Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000 vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.57 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ LAN ANH

HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM
2000 - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Lan Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa


Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM................................................... 8
1.1. Khái quát chung về kết hôn, kết hôn trái pháp luật và vấn đề
điều chỉnh pháp luật...................................................................................................................... 8
1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn................................................................ 8
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật......................................................................... 14
1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật..................................................... 16
1.2. Điều chỉnh pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật ở Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử................................................................................................. 18
1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ luật
Việt Nam....................................................................................................................................... 18
1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ
Pháp thuộc.................................................................................................................................... 20
1.2.3. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn
từ năm 1945 đến năm 1975................................................................................................. 22
1.2.4. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn
từ năm 1975 đến nay............................................................................................................... 28
Chƣơng 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT..................................................32
2.1. Nguyên tắc xử lý đối với hủy việc kết hôn trái pháp luật..................32
2.2. Ngƣời có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật...........................34

2.2.1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn.................................................36
2.2.2. Viện kiểm sát....................................................................................37
2.2.3. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ................37
2.2.4. Vợ, chồng, cha, mẹ, con cái của các bên kết hôn.............................39
2.3. Thẩm quyền của Tòa án và thủ tục huỷ việc kết hôn trái pháp luật......................41



2.4. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật và đƣờng lối giải quyết đối với các
trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật ..................................................................................

2.4.1. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn ...........................
2.4.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện ...............................
2.4.3. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn .......
2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật ........................
2.5.1. Quan hệ nhân thân.............................................................................
2.5.2. Quan hệ cha, mẹ và con ....................................................................
2.5.3. Quan hệ tài sản ..................................................................................
Chƣơng 3. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................
3.1. Thực tiễn giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật trong 05 năm gần đây
(2009 - 2013) ..................................................................................................................
3.2. Phƣơng hƣớng cơ bản để hoàn thiện pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật

3.2.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật ..........................
3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về huỷ việc kết hôn trái
pháp luật ......................................................................................................
3.3. Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện quy định về hủy kết hôn trái
pháp luật ........................................................................................................
KẾT LUẬN .........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................


MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia

đình” [22, Khoản 2 Điều 36]. Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế
bào của xã hội. "Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt"[19]. Từ ý nghĩa sâu sắc đó Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến việc xây dựng
các chuẩn mực để tạo nên gia đình văn hoá, tiến bộ mang đậm bản sắc văn
hoá truyền thống dân tộc. Mục tiêu này đã đƣợc luật hoá trong các văn bản
pháp luật nói chung, đặc biệt là trong pháp luật Hôn nhân và gia đình. Luật
Hôn nhân và gia đình đã tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh các quan hệ hôn
nhân và gia đình phát triển theo đúng hƣớng mà Nhà nƣớc đã đề ra. Kết hôn
là bƣớc khởi đầu để hình thành nên gia đình, vì vậy việc quy định các điều
kiện kết hôn là yêu cầu tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, do tác động của nhiều
yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, việc không tuân thủ các điều kiện kết hôn vẫn
đang diễn ra hàng ngày trong đời sống gây nên hiện tƣợng kết hôn trái pháp
luật. Các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật đã có những tác động tiêu cực đến
các mặt của xã hội, ảnh hƣởng tới đạo đức, nhân cách, lối sống của con
ngƣời, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, ảnh hƣởng tới sức khoẻ và việc duy trì nòi giống của
dân tộc. Vì vậy, Nhà nƣớc ta đã điều chỉnh hiện tƣợng này bằng chế tài Huỷ
việc kết hôn trái pháp luật. Là chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình nên hậu
quả của huỷ việc kết hôn trái pháp luật là rất nặng nề, ảnh hƣởng tới cuộc
sống của chủ thể kết hôn, tới quyền lợi cuả con cái họ, quyền lợi của mọi
ngƣời và ảnh hƣởng tới trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về vấn đề huỷ việc
kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình là vô cùng cần thiết.
Không chỉ nhằm giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiệu quả, mà
quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa chế tài này. Có nhƣ vậy ý nghĩa của
1



chế tài mới đƣợc phát huy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, dù là chế tài đã đƣợc quy định rất có hệ
thống, nhƣng thực tiễn xét xử cho thấy có rất ít trƣờng hợp hủy việc kết hôn
trái pháp luật. Thực trạng này phản ánh tính đặc thù của thi hành và áp dụng
pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung, áp dụng các quy định về hủy
việc kết hôn trái pháp luật nói riêng. Nhằm làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của hủy việc việc kết hôn trái pháp luật, qua đó đề xuất những
luận cứ cho việc hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình mà cụ thể là
chế định hủy việc kết hôn trái pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hủy việc kết
hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000Vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Huỷ việc kết hôn trái pháp luật là một vấn đề cần đƣợc quan tâm trong
thực tiễn cuộc sống và trong hệ thống pháp luật. Bởi ngoài việc xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm thì đây còn là biện pháp răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của mọi công dân, bảo đảm tính hiệu quả của pháp luật. Do
vậy, trong thời gian qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề huỷ
việc kết hôn trái pháp luật đƣợc đăng tải trên tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà
nƣớc và pháp luật… kể cả một số luận văn thạc sĩ và luận văn tiến sĩ luật học
nghiên cứu liên quan. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chủ yếu nhƣ:
Hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa
luận tốt nghiệp của Phạm Thị Thu, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2002.
Khóa luận này chỉ trình bày vấn đề mang tính chất khái quát về hủy việc kết hôn
trái pháp luật mà không đi sâu phân tích vấn đề lý luận và thực tiễn. Hay nhƣ:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã
hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

