đình 2014” không đi vào nghiên cứu một nội dung cụ
thể nào mà chỉ đánh giá chung về các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, tham khảo quy định của một số nƣớc trên thế giới về vấn đề này.
3.

Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các quy định của pháp

luật về mô hình gia đình hiện nay, xem xét thực trạng quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình trong thời gian qua để đƣa ra kiến nghị về một số giải
pháp pháp lý nhằm áp dụng của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 một
cách hiệu quả.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, các văn bản hƣớng dẫn và các tài liệu
trong nƣớc và nƣớc ngoài.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa

Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc

ta về Nhà nƣớc và Pháp luật, về hôn nhân và gia đình. Việc nghiên cứu đƣợc
thực hiện từ góc độ lý luận chung về hôn nhân và gia đình.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê v.v...
5.

Kết cấu của luận văn
7


Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung về mô hình gia đình
Chƣơng II: Những quy định pháp luật và thực trạng mô hìnhgia đình
của Việt Nam theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014
Chƣơng III: Các khuyến nghị xây dựng, hoàn thiện mô hình gia đình
Việt Nam

8


CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH GIA
ĐÌNH
1.1.

Khái niệm và bản chất của gia đình

Theo Việt Nam Dân luật lƣợc khảo, so sánh các cách tổ chức gia đình trên thế
giới và trong lịch sử, nhân loại có hai quan niệm chính yếu về gia đình đó là:
“Quan niệm cổ ở Đông phƣơng cũng nhƣ quan niệm cổ ở La Mã là quan
niệm đại gia đình, gồm tất cả các bà con cùng huyết thống”, trái lại theo quan

niệm mới, ở Tây phƣơng cũng nhƣ ở Đông phƣơng, gia đình chỉ gồm có hai
vợ chồng và các con chƣa trƣởng thành sống cùng với cha mẹ”[15].
Theo Từ điển tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những ngƣời cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân và dòng máu, thƣờng gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”[12]. Với
cách hiểu này, “Gia đình” đƣợc cho là một hạt nhân nhỏ nhất để xây dựng và
hình thành nên xã hội. Bên trong nội hàm của “Gia đình” thƣờng chỉ bao gồm
những chủ thể đƣợc gắn kết với nhau bằng quan hệ hôn nhân hay quan hệ
trực hệ - có sự liên kết với nhau về huyết thống. Do đó, có thể hiểu rằng “Gia
đình” theo Từ điển tiếng Việt là định nghĩa về gia đình theo nghĩa hẹp nhất,
không có sự bao hàm các trƣờng hợp thực tế nhƣ đối với những gia đình có
quan hệ nuôi con nuôi.
Dƣới góc độ xã hội học, gia đình đƣợc coi là tế bào của xã hội[2]. Không
giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh
học, kinh tế, tâm lý, văn hóa... Mối quan hệ gia đình đƣợc thể hiện ở các khía
cạnh nhƣ: có quan hệ vợ chồng, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra
của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên
hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn
cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
9


Dƣới góc độ pháp lý, tại Khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định : Gia đình là tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của luật này”[6].
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái
niệm gia đình: gia đình là tập hợp những ngƣời cùng có tên trong một sổ hộ
khẩu; gia đình là tập hợp những ngƣời cùng chung sống với nhau dƣới một
mái nhà…Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình đƣợc chia thành

rất nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia
đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy
đủ…[13,15].
Theo Việt Nam dân luật lƣợc khảo:Về phƣơng diện xã hội, gia đình là nền
tảng của quốc gia. Theo kinh nghiệm, những ngƣời công dân biết làm tron
bổn phận đối với Tổ quốc bao giờ cũng là những con ngƣời đã hấp thụ một
nền giáo dục tốt ở trong gia đình. Trái lại, phần đông những phần tử xấu xa
phạm tội lỗi trong xã hội là những ngƣời không có gia đình hoặc bị gia đình
ruồng bỏ [15].
Về phƣơng diện chính trị, sự tổ chức gia đình là một vấn đề rất hệ trọng. Sự
suy vọng hƣng thịnh của một quốc gia vốn có liên lạc chặt chẽ với vấn đề
sinh sản tức là vấn đề gia đình. Ở nƣớc Pháp chẳng hạn, về đầu thế kỷ thứ 20
do sự sinh sản sút kém, dân số đã đứng nguyên trong khi dân số của Đức đã
tăng gia một cách rất đáng lo ngại cho Pháp. Vì vậy, chính phủ Pháp đã phải
theo đuổi một chính sách bảo vệ gia đình và từ năm 1939, khuyến khích sự
lập gia đình và sự sinh sản bằng cách trợ cấp các gia đình đông con. Số tiền
trợ cấp cho mỗi gia đình càng lớn nếu số con càng đông. Nhờ thế, sự sinh sản
sau khi nƣớc pháp đƣợc giải phóng đã tăng lên đôi chút....[2]

