Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

Kế thừa những ưu điểm của luật phá sản năm 2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn thi hành luận án TS luật 62 38 01 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.99 KB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NGỌC THẮNG

KẾ THỪA NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA LUẬT PHÁ SẢN
NĂM 2004 VÀ TĂNG CƯỜNG TÍNH KHẢ THI
TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NGỌC THẮNG

KẾ THỪA NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA LUẬT PHÁ SẢN
NĂM 2004 VÀ TĂNG CƯỜNG TÍNH KHẢ THI
TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Vũ Quang

Hà Nội, 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu đã công bố được tham khảo
trong Luận án đều trung thực và trích dẫn
nguồn đúng quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Ngọc Thắng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

Doanh nghiệp nhà nước:

DNNN

Hội nghị chủ nợ:

HNCN

Hợp tác xã:


HTX

Ngân hàng nhà nước:

NHNN

Tổ chức tín dụng:

TCTD

Tài sản phá sản:

TSPS

Tổ quản lý, thanh lý tài sản:

TQL, TLTS

Xã hội chủ nghĩa:

XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án...................................................................................... 4
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.......................................................................................... 5
4. Các kết quả mới đạt được của luận án........................................................................... 6

5. Kết cấu của luận án............................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................... 8
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu............................................................................ 8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.......................................................................... 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.......................................................................... 11
1.1.3. Những kết quả nghiên cứu được tác giả kế thừa trong quá trình thực
hiện luận án................................................................................................................................ 16
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu........................................................ 18
1.2.1. Cơ sở lý thuyết.............................................................................................................. 18
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: KẾ THỪA NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA LUẬT PHÁ SẢN
NĂM 2004 TRONG BỐI CẢNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở
VIỆT NAM................................................................................................................................. 23
2.1. Lý thuyết về phá sản và pháp luật về phá sản....................................................... 23
2.1.1. Khái niệm về phá sản................................................................................................. 23
2.1.2. Khái niệm về pháp luật phá sản và pháp luật phá sản ở Việt Nam..........24
2.1.3 Vai trò của pháp luật phá sản................................................................................... 28
2.1.4. Phân loại phá sản........................................................................................................ 32
2.2. Những ưu điểm cơ bản của Luật Phá sản năm 2004.......................................... 35
2.2.1. Về đối tượng áp dụng................................................................................................. 35
2.2.2. Về thẩm quyền của Tòa án....................................................................................... 38
2.2.3. Về phạm vi điều chỉnh................................................................................................ 40
2.3. Pháp luật phá sản ở một số nước trên thế giới...................................................... 42
2.3.1. Pháp luật phá sản ở Hoa Kỳ................................................................................... 42


2.3.2. Pháp luật phá sản Cộng hòa Pháp....................................................................... 44
2.3.3. Pháp luật phá sản Trung Quốc............................................................................... 45

2.3.4. Kinh nghiệm đối với Việt Nam................................................................................ 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................................... 49
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM...................................................................................................... 50
3.1. Về bộ máy thực thi pháp luật phá sản...................................................................... 50
3.1.1. Cơ quan Tòa án............................................................................................................ 50
3.1.2. Về Tổ quản lý và thanh lý tài sản.......................................................................... 53
3.2. Về thực tiễn thi hành một số quy định của Luật Phá sản năm 2004 56
3.2.1. Tiêu chí để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản................56
3.2.2. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 60
3.2.3. Tài sản phá sản và bảo toàn tài sản phá sản.................................................... 68
3.2.4. Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt............................................................... 92
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...................................................................................................... 97
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG
CƯỜNG TÍNH KHẢ THI CỦA LUẬT PHÁ SẢN.................................................... 99
4.1. Một số phương hướng cơ bản nhằm nâng cao tính khả thi của Luật
Phá sản.......................................................................................................................................... 99
4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của Luật Phá sản.............101
4.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách.............................................................. 101
4.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến tổ chức bộ máy thực thi pháp luật phá
sản............................................................................................................................................... 104
4.2.3. Tiếp tục hoàn thiện Luật Phá sản trên cơ sở kế thừa những ưu điểm
và khắc phục một số hạn chế của Luật Phá sản năm 2004................................... 108
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4................................................................................................... 126
KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 128
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN..................................................................................................................... 132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 133