năm 2012 của Nguyễn Huyền Trang. Ở luận văn này, tác giả
2


đánh giá thực trạng của việc kết hôn trái pháp luật nhƣng chỉ đề cập mang
tính sơ lƣợc về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật. Một số các bài báo, tạp
chí chuyên ngành luật đƣợc đăng tải trên các Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp
chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp
chí Luật học… cũng đã có đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên chỉ dừng lại một
khía cạnh nào đó. Ví dụ nhƣ "Bàn về huỷ kết hôn trái pháp luật" của tác giả
Thái Công Khanh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 4, tháng 2/2007; "Có thể
tuyên bố huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi một bên kết hôn chết" của tác giả
Trần Thiện Hoàng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 14, tháng 7/2011; "Nên
cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi mấy đời?" của tác giả
Ngô Cƣờng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 7, tháng 4/2013; "Thẩm quyền
giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thuộc Toà án nào?" của tác
giả Nguyễn Thị Hƣơng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 20 tháng 10/2009;
"Giải quyết việc kết hôn trái pháp luật như thế nào trong vụ án thừa kế" của
tác giả Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 tháng 12/2011;
"Kết hôn - hậu quả pháp lý theo Luật Hôn nhân và gia đình" của tác giả
Nguyễn Quang Hiền trên Tạp chí Toà án nhân dân số 10, tháng 5/2013;
"Hoàn thiện quy định về các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000" cuả tác giả TS. Nguyễn Văn Cừ trên Tạp chí Toà án
nhân dân số 24, tháng 12/2013…
Nhƣ vậy, có thể nhận thấy mỗi công trình nghiên cứu là sự khai thác
khác nhau, nhìn nhận vấn đề dƣới các góc độ khác nhau. Với công trình của
mình, tác giả tiếp cận vấn đề một cách tổng quan và đi sâu phân tích về lý
luận cũng nhƣ thực tiễn của huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, công trình
sẽ không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trƣớc đó.
3.


Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm huỷ việc
kết hôn trái pháp luật, căn cứ và đƣờng lối giải quyết huỷ việc kết hôn
3


trái pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng nhƣ
các quy định pháp lý về vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Đồng thời,
phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hƣớng phát triển các quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trên cơ sở đó đƣa ra các giải pháp,
kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật của Nhà nƣớc về vấn
đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
đƣợc những nhiệm vụ cụ thể sau:
-

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật

nhƣ: Quan niệm kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật; huỷ việc
kết hôn trái pháp luật;
-

Nghiên cứu vấn đề điều chỉnh pháp luật trong việc huỷ việc kết hôn

trái pháp luật nhƣ: nguyên tắc huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các quy định về
ngƣời có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các căn cứ huỷ việc
kết hôn trái pháp luật; đƣờng lối giải quyết; hậu quả pháp lý của huỷ việc kết
hôn trái pháp luật.

-

Đánh giá chung thực tiễn giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật trong

giai đoạn hiện nay, trên cơ sở làm rõ nhu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện
pháp luật hôn nhân và gia đình về huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến
nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là các quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình 2000; văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam qua
các thời kỳ; thực tiễn áp dụng pháp luật trong huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật hôn nhân và gia đình,
vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật có thể đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài: Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 - Vấn đề lý luận và thực tiễn, luận
4


văn sẽ chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận xung quanh khái niệm huỷ việc
kết hôn trái pháp luật; những quy định về huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng nhƣ thực tiễn giải quyết
huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, từ đó tìm
ra những bất cập và đƣa ra các phƣơng hƣớng giải quyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cũng nhƣ mọi công trình khoa học khác phƣơng pháp luận sử dụng
trong việc nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp bổ trợ
nhƣ phƣơng pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm đánh giá vấn
đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Trên cơ sở phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh vấn

đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng
pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này, để rút ra những ƣu điểm, tồn tại
trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
6. Những điểm mới của luận văn
So với những công trình nghiên cứu về hủy việc kết hôn trái pháp luật
trƣớc đây, luận văn có những điểm mới nhƣ sau:
-

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp

luật của quy định hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000.
-

Luận văn nêu ra những hạn chế, vƣớng mắc trong quá trình thực

hiện áp dụng pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.
-

Luận văn đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hủy việc

kết hôn trái pháp luật.
7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
5



Với tƣ cách là một công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề hủy việc
kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000,
kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang lại những đóng góp về mặt khoa học
và thực tiễn.
* Ý nghĩa khoa học
-

Luận văn phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp

luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.
-

Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này

về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật
-

Luận văn chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập và kiến nghị hƣớng hoàn

thiện về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000. Những ý kiến này có thể đƣợc sử dụng tham khảo trong quá trình sửa
đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình trong thời gian sắp tới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận văn đã chỉ
ra những vƣớng mắc, bất cập của vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đồng thời luận văn còn chỉ rõ sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Những ý kiến về phƣơng hƣớng
hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình trong luận văn có thể góp phần quan

trọng trong thực tiễn thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về huỷ việc kết
6


hôn trái pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết, phƣơng hƣớng và giải pháp tăng
cƣờng hiệu quả điều chỉnh pháp luật về huỷ việc kết hôn trái pháp luật ở Việt
Nam hiện nay.