10


Về phƣơng diện kinh tế, gia đình vốn là một đoàn thể kinh tế rất chặt chẽ.
Hơn nữa, gia đình là một động lực khuyến khích rất mạnh mẽ sự tồn tích ở
trong nƣớc. Trong đời sống hàng ngày, có rất nhiều hoạt động kinh tế thích
ứng cho khuôn khổ gia đình nhƣ: các sự kinh doanh về nông nghiệp, các tiểu
công nghệ, các tiểu kỹ nghệ, tiểu thƣơng mại...”[1,11]
Nhƣ vậy bản chất của gia đình là dựa trên ba mối quan hệ là hôn nhân, huyết
thống và pháp lý.
- Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa ngƣời đàn ông với ngƣời đàn bà, dựa

trên nhu cầu tính giao (sự ham muốn khác giới) đƣợc pháp luật công nhận
hoặc không đƣợc (không cần) pháp luật công nhận, nhƣng có sự thừa nhận
của cộng đồng theo luật tục (chủ yếu ở những cộng đồng chƣa có pháp luật về
giá thú) hoặc theo các qui định của tôn giáo, tập quán cộng đồng… Quan hệ
hôn nhân là quan hệ cơ bản của gia đình tạo ra những quan hệ khác và làm
nền tảng cho sự bền vững của gia đình.
- Quan hệ huyết thống là quan hệ sinh học – xã hội giữa cha mẹ và con cái
nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Quan hệ huyết thống đƣợc biểu hiện ở sự gắn
bó giữa cha mẹ và con cái và giữa các anh, chị, em cùng cha, mẹ sinh ra. Do
sự tiếp nối giữa các thế hệ trong gia đình, ngoài các quan hệ trên còn có các
quan hệ khác: Ông bà và con, cháu, chắt…
- Quan hệ pháp lý và tình cảm: Mối qua hệ giữa các thành viên trong gia đình
về quyền lợi, nghĩa vụ, về của cải, tài sản và sự “ cấp dƣỡng” những nghĩa vụ
tình cảm, những cấm đoán về tính giao giữa những ngƣời có cùng huyết
thống gần, hay giữa cha mẹ nuôi và con nuôi…mà pháp luật quy định.
1.2. Khái niệm và vai trò của mô hình gia đình đối với đời sống và pháp luật

Kể từ khi chƣa có sự điều chỉnh của pháp luât, gia đình đã là một định
chế đƣợc hình thành một cách tự nhiên thuần túy. Đi ngƣợc lại dòng lịch sử

11


theo các tài liệu thì ta có thể thấy gia đình đã đƣợc xây dựng trên hai mô hình
chính là Đại gia đình và Tiểu gia đình, mà cụ thể nhƣ sau:
Đại gia đình là mô hình gia đình đƣợc tổ chức theo tộc họ và đƣợc đặt
dƣới chế độ phụ quyền. Song quy mô tổ chức của gia đình - tộc họ cũng nhƣ
cách vận hành của chế độ phụ quyền không giống nhau tuy theo gia đình
đƣợc hình dung ở góc độ kinh tế hay ở góc nghi lễ, tín ngƣỡng. Ở góc độ
kinh tế, gia đình - tộc họ gồm tất cả những ngƣời thuộc các thế hệ khác nhau

sống trong cùng một nhà (gọi là gia tộc). Gia đình có ngƣời đứng đầu gọi là
gia trƣởng (chủ gia đình). Gia đình, chứ không phải các nhân, là chủ thể của
quyền sở hữu tài sản và việc thực hiện quyền sở hữu đó là của gia trƣởng.
Cũng chính gia trƣởng là ngƣời điều hành các công việc thƣợc sinh hoạt nội
bộ của gia đình, kể cả việc dựng vợ, gả chồng cho con, cháu[1].