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị
trường. Trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt, câu chuyện “mạnh được
yếu thua” là điều hiển nhiên. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có lãi,
cũng sẽ có những doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí thua lỗ kéo dài, mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn. Để loại bỏ những doanh nghiệp này ra khỏi
nền kinh tế, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả rủi ro mà các
doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, cần có sự can thiệp kịp thời
của nhà nước thông qua pháp luật phá sản. Tuy nhiên, để xây dựng và thực thi
một cơ chế phá sản có hiệu quả là điều không dễ dàng đối với bất cứ quốc gia
nào. Ở Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 là văn bản luật đầu tiên quy
định về giải quyết phá sản, sau gần chục năm thi hành, văn bản này bị đánh giá
thấp về hiệu quả điều chỉnh và ít tính khả thi. Luật Phá sản 2004 được Quốc
hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 15/10 cùng năm nhằm giải
quyết những vấn đề tồn tại của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Với rất
nhiều nội dung mới được bổ sung, sửa đổi Luật Phá sản năm 2004 đã được nhà
làm luật đặt nhiều kỳ vọng. Song, không giống như những kỳ vọng ban đầu,
Luật Phá sản năm 2004 đang gặp nhiều vướng mắc khi thực hiện. Những số
liệu thống kê sau đây sẽ nói lên điều đó.
Theo báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2008 do Ngân hàng
thế giới (WB) và Tập đoàn tài chính Quốc tế (IFC) công bố, Việt Nam xếp thứ
91 trên tổng số 178 Quốc gia được khảo sát. Trong đó tiêu chí thứ 10 là tiêu chí
về đóng cửa doanh nghiệp, báo cáo cho rằng việc giải quyết các trường hợp
phá sản ở Việt Nam mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của
doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu
hồi được 18% giá trị tài sản. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định
và thủ tục chính thức của Luật Phá sản khi đóng cửa hoạt động [94].
1



Cùng báo cáo tương tự cho năm 2012 về môi trường kinh doanh ở Việt
Nam thì các chỉ số thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Cụ thể, Việt Nam bị
xếp thứ 99 trên tổng số 183 nền kinh tế được khảo sát. Đứng sau thứ hạng
trung bình toàn khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Trong đó lĩnh vực xử lý
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán xếp thứ 149/183 trong tổng số mười
lĩnh vực được đánh giá và vẫn bị tổ chức này đánh giá chung là: quy trình phá
sản ở Việt Nam rất phức tạp, tốn kém, kéo dài và ít hiệu quả. Do vậy, các
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thường là chọn các hình thức khác để
rút khỏi thị trường hoặc tạm ngưng hoạt động thay vì phá sản theo quy định.
Việc này dẫn đến tình trạng có nhiều doanh nghiệp “chết mà không được
chôn” hoặc “chôn” theo cách khác, không theo cách mà Nhà nước thông qua
Luật Phá sản đã “cài đặt” sẵn.
Báo cáo mới nhất về môi trường kinh doanh “Doing Bussiness 2014”
mà Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố sáng ngày 29 tháng 10 năm 2013
tại Hà Nội, thứ hạng của Việt Nam không có thay đổi so với năm 2012. Như
vậy, theo báo cáo thì môi trường kinh doanh của Việt Nam không hề được cải
thiện trong nhiều năm qua. Trong đó lĩnh vực về giải quyết phá sản ở Việt Nam
bị đánh giá rất thấp (149/189 nền kinh tế) [94].
Về phía Việt Nam, nhìn vào con số thống kê cũng nói lên thực trạng này.
Theo dự thảo báo cáo tổng kết công tác thi hành Luật Phá sản năm 2004 của
Tòa án Nhân dân tối cao, tính đến hết ngày 30 tháng 9 năm 2012, trong tổng số
63 tòa án cấp tỉnh chỉ có 49 Tòa án nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Như vậy có đến 14 Tòa án cấp tỉnh không nhận được đơn yêu cầu, theo đó có
thể hiểu là vấn đề giải quyết phá sản hầu như không diễn ra đối với 14 tỉnh
thành trên cả nước. Cũng theo báo cáo này, tổng số đơn mà các chủ thể gửi đến
Tòa án là 336 đơn, trong đó Tòa án đã ra 236 quyết định mở thủ tục phá sản và
mới chỉ có 83 quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp. Số còn lại do
nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc giải quyết phá sản chưa hoặc thậm chí
không thể thực hiện được.

2


Số liệu thống kê mới nhất của Tòa án nhân dân Tối cao được cập nhật
tiếp từ 01 tháng 10 năm 2012 đến hết ngày 28 tháng 02 năm 2014, số lượng
đơn yêu cầu có được cải thiện hơn với 284 đơn yêu cầu Tòa án nhận được. Tuy