7


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN, KẾT HÔN TRÁI PHÁP
LUẬT VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT.
1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn.
Sự kết hợp giữa ngƣời đàn ông và đàn bà là quy luật của tự nhiên.
Trong lịch sử phát triển của loài ngƣời, từ thời kỳ sơ khai, khái niệm kết hôn
chƣa hình thành, quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi,
nhằm thỏa mãn nhu cầu bản năng và duy trì nòi giống. Khi con ngƣời thoát
khỏi thời kỳ đồ đá, con ngƣời đã biết tổ chức cuộc sống dƣới hình thức thị
tộc, bộ lạc. Mỗi thị tộc, bộ lạc tự đặt ra các quy tắc nhằm điều chỉnh các mối

quan hệ trong tổ chức của mình và phù hợp với tổ chức chung của cộng đồng.
Khi đó, quan hệ giữa ngƣời đàn ông và đàn bà không chỉ mang tính bản năng
mà còn mang tính xã hội. Quan hệ đó chịu sự điều chỉnh bởi các tục lệ của thị
tộc, bộ lạc và hình thành trên cơ sở huyết thống. Khái niệm kết hôn đơn giản
chỉ là sự kết hợp rất tự nhiên của hai chủ thể nam - nữ, đƣợc xác lập trên cơ
sở chung sống thực tế. Việc kết hôn đƣợc coi là hợp pháp khi nó tuân thủ các
quy tắc đã đặt ra và đƣợc cả cộng đồng thừa nhận, cho phép.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện chế độ tƣ hữu dẫn
đến sự ra đời của Nhà nƣớc, pháp luật đƣợc ban hành và trở thành công cụ
của giai cấp thống trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mỗi một giai đoạn lịch
sử, giai cấp thống trị điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật kết hợp với
phong tục tập quán, các quy định tôn giáo cho phù hợp với ý chí của giai cấp
mình nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp và nhằm ổn định trật tự xã hội nói
chung. Các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh phát triển thành các
quan hệ pháp luật. Các quy tắc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
8


gia đình do nhà nƣớc ban hành hoặc thể chế hóa trở thành pháp luật hôn nhân
và gia đình. Thông qua Nhà nƣớc và pháp luật giai cấp thống trị tác động vào
các quan hệ hôn nhân gia đình làm cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi
và chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Khi đó sự kết hợp giữa
ngƣời nam và ngƣời nữ đƣợc điều chỉnh bởi pháp luật và khái niệm kết hôn
dƣới góc độ pháp lý đƣợc hình thành.
Dƣới góc độ pháp luật, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan
hệ vợ chồng và theo nghi thức đƣợc pháp luật quy định. Việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận mới đƣợc coi là kết hôn
hợp pháp. Kết hôn là điểm khởi đầu, là cánh cửa mở ra cuộc sống hôn nhân.
Kết hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân, là cơ sở để hình thành gia đình. Từ sự
kiện kết hôn sẽ làm phát sinh quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ - chồng.

Cũng từ sự kiện kết hôn giữa hai ngƣời khác giới sẽ hình thành một gia đình
với nhiệm vụ thực hiện đầy đủ các chức năng đối với xã hội, đó là chức năng
sinh sản; chức năng giáo dục và chức năng kinh tế.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện kết hôn, pháp luật nƣớc ta
đã có những quy định chặt chẽ về điều kiện để việc kết hôn đƣợc coi là hợp
pháp và đƣợc Nhà nƣớc công nhận, bảo hộ. Điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: “Kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”[19].
Nhƣ vậy, pháp luật nƣớc ta quy định kết hôn hợp pháp phải thỏa mãn hai
điều kiện.
Thứ nhất, chủ thể kết hôn phải thể hiện ý chí là mong muốn đƣợc kết
hôn với nhau. Việc kết hôn, trƣớc tiên phải là sự thể hiện ý chí tự nguyện của
hai bên nam nữ mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Sự mong muốn ấy
xuất phát từ tình cảm, từ tình yêu thƣơng của hai bên mà không phải bởi sự
tác động của bất cứ ai, bất cứ động lực nào. Hai bên mong muốn kết hôn với
nhau với mục đích cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và cùng nhau sinh
9


con đẻ cái. Và ý chí của hai bên phải thống nhất với sự thể hiện ý chí. Sự thể
hiện đó phải thông qua hành vi thực hiện các thủ tục nhất định do pháp luật
quy định. Đó là việc cả hai bên cùng nhau thực hiện nghi thức đăng ký kết
hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền.
Thứ hai: Việc kết hôn phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận. Việc kết hôn hay
không là phụ thuộc vào ý muốn của mỗi ngƣời, không pháp luật hay Nhà
nƣớc nào bắt buộc họ phải kết hôn. Nhƣng chủ thể khi kết hôn họ phải chịu
sự điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình. Ngoài việc phải tuân thủ
đầy đủ điều kiện kết hôn họ còn phải thực hiện theo hình thức do pháp luật
quy định, đó là việc đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn chính là hình thức
thể hiện sự thừa nhận và bảo hộ của Nhà nƣớc.