góc độ nghi lễ, tín ngƣỡng, gia đình - tộc họ (còn gọi là dòng họ hay

tông tộc) gồm tất cả những ngƣời có chung một tổ tiên. Ngƣời đứng đầu gia
đình gọi là trƣởng tộc. Các thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó do
trƣớc hết họ có sự quan tâm chung đối với việc thờ cúng tổ tiên cũng nhƣ đối
với việc gìn giữ và phát huy truyền thống[13]. Những mối quan tâm ấy chỉ
gắn với lợi ích tinh thần. Bởi vậy, chế độ phụ quyền xoay quanh nhân vật
trung tâm là trƣờng tộc, có nhiều nét giống với chế độ trƣởng giáo của các
giáo phái. Mô hình gia đình - Tộc họ theo chế độ phụ quyền đƣợc quyền duy
trì trong luật Việt Nam cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa.
Xét về khía cạnh tiểu gia đình có thể coi là một mô hình khá nổi bật
hiện tại, tƣơng ứng với chế độ hộ gia đình theo mô hình gia đình đƣợc ngƣời
làm luật XHCN lựa chọn nhƣ một biện pháp đấu tranh chống những tàn dƣ
của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân phong kiến và thúc đẩy quá trình
dân chủ hóa trong đời sống gia đình Việt Nam. Tổ chức gia đình gồm cha mẹ
và con là đối tƣợng của những quy tắc tạo thành Luật hôn nhân và gia đình
12


năm 1959. Gia đình hộ tiếp thục là đề tài chính của Luật hôn nhân và gia đình
năm 1986 và đƣợc chi phố trong Luật này bởi một hệ thống quy tắc khá chi
tiết[10,20].
Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế

của xã hội. Vì thế vai trò của mô hình gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng
trong chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ đất nƣớc.
Gia đình có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội.
Pháp luật về gia đình phải xây dựng hoặc thừa nhận một mô hình gia đình
nhất định trong việc điều tiết gia đình (với tính cách là một hiện tƣợng khách
quan đối với loài ngƣời nhƣng chủ quan đối với mỗi cá nhân trong việc tạo
lập gia đình). Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình đƣợc tiếp nhận,
phát triển góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân
tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Gia đình là môi trƣờng quan trọng, trực
tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng
con ngƣời Việt Nam giàu lòng yêu nƣớc, có ý thức làm chủ, trách nhiệm
công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có
tinh thần quốc tế chân chính[23].
Con ngƣời Việt Nam chỉ có thể đƣợc trang bị những phẩm chất tốt đẹp
nếu có một môi trƣờng xã hội tốt. Môi trƣờng đó trƣớc hết là từ mỗi gia đình,
mỗi tế bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trƣớc xã hội về sản phẩm của
gia đình mình, có trách nhiệm nuôi dƣỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã
hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trƣờng, gia đình tham gia tích cực
nhiệm vụ “dạy ngƣời, dạy chữ”, tạo ra lực lƣợng lao động tƣơng lai chất lƣợng
cao. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lƣợng lao động cho
xã hội. Từ những ngƣời lao động chân tay giản đơn đến lao động trí óc... đều
đƣợc sinh ra, nuôi dƣỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.

13


Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là
môi trƣờng quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con
trẻ. Gia đình là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý
báu của con ngƣời Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã hình thành trong quá trình