Có hai nghi thức kết hôn thƣờng đƣợc các nƣớc quy định là nghi thức
dân sự và nghi thức tôn giáo. Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức dân sự
nhƣ Pháp, Bỉ, Hà Lan.... Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức tôn giáo nhƣ

các quốc gia Hồi giáo. Có những nƣớc chấp nhận cả hai nghi thức và ngƣời
kết hôn có quyền lựa chọn một trong hai nghi thức khi kết hôn nhƣ Mỹ, Ý,
Thuỵ Điển.... Có những nƣớc buộc phải thực hiện lần lƣợt cả hai nghi thức
tôn giáo và dân sự nhƣ Vƣơng quốc Anh.


Việt Nam thời hiện đại, pháp luật chỉ thừa nhận nghi thức dân sự, đó

là việc kết hôn phải đƣợc đăng ký tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Chỉ
khi nào nam nữ đăng ký kết hôn và đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
đăng ký kết hôn công nhận bằng hình thức cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn thì họ mới đƣợc coi là vợ chồng và khi đó quan hệ của họ mới đƣợc Nhà
nƣớc thừa nhận và bảo hộ. Việc đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn
có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là biện pháp để Nhà nƣớc kiểm soát việc tuân
theo pháp luật của công dân trong việc kết hôn, đồng thời ngăn chặn những
hiện tƣợng kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp
luật. Đăng ký kết hôn còn là biện pháp bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho hai
10


bên nam nữ. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có giá trị pháp lý quan trọng,
là chứng cứ viết xác nhận giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ
vợ chồng, là cơ sở xác định thời điểm phát sinh quan hệ vợ chồng, là cơ sở
giải quyết khi phát sinh tranh chấp, là căn cứ để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Mọi nghi thức khác nhƣ tổ chức lễ cƣới tại
gia đình hoặc kết hôn theo nghi thức tôn giáo đƣợc tiến hành tại nhà thờ mà

không có giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp
thì không đƣợc công nhận là hợp pháp.
Nhƣ vậy, kết hôn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ
chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác nhận chủ thể của
quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm
phát sinh các quan hệ đó. Kết hôn phù hợp với các điều kiện luật định là căn
cứ để Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình đó.
Từ khái niệm kết hôn, có thể thấy kết hôn và điều kiện kết hôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết hôn chỉ đƣợc coi là hợp pháp khi nó thỏa mãn
điều kiện của kết hôn. Điều kiện là những yêu cầu buộc phải thực hiện trƣớc
khi tiến hành một việc nào đó. Điều kiện kết hôn là tất cả những gì ngƣời kết
hôn phải tuân thủ.
Cùng với sự ra đời và phát triển của khái niệm kết hôn, các điều kiện
kết hôn cũng đƣợc hình thành. Từ trƣớc khi có Nhà nƣớc, các điều kiện kết
hôn chính là những quy tắc, tục lệ đƣợc đặt trong khuôn khổ của các tổ chức
xã hội nhƣ thị tộc, bộ lạc. Khi chế độ tƣ hữu xuất hiện, Nhà nƣớc ra đời và
pháp luật đƣợc đặt ra nhằm thiết lập một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp
thống trị. Mỗi một kiểu nhà nƣớc khác nhau quy định về điều kiện kết hôn
khác nhau, pháp luật đã hƣớng việc kết hôn vào khuôn phép và các điều kiện
hà khắc nhằm duy trì chế độ hôn nhân cƣỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ hoặc
các bậc thân trƣởng trong gia đình; thừa nhận chế độ đa thê; duy trì sự bất
11


bình đẳng giữa ngƣời đàn ông và ngƣời phụ nữ.
Trong xã hội đƣơng đại, pháp luật thể hiện tính giai cấp nhƣng đồng
thời cũng theo xu hƣớng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện
rõ nét hơn, pháp luật là sự kết tinh của các giá trị truyền thống, văn hóa, đạo
đức dân tộc và tinh hoa nhân loại. Vì vậy, các điều kiện kết hôn cũng đƣợc

quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán
và tự nhiên của mỗi quốc gia. Nội dung các điều kiện kết hôn cũng bị chi phối
bởi bản chất Nhà nƣớc và truyền thống dân tộc.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa và phát triển
các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1986 đã có những điều chỉnh và bổ sung đáng kể về điều kiện
kết hôn tại Điều 9 và Điều 10 nhƣ sau: Về tuổi kết hôn, nam từ 20 tuổi trở
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định
không bên nào đƣợc ép buộc, lừa dối bên nào, không ai đƣợc cƣỡng ép hoặc
cản trở; cấm ngƣời đang có vợ hoặc có chồng kết hôn hoặc chung sống nhƣ
vợ chồng với ngƣời khác; cấm ngƣời mất năng lực hành vi dân sự kết hôn;
cấm kết hôn giữa những ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những
ngƣời có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những
ngƣời đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm
kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính.
So với các đạo luật trƣớc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể
hiện những điểm mới tiến bộ. Nhƣ, đã bỏ trƣờng hợp cấm kết hôn đối với
ngƣời đang mắc bệnh hoa liễu. Bởi sự phát triển của y học đã có phƣơng
pháp chữa trị căn bệnh này, việc bỏ điều kiện cấm kết hôn của ngƣời mắc
bệnh hoa liễu nhằm bảo vệ quyền kết hôn của công dân.
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thay cụm từ
“đang mắc bệnh tâm thần, không có khả năng nhận thức hành vi của mình”
12


cuả Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bằng cụm từ “mất năng lực hành vi
dân sự”. Sự thay đổi này để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với các quan hệ
pháp luật khác nhƣ quan hệ dân sự, đất đai, hành chính, hình sự….
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình bổ sung thêm việc cấm kết hôn

giữa những ngƣời đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; cấm kết hôn giữa bố
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế
với con riêng của chồng. Đây là sự bổ sung nhằm giữ ổn định các mối quan
hệ trong gia đình và củng cố hơn nền tảng đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Luật còn quy định: cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính. Đây là quy
định mới, bởi trƣờng hợp nam, nữ cùng giới tính chung sống với nhau nhƣ vợ
chồng đang diễn ra ngày càng nhiều và phổ biến. Việc quy định này thể hiện
sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật đối với những quan hệ xã hội mới phát
sinh này.
Về nghi thức kết hôn, ở các văn bản pháp luật trên đều quy định thủ tục
đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp
cơ sở nơi cƣ trú của bên nam hoặc bên nữ. Trong trƣờng hợp kết hôn có yếu
tố nƣớc ngoài thì cơ quan đại diện, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nƣớc ngoài
thực hiện việc đăng ký kết hôn. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn hai bên nam nữ
phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn và
những giấy tờ cần thiết khác. Trong trƣờng hợp có lý do chính đáng, một
trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi đơn xin
nộp hồ sơ tạm vắng mặt và phải có xác nhận của UBND cấp cơ sở nơi ngƣời
vắng mặt cƣ trú. Khi các bên toàn tất thủ tục xin đăng ký kết hôn, đƣợc cơ
quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp cho Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn thì việc kết hôn mới có giá trị
pháp lý. Đây là cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời
kết hôn.
Nhƣ vậy, trải qua những bƣớc thăng trầm của đất nƣớc pháp luật về
13


hôn nhân và gia đình cũng có những biến đổi đa dạng. Xuyên suốt chiều dài
lịch sử lập pháp Việt Nam có thể thấy vấn đề kết hôn và điều kiện kết hôn
luôn đƣợc đặt ra và có sự điều chỉnh cho phù hợp với mỗi kiểu Nhà nƣớc

nhất định. Điều kiện kết hôn là những quy định của pháp luật do Nhà nƣớc
ban hành buộc các chủ thể kết hôn phải tuân theo, đó là cơ sở xác định việc
kết hôn là hợp pháp hay trái pháp luật.
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật.
Từ khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn có thể thấy khi việc kết hôn của
hai bên nam nữ tuân thủ các điều kiện theo pháp luật quy định thì việc kết hôn đó
đƣợc coi là hợp pháp. Các trƣờng hợp kết hôn không thỏa mãn điều kiện kết hôn
thì đƣợc coi là kết hôn trái pháp luật. Theo khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: "Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ
chồng có đăng ký kết hôn nhƣng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy
định"[19]. Nhƣ vậy, chỉ coi là kết hôn trái pháp luật khi mang hai dấu hiệu cần
và đủ, đó là, vi phạm một trong các điều kiện kết hôn đƣợc quy định tại Điều 9
và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và có đăng ký kết hôn. Dấu
hiệu có đăng ký kết hôn là để phân biệt với trƣờng hợp hai bên nam nữ chung
sống nhƣ vợ chồng dù có tuân thủ các điều kiện kết hôn hay không nhƣng
không đăng ký kết hôn thì cũng không coi là kết hôn trái pháp luật. Bởi, về mặt
pháp lý trong quan hệ này các chủ thể chƣa thực hiện hành vi kết hôn thì không
thể coi sự vi phạm đó là kết hôn trái pháp luật đƣợc.

Tại Bản dự luật về ly hôn, Các Mác khẳng định: "Không ai bị buộc phải
kết hôn nhƣng ai cũng buộc phải tuân theo Luật Hôn nhân một khi ngƣời đó
kết hôn. Ngƣời kết hôn không sáng tạo ra hôn nhân, cũng nhƣ ngƣời bơi lội
không sáng tạo, không phát minh ra tự nhiên và những quy luật về nƣớc và
trọng lực. Vì thế, hôn nhân không thể phục tùng sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn
mà trái lại sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn
nhân." [6]. Quyền kết hôn là quyền của mỗi con ngƣời, nhƣng khi kết hôn
14


thì họ phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ các điều kiện

mà Nhà nƣớc quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật.
Việc kết hôn trái pháp luật gây ảnh hƣởng tiêu cực tới sự ổn định của xã hội,
tới sự quản lý của Nhà nƣớc. Về góc độ pháp lý, kết hôn trái pháp luật ảnh
hƣởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh hƣởng tới nhân
quyền, tới sự nghiêm minh của pháp luật.
Về mặt xã hội, một gia đình đƣợc xây dựng từ những "viên gạch" của
sự tự nguyện, của tình yêu thƣơng của hai bên nam nữ, của sự bảo đảm về thể
lực và trí lực, của các giá trị đạo đức xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Khi gia đình đƣợc xây dựng trên nền tảng đó mới bảo đảm đƣợc
sự bền vững, ổn định, hạnh phúc và có thể thực hiện tốt đƣợc các chức năng
đối với xã hội. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó gia đình sẽ không thể là
một tế bào tốt cho xã hội, không bảo đảm đƣợc sự bền vững, hạnh phúc và
không thể thực hiện đƣợc các chức năng đối với xã hội. Mặt khác, hành vi kết
hôn trái pháp luật còn tác động tiêu cực tới các trật tự xã hội, là nguyên nhân
của tình trạng ly hôn, tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng.
Ngoài ra, điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong pháp luật là kết tinh
của truyền thống văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy,
việc vi phạm điều kiện kết hôn sẽ làm ảnh hƣởng tới những giá trị văn hoá tốt
đẹp của con ngƣời Việt Nam, ảnh hƣởng tới đạo đức, tƣ tƣởng, lối sống của
mỗi cá nhân.
Kết hôn trái pháp luật là một hiện tƣợng xã hội và diễn ra ngày càng
nhiều trong cuộc sống, nguyên nhân dẫn của hiện tƣợng đó xuất phát từ nhiều
yếu tố khác nhau nhƣ yếu tố kinh tế - xã hội, văn hoá, pháp luật và con ngƣời.

Có thể thấy, kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm quy định về điều
kiện kết hôn, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
xã hội, tới sự ổn định và bền vững của gia đình, xâm phạm trật tự kỷ cƣơng
của Nhà nƣớc và pháp luật, đến truyền thống đạo đức, phong tục, văn hoá của
15



dân tộc.
1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Xuất phát từ hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu ngăn chặn,
xử lý và hạn chế kết hôn trái pháp luật là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to
lớn. Pháp luật quy định các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật gồm: huỷ
việc kết hôn trái pháp luật hoặc xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuỳ từng
trƣờng hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, chủ thể
thực hiện mà áp dụng các biện pháp khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi luận
văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là biện pháp tiêu hôn đƣợc
đề cập khá sớm trong lịch sử phát luật Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tuy nhiên chƣa có văn bản pháp luật nào giải nghĩa "huỷ việc kết hôn trái
pháp luật".
Theo Từ điển Tiếng Việt, huỷ có nghĩa là làm cho không còn tồn tại
hoặc không có giá trị nữa [30]. Có thể hiểu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là
biện pháp làm cho việc kết hôn trái pháp luật không còn tồn tại hoặc làm cho
việc kết hôn trái pháp luật không có giá trị nữa. Theo Từ điển giải thích thuật
ngữ Luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã có sự giải thích khá đầy đủ:
"Huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiểu là biện pháp chế tài của Luật Hôn
nhân và gia đình đối với trƣờng hợp nam nữ kết hôn nhƣng không tuân thủ
đầy đủ các điều kiện đƣợc Luật Hôn nhân và gia đình quy định" [26]. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào giải thích cụm từ
“hủy việc kết hôn trái pháp luật” nhƣng tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: "Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy
định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn
trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng
ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá

16


đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn"[19]. Có thể thấy, hủy việc kết hôn
trái pháp luật là việc Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền tác động tới việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ đó không
còn tồn tại hoặc không có giá trị pháp lý nữa. Đây là sự thể hiện thái độ không
thừa nhận của Nhà nƣớc đối với việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng
nhƣng không tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn. Là biện pháp chế tài
nên các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hành vi vi phạm
đó, giữa các bên không phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng.
Nhƣ vậy, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật
Hôn nhân và gia đình, áp dụng cho các chủ thể có đăng ký kết hôn nhƣng
không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và
gia đình, thể hiện thái độ phủ nhận của Nhà nƣớc đối với quan hệ đó, các bên
trong quan hệ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Từ định nghĩa trên, cho thấy, hủy việc kết hôn trái pháp luật mang
những đặc điểm cơ bản. Đó là, hủy việc kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ
của Nhà nƣớc đối với quan hệ kết hôn trái pháp luật. Nhà nƣớc ta là nhà
nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả các chính
sách, pháp luật của Nhà nƣớc đều đƣợc xây dựng và thực hiện xuất phát từ
lợi ích của con ngƣời, cho con ngƣời, vì con ngƣời. Ngoài mục đích bảo vệ
quyền con ngƣời, pháp luật còn bảo đảm trật tự xã hội, lợi ích chung của cả
xã hội. Để đạt đƣợc mục đích đó thì mỗi công dân phải có ý thức tuân thủ
pháp luật. Việc tuân thủ của mỗi cá thể trong xã hội sẽ đƣợc Nhà nƣớc thừa
nhận và bảo hộ. Còn các hành vi vi phạm quy định pháp luật đều phải xử lý.
Hành vi không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình cũng sẽ bị xử lý. “Hủy” chính là sự thể hiện thái độ không
đồng tình của Nhà nƣớc đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân

và gia đình áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn
17


đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là loại chế tài phủ định
pháp luật. Chế tài phủ định pháp luật là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nƣớc
đối với việc thực hiện không đúng các quy định pháp luật. Chế tài này thể
hiện sự không thừa nhận tính chất pháp lý của quan hệ mới phát sinh. Nhƣ
vậy, các chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi đối với hành vi vi phạm
của mình.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo.
Sự linh hoạt, mềm dẻo thể hiện trong nguyên tắc xử lý của Tòa án. Không
phải tất cả các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật Tòa án đều hủy, mà khi giải
quyết Tòa án phải căn cứ vào hoàn cảnh, mức độ vi phạm, hậu quả để quyết
định hủy hay không quan hệ đó.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Với tƣ cách
là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng, do Nhà nƣớc
ban hành, xuất phát từ thực tiễn xã hội, pháp luật nƣớc ta tất yếu phải đƣợc
bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài. Biện pháp chế tài đƣợc áp
dụng đối với những ngƣời vi phạm pháp luật trên cơ sở kết hợp giáo dục,
thuyết phục, thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống
các vi phạm. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài với mục đích
xử lý những ngƣời có hành vi vi phạm thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc xây dựng chế độ hôn
nhân gia đình tự nguyện, tiến bộ, xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thuần phong mỹ tục Việt Nam, đem lại hiệu quả điều chỉnh của pháp luật
trong đời sống xã hội. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp để loại bỏ
những mặt trái của pháp luật hôn nhân gia đình đồng thời có tác dụng ngăn
chặn hành vi vi phạm các quy định điều kiện kết hôn.
1.2. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI

PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ.
1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ
18


luật Việt Nam.
Nhà nƣớc Việt Nam thời kỳ phong kiến với chế độ quân chủ, mọi
quyền lực tập trung vào tay Vua, pháp luật ban hành là để bảo vệ vị trí đặc
quyền của vua và các tầng lớp quan lại, gia trƣởng. Các đạo luật đều do vua
ban hành. Di sản pháp luật thời kỳ này không còn đƣợc lƣu giữ nhiều, tiêu
biểu cho pháp luật thời kỳ nà là hai bộ luật Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều
hình luật) đƣợc ban hành dƣới triều Lê (1428 – 1788) và Bộ luật Gia Long
(Hoàng Việt luật lệ) đƣợc ban hành năm 1815 dƣới thời Nguyễn. Đây là hai
bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều Lê và triều Nguyễn, ban hành
nhằm điều chỉnh những mối quan hệ hình sự và dân sự phát sinh trong đời
sống xã hội phong kiến. Hai bộ luật này có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp
luật Việt Nam, thể hiện sự tiến bộ và tinh hoa trong kỹ thuật lập pháp của ông
cha ta.
Bộ luật Hồng Đức gồm 13 chƣơng, ghi chép trong 6 quyển, 722 điều,
quy định các vấn đề nhƣ Danh lệ, cấm vệ, quân lính, điều sản, hôn nhân và
gia đình .... Bộ luật Gia Long gồm 398 điều, chia thành 22 quyển; 01 quyển
phụ lục với những nội dung chính nhƣ Biểu kê các luật lệ, Danh lệ, Lại luật,
Hộ luật, Hình luật...Trong cả hai bộ luật đều có quy định về các trƣờng hợp
tiêu hôn. Tiêu hôn là biện pháp xử lý trƣờng hợp vi phạm các điều kiện về
cấm kết hôn. Tuy nhiên hôn nhân là một quan hệ có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống xã hội, đặc biệt đối với vợ chồng, các con và gia đình. Do vậy, mà cả
hai bộ luật trên đều có những điều kiện nhằm giới hạn những trƣờng hợp có
thể tiêu hủy hôn nhân. Pháp luật có sự phân biệt trƣờng hợp vi phạm điều
kiện thƣờng và trƣờng hợp vi phạm các điều kiện chủ yếu để có những biện
pháp xử lý tƣơng ứng. Đối với trƣờng hợp điều kiện thiết yếu thì pháp luật