lịch sử dựng nƣớc, giữ nƣớc. Đó là lòng yêu nƣớc, yêu quê hƣơng, yêu
thƣơng đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo
trong lao động, bất khuất kiên cƣờng vƣợt qua mọi khó khăn, thử thách...
Gia đình cũng là nơi tiếp thu, giữ gìn và lƣu truyền các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, cha
mẹ, ông bà là những ngƣời thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dƣỡng tâm hồn, phát triển
tƣ duy và từng bƣớc giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con ngƣời. Qua lao
động, qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con
trẻ những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân
tộc[19]. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi dƣỡng tinh thần yêu nƣớc, lòng tự
hào dân tộc, tình cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cƣờng, anh hùng
trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động
sản xuất... Gia đình cũng giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lƣợng, chất lƣợng
dân số và cơ cấu dân cƣ của quốc gia.
Trong mỗi gia đình, vai trò của cha mẹ có vị trí tối quan trọng. Theo
truyền thống Việt Nam, đàn ông thƣờng là chủ của gia đình. Ngƣời cha là trụ
cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi
theo. Còn ngƣời mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sƣởi ấm
yêu thƣơng trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con[17]. Vì thế, gia
đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách cho trẻ em. Trình độ văn
hóa, tri thức và hiểu biết của bố mẹ cũng phần nào tác dộng đến sự hình thành
nhân cách, đạo đức và trí tuệ của thế hệ nối tiếp, đồng thời cũng tác động

14


không nhỏ tới quá trình phát triển và hoàn thiện xã hội tiến tới xã hội văn
minh, tiến bộ.
Xã hội chuyển động ngày một nhanh hơn, các “tế bào” của xã hội chịu
ảnh hƣởng mạnh mẽ của thế giới bên ngoài, đặc biệt là từ thế giới internet,

chịu tác động bởi nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trƣờng nên văn hóa gia
đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống xã hội.
Mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu
ham muốn vật chất, ít chú trọng đời sống tình cảm tinh thần, tình trạng xung
đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho gia đình
không đƣợc bền vững[21, 22]. Vì thế, để tạo dựng nền tảng vững chắc cho
thế hệ tƣơng lai, phải bắt đầu giáo dục con trẻ trong gia đình - trƣớc khi
những mầm non ấy đặt chân tới trƣờng và tiếp xúc với môi trƣờng xã hội. Đó
đƣợc xem là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên nhân cách của một
con ngƣời, một thế hệ.
Từ đây có thể đƣa ra định nghĩa về mô hình gia đình nhƣ sau: “Mô
hình gia đình là một định chế đã tồn tại trước khi có sự điều chỉnh của pháp
luật. Mô hình gia đình xây dựng mối quan hệ, trách nhiệm giữa các thành
viên trong gia đình với nhau được hình thành dựa trên sự xác lập hôn nhân,
quy định các mối quan hệ và nghĩa vụ giữa các thành viên gia đình với nhau
để thực hiện đúng vai trò của hôn nhân gia đình.”
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết về xây dựng mô
hìnhgia đình
1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của mô hình gia đình
Theo Ăngghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn gắn với phƣơng
thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của gia đình phụ
thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản vật của một chế
độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của
15


chế độ xã hội đó”[1.2]. Ăngghen cũng vạch rõ nguồn gốc phát triển của các
hình thức gia đình trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự
nhiên và do sự phát triển của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển
của tâm lý, đạo đức, tình cảm của con ngƣời, trong đó sự phát triển của các

điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định. Những điều kiện kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình thức
tổ chức và kết cấu của gia đình. “Chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu
chi phối”. Ngƣợc lại, gia đình và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác
động rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hƣởng trực
tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con ngƣời để bảo vệ nòi giống cũng nhƣ tái
tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội.
Thực tế lịch sử cho thấy, gia đình lần lƣợt biến đổi tƣơng ứng với
những giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Theo Ăngghen, trong xã hội
công xã nguyên thủy, trình độ lực lƣợng sản xuất rất thấp, cá nhân không tách
rời tập thể, cuộc sống cộng đồng về nhiều mặt… đã tạo nên hình thức gia đình
tập thể – quần hôn. Mỗi bƣớc tiến của xã hội cộng đồng nguyên thủy và kết
quả do đào thải tự nhiên lại đƣa đến những dạng mới, mang sắc thái tiến bộ
hơn cho hình thái gia đình này. Giai đoạn đầu của xã hội cộng đồng nguyên
thủy có gia đình cùng dòng máu ( huyết thống ), các tập đoàn hôn nhân đều
phân theo thế hệ. Đến giai đoạn giữa của xã hội cộng đồng nguyên thuỷ xuất
hiện gia đình punaluna ( bạn thân), trong đó quan hệ tỉnh giao giữa anh ẹm
trai với chị em gái đã bị hủy bỏ. và giai đoạn cuối cùng của xã hội này đã hình
thành gia đình cặp đôi ( đối ngẫu), trong đó kết hôn từng cặp đã tồn tại ( tuy
còn lỏng lẻo); trong số vợ rất đông của mình, ngƣời đàn ông có một ngƣời vợ
chính, và trong số nhiều ngƣời chồng khác, anh ta lại là ngƣời chồng chính
của ngƣời đàn bà ấy. Những kiểu trên cúa gia đình tập thể – quần hôn đều có