không công nhận tính hợp pháp và bị tiêu hủy. Còn đối với trƣờng hợp vi
phạm điều kiện thƣờng thì có thể chỉ bị phạt mà hôn nhân vẫn tồn tại, không
bị tiêu hủy. Ví dụ, Điều 316 Bộ luật Hồng Đức quy định: Đối với những
19


trƣờng hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng các điều kiện cấm
kết hôn, tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không
công nhận tính hợp pháp của việc kết hôn đó và cần phải tiêu hủy [32]. Điều
317 và Điều 323 quy định: các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị khi vi phạm
vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân [32]. Theo quy định
của hai bộ luật này, việc tiêu hủy chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai mà không có
giá trị trở về trƣớc, tức là kể từ thời điểm kết hôn đến khi bị tiêu hủy thì hôn
nhân vẫn đƣợc coi là có giá trị pháp lý. Đây là điểm khác với pháp luật hiện
hành, pháp luật hiện hành không công nhận quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm
kết hôn. Hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn là các bên phải chia lìa hoặc ly dị,
tức là hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn đƣợc giải quyết nhƣ trƣờng hợp ly
hôn trong pháp luật hiện hành.
Nhƣ vậy, có thể thấy trong cổ luật kết hôn bị coi là vô hiệu khi vi phạm
một trong các điều kiện cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tất cả các trƣờng
hợp kết hôn vô hiệu đều bị tiêu hủy, chỉ những trƣờng hợp vi phạm nghiêm
trọng các điều kiện kết hôn mới bị tiêu hủy, còn những trƣờng hợp vi phạm
những điều kiện thƣờng thì không bị tiêu hủy mà đƣơng sự có thể phải chịu
những hình phạt nhất định. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các
bên phải chấm dứt quan hệ chung sống. Hai bộ luật này thể hiện sự tiến bộ
trong việc bảo vệ quyền lợi của gia đình và sự ổn định của xã hội, thể hiện
những nét đặc thù mang đậm phong tục, tập quán của ngƣời Việt Nam. Pháp
luật hiện hành cũng là sự kế thừa có chặt lọc những tinh hoa đó.
1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc.


Thời kỳ Pháp thuộc là thời kỳ Việt Nam chịu sự cai trị của thực dân
Pháp, thực hiện chính sách "chia để trị" nên thực dân Pháp bắt tay với triều
đình nhà Nguyễn ký kết bản "Hiệp ƣớc hoà bình" ngày 25/8/1883, theo đó
nƣớc ta đƣợc chia làm ba miền: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và
20


Trung Kỳ là xứ bảo hộ của Pháp. Dựa theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp
(1804), thực dân Pháp đã ban hành ba Bộ luật dân sự. Trong đó, tại Bắc Kỳ là Bộ
Dân luật năm 1931; tại Trung Kỳ là Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936; tại Nam
Kỳ là Bộ Dân luật Giản yếu năm 1883. Ba bộ luật đều có những quy định khác
nhau về điều kiện kết hôn song cùng chung đặc điểm là tập trung vào các vấn đề
liên quan trực tiếp đến lợi ích của ngƣời kết hôn, con cái, gia đình và xã hội. Nếu
vi phạm các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn là vô hiệu và có thể bị tiêu hủy. Ba
bộ luật trên phân biệt hôn nhân vô hiệu thành hai loại là vô hiệu tƣơng đối và vô
hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tƣơng đối chỉ do một số ngƣời nhất định mà pháp luật
quy định mới có quyền yêu cầu tiêu hủy hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị
mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất cứ ngƣời
nào cũng có quyền yêu cầu tiêu hủy và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một
thời hiệu hoặc một sự kiện nào. Thẩm quyền tuyên bố tiêu hủy hôn nhân vô hiệu
thuộc về Tòa án. Hậu quả của việc tiêu hủy có sự quy định khác nhau trong ba
Bộ Dân luật này. Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Bộ Dân luật Trung Kỳ đều dựa trên
nguyên tắc giảm bớt hậu quả đối với các chủ thể kết hôn cũng nhƣ đối với con
cái họ. Vì vậy, quy định về hậu quả cũng không quá nghiêm ngặt, nhƣ khi việc
kết hôn bị tiêu hủy thì việc tiêu hủy đó chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai, có nghĩa
là trƣớc khi bị tiêu hủy quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn phát sinh hiệu lực pháp lý,
quan hệ vợ chồng, cha, mẹ - con cũng đƣợc công nhận, con sinh ra vẫn là con
trong giá thú (con chính thức). Điều 89 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định: Phàm có
giá thú mà sinh con dẫu sau có sự tiêu hôn, không cớ vì duyên cớ gì, những đứa

con ấy vẫn là con chính thức, thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những
đứa con ấy thì cũng theo một lệ định nhƣ khi ly hôn. Các bên chỉ chấm dứt quan
hệ vợ chồng kể từ khi kết hôn bị tiêu hủy. Tức là, hậu quả pháp lý của tiêu hủy
việc kết hôn trái pháp luật cũng giống nhƣ giải quyết trƣờng hợp ly hôn. Trái lại,
trong Bộ Dân luật giản yếu lại quy định rất khắt khe, nghiêm khắc

21


×