16


đặc trƣng là: tính giao tập thể, kinh tế cộng đồng nguyên thủy, chế độ mẫu hệ,
không có áp lực và bất bình đẳng giữa các thành viên[2].
Ăngghen cho thấy rằng, trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã
từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần hôn, sau đó xuất hiện

hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ nhất định.
Cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng xuất hiện. Gia đình một vợ,
một chồng đƣợc nảy sinh từ gia đình cặp đôi vào lúc giao thời giữa giai đoạn
giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng lợi của gia đình một vợ, một
chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của thời đại văn minh. Gia
đình một vợ, một chồng đƣợc hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực
lƣợng sản xuất làm nảy sinh chế độ tƣ hữu và sự phân chia giai cấp trong xã
hội. Hình thức này đƣợc duy trì cho đến ngày nay và sẽ ngày càng hoàn thiện
hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tƣ liệu sản xuất. Gia đình một
vợ, một chồng trong chế độ tƣ hữu trở thành những đơn vị kinh tế của xã hội.
Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tƣ hữu hoàn toàn đƣợc thực hiện dần
dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ
một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội.
Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên
không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế,
tức là trên thắng lợi của sở hữu tƣ nhân đối với sở hữu công cộng nguyên
thủy và tự phát. Sự phân tích toàn diện của Ăngghen về quá trình phát sinh và
phát triển của các hình thức gia đình cho thấy tính liên tục một cách khoa học
nhất, đúng đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trƣớc kia chƣa từng diễn
ra. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ăngghen đã chỉ
ra các hình thức hôn nhân chính tƣơng ứng với các giai đoạn phát triển khác
nhau của nhân loại[1].

17


Khi viết về gia đình, về hôn nhân và tình yêu nam nữ, Ăngghen tán
thành quan điểm của Moóc gan cho rằng: “Gia đình là yếu tố năng động, nó
không bao giờ đứng nguyên một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một
hình thức cao, nhƣ xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn

cao”[2]. Các Mác và Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để
nghiên cứu xã hội loài ngƣời. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự
nhiên. Các ông cũng dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là “chủ nghĩa xã hội”. Điều đó là do quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lƣợng
sản xuất, trong các yếu tố cấu thành lực lƣợng sản xuất thì con ngƣời có vai
trò quyết định, mà con ngƣời cụ thể chính là sản phẩm duy trì nòi giống của
gia đình.
Trong nền đại công nghiệp tƣ bản chủ nghĩa, không chỉ các quan hệ xã
hội mà cả quan hệ gia đình cũng bị thay đổi. Sự yên ấm của từng gia đình
cũng có thể bị phá vỡ theo dòng xoáy nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa: “Chính
nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa lại có sứ mệnh phải gây cho lối hôn nhân đó
một vết rạn quyết định. Biến mọi thứ thành hàng hoá” đồng thời “xé toang
tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ
ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”[2].
Gia đình của xã hội văn minh đƣợc hình thành trên nền tảng của tình
yêu và hôn nhân, đó cũng là những quyền hết sức cơ bản của con ngƣời quyền đƣợc tự do yêu đƣơng và tự do kết hôn, đƣợc cộng đồng xã hội tôn
trọng và bảo vệ: “Hiện nay chỉ có trong giai cấp vô sản thì tình yêu nam nữ
mới có thể trở thành một quy tắc”, và muốn thực hiện đƣợc điều đó,“tất yếu
phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên”. Dƣới chế độ tƣ hữu,
phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò lớn nhƣng địa vị thấp hèn cả
18


trong gia đình lẫn ngoài xã hội; luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị
bóc lột, bị tha hoá. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình thức bất
bình đẳng tuy có thay đổi nhƣng bản chất thì không thay đổi. Các Mác còn tố
cáo sự lợi dụng, bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tƣ bản. Phụ
nữ bị đối xử kém hơn cả so với súc vật, họ phải lao động nặng nhọc trong

những điều kiện khắc khổ: “để kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh thoảng ngƣời
ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa”[1,2].
Theo Lênin: “Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho họ thực
sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội, phải để
phụ nữ tham gia vào lao động sản xuất chung. Nhƣ thế, phụ nữ mới có địa vị
bình đẳng với nam giới”.
Ăngghen viết: “Hiện nay, chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã
hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trƣớc tới nay của chế độ một vợ một chồng
cũng nhƣ cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm, đều nhất định sẽ bị
tiêu diệt…các tƣ liệu sản xuất mà đƣợc chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ
lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ
không còn một tình trạng một số phụ nữ… cần thiết phải bán mình vì đồng
tiền nữa... chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn, mà cuối
cùng lại còn trở thành một hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa”. Tuy
nhiên nếu gia đình một vợ một chồng không đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã
hội, không tiến triển cùng đƣợc với sự tiến triển của xã hội thì tất yếu sẽ có
một hình thức gia đình mới ra đời thay thế nó. Vậy là theo quy luật phát triển,
loài ngƣời tất yếu sẽ tiến một bƣớc cao hơn thời đại xã hội tƣ bản chủ nghĩa,
đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa mà trƣớc hết phải xây dựng giai đoạn đầu xã hội xã hội chủ nghĩa. Gia đình cũng vậy, cũng phải có những bƣớc tiến để
theo kịp và phản ánh đúng, tiến triển cùng xã hội xã hội chủ nghĩa[2,10].

19


1.3.2. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển hệ thống pháp luật Việt
Nam về mô hình gia đình
Trƣớc năm 1945, Việt Nam là nƣớc thuộc địa nửa phong kiến, quan hệ
hôn nhân gia đình thời kỳ này đƣợc điều chỉnh bởi một số bộ luật dân sự
đƣợc áp dụng cho từng khu vực Việt Nam nhƣ Bộ luật dân sự Bắc Kỳ 1931;
Bộ luật dân sự Trung kỳ 1936; Bộ luật giản yếu 1883.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 là thời kỳ Việt Nam bị chia cắt
thành hai miền Nam Bắc. Miền Bắc làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, sau đó tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Miền Nam
tiến hành cuộc cách mạng giải phóng để thống nhất nƣớc nhà. Pháp luật điều
chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình ở mỗi miền có khác nhau. Ở miền Bắc từ
năm 1945 - 1958, trong giai đoạn này Bản Hiến pháp đƣợc Quốc hội nƣớc
Việt nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946 có ý nghĩa quan trọng
trong đời sỗng xã hội Việt Nam. Tại điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phƣơng diện”. Nội dung này là cơ sở pháp
lý về quyền bình đẳng nam và nữ trong quan hệ hôn nhân, là quyền tắc để giải
quyết các quan hệ hôn nhân trong chế độ mới mà ngay sau đó nguyên tắc này
đƣợc thể hiện rõ trong một số sắc lệnh liên quan tới hôn nhân và gia đình
trong thời kỳ này. Ví dụ Sắc lệnh số 159 - SL đƣợc ban hành ngày 17/11/1950
của Chủ tịch nƣớc quy định về vấn đề ly hôn. Sắc lệnh số 97 - SL ngày
22/5/1950 của Chủ tịch nƣớc về sử đổi một số quy định về hôn nhân và gia
đình. Sắc lệnh số 97 - SL tuyên bố bãi bỏ việc thi hành ba bộ luật Bộ luật dân
sự Bắc Kỳ 1931; Bộ luật dân sự Trung kỳ 1936; Bộ luật giản yếu 1883 trên
toàn cõi Việt Nam. Từ năm 1959 - 1975 trong giai đoạn này, bản Hiến pháp
mới của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đƣợc quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ 11 ngày 31/12/1959. Về vấn đề liên quan tới quan hệ hôn nhân gia
đình, đoạn 1 điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định nhƣ sau: “ Phụ nữ nƣớc
20


Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh
hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Đoạn 4 điều 24 Hiến pháp
1959 quy định “Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Xuất phát từ tình
hình thực tế về quan hệ hôn nhân và gia đình trong trình hình mới, Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam đƣợc Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 11 ngày
29/12/1959. Điểm đáng lƣu ý là việc ra đời của Luật hôn nhân và gia đình

năm 1959 đƣợc xem nhƣ dấu mốc cho việc tách quan hệ hôn nhân gia đình ra
khỏi ngành luật dân sự thành ngành luật độc lập[16,17].
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình ở miền Nam Việt Nam
vẫn chịu sự điều chỉnh của các quy định trong Bộ luật dân sự giản yếu Nam
kỳ 1883 cho đến năm 1959. Ngày 02/01/1959 chính quyền Ngô Đình Diệm
công bố Luật gia đình. Tháng 11/1963 chính quyền Ngô Đình Diệm bị phế
truất và Luật gia đình năm 1959 của chế độ đó bị hủy bỏ bởi Sắc luật số
15/64. Ngày 20/12/1972 Bộ luật dân sự đƣợc ban hành thay thế cho sắc luật
số 15/64 cùng văn bản sửa đổi và bổ sung Sắc luật này trƣớc đó. Nhƣ vậy từ
tháng 12/1972 cho đến ngày 30/4/1975 các quan hệ hôn nhân dƣới chính
quyền Sài Gòn chịu nhiều sự điều chỉnh bởi các quy phạm quy định trong Bộ
dân luật này.
Giai đoạn từ năm 1975 - 1986: Sau khi thống nhất đất nƣớc, các quan hệ
xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng ở hai miền Nam _ Bắc cùng
đƣợc điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật của nhà nƣớc Việt Nam thống nhất.
Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI đặt tên cho nƣớc Việt Nam thống nhất
là “Nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đây là cơ sở pháp lý để thống
nhất về mặt nhà nƣớc và pháp luật trên phạm vi cả nƣớc. Quan hệ hôn nhân và
gia đình trên cả nƣớc trong thời gian này đƣợc điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và
gia đình đang đƣợc áp dụng ở miền Bắc, đó là Luật hôn nhân và gia đình năm
1959. Sau đó Hiến pháp năm 1980 của nƣớc Cộng hòa
21


xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc hội khóa VI thông qua trong kỳ họp
thứ 7. Bản Hiến pháp này quy định nhiều nguyên tắc cho việc ban hành các
văn bản pháp luật đối với tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực hôn nhân và
gia đình. Về vấn đề hôn nhân đƣợc quy định tại Điều 63, 64 của Hiến pháp.
Theo đó nam nữ có quyền ngang nhau trong quan hệ hôn nhân và gia đình; hô
nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình

đẳng. Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia đình. Các nguyên tắc này cùng với
các quy định của Luật hôn nhân và gia đình 1959 là cơ sở pháp lý để điều
chỉnh quan hệ hôn nhân cho tới khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có
hiệu lực.
Giai đoạn từ năm 1986 - 1993, trong giai đoạn này, Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986 đƣợc ban hành thay thế cho Luật hôn nhân và gia đình
năm 1959. Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, Luật này quy định hƣớng tới vợ
chống bình đẳng, thƣơng yêu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, khuyến khích các
chủ thể tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, nhà nƣớc cho rằng cha mẹ nên cùng nhau nuôi dạy con thành những
công dân có ích cho xã hội. Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình
năm 1959, để tiếp tục xây dựng và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn
và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, Luật Hôn nhân và
gia đình 1986 đã giữ gìn lại những tập quán tốt đẹp của dân tộc, và tiến hành
xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình
phòng kiến, chống ảnh hƣởng của chế độ hôn nhân và gia đình tƣ sản.
Giai đoạn từ năm 1993 - 2000, trong giai đoạn này, sự ra đời của Luật
hôn nhân và gia đình 2000 kế thừa và phát huy thành tựu của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959 và năm 1986 của nhà nƣớc ta, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 ra đời đã góp phần đề cao vai trò của gia đình trong đời sống
xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa đạo đức tốt đẹp của gia
22


định Việt Nam, qua đó có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển nguồn
nhân lực, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phƣơng nói riêng
và đất nƣớc nói chung[9].
Thông qua những quy định cụ thể , Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ, ấm no hạnh phúc ở Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con ngƣời, quyền

công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình, tạo ra hành lang pháp lý góp phần thiết lập và bảo đảm sự an toàn
cho các quan hệ tài sản phát sinh trong nội bộ các thành viên gia đình cũng
nhƣ các giao dịch giữa các thành viên gia đình với các chủ thể khác trong xã
hội; ghi nhận quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài
Tuy nhiên sau 13 năm đi vào cuộc sống, trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc
sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế, các quan hệ hôn nhân và gia đình đã có
những thay đổi đáng kể cần có sự điều chỉnh phù hợp hơn của pháp luật.
Trong bối cảnh nhƣ vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bộc lộ một
số điểm bất cập, hạn chế. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật này là yêu cầu
cấp thiết nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tế các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các địa phƣơng và
bộ ngành có liên quan và thông qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan
soạn thảo, ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII Luật Hôn
nhân và gia đình sửa đổi chính thức đƣợc thông qua, với 10 chƣơng, 133 điều
quan hệ hôn nhân gia đình sẽ có những quy định pháp lý điều chỉnh về chế độ
hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên
gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nƣớc và xã hội
23


trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Cụ thể, Luật quy
định những vấn đề nhƣ: Kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm dứt hôn
nhân; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác của gia
đình; cấp dƣỡng; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài..

24



CHƢƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG MÔ
HÌNH GIA ĐÌNH CỦA VIỆT NAM THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014
2.1. Những quy định của pháp luật trƣớc đây về mô hình gia đình
2.1.1. Xác lập quan hệ hôn nhân
Theo Việt Nam dân luật lƣợc khảo, giá thú là sự phối hợp, đƣợc luật pháp
công nhận, giữa một ngƣời đàn ông và một ngƣời đàn bà với mục đích lập gia
đình sinh con để nối rõi và thờ phụng tổ tiên[15]. Vì mục đích nối rõi là mục
đích cốt yếu của định chế giá thú, cho nên ngày xƣa khi lấy vợ không có con,
ngƣời chồng có quyền rẫy vợ. Ngày nay, theo quan niệm Tây phƣơng, mục đích
ấy không có tính cách thiết yếu nữa. Vì vậy trong những cớ ly hôn, sự không có
con để phụng sự tổ tiên không đƣợc nhà làm luật chấp nhận. Hơn nữa, sau khi đã
làm giá thú, ngƣời chồng không thể tự ý bỏ vợ; gặp trƣờng hợp nào cũng vậy,
muốn bỏ vợ phải theo thủ tục ly hôn đã ấn định trong luật. Bởi vậy, hiện nay có
thể định nghĩa giá thú nhƣ sự phối hợp giữa một ngƣời đàn ông và một ngƣời
đàn bà, đƣợc pháp luật công nhận và không thể tự ý hủy bỏ đƣợc. Trong việc giá
thú, sự ƣng thuận của hai vợ chồng là một điều kiện căn bản, vì vậy ngƣời ta có
thể coi giá thú nhƣ một khế ƣớc, do sự thỏa thuận của hai bên kết lập mà thành.
Tuy nhiên, xét cho kỹ, bản chất pháp lý của giá thú không giống bản chất của các
khế ƣớc khác. Hai vợ chồng không thể tự mình ấn định hiệu lực của giá thú theo
nhƣ ý riêng trong các khế ƣớc. Trái lại, hiệu lực của giá thú đối với hai vợ chồng
cũng nhƣ đối với các con đã do các điều khoản trong luật quy định sẵn; các sự
không thể sửa chữa đƣợc, thay đổi theo ý riêng. Vì lẽ ấy, một phần học lý đã coi
giá thú là một định chế chứ không phải là một khế ƣớc. Quan niệm này nâng cao
giá thú lên địa vị một tập thể hữu quan, một đoàn thể trong xã hội vƣợt ngoài ý
chí cá nhân của các đƣơng sự. Một vài luật gia cho rằng vấn đề ấn định rõ bản
tính của giá thú
25



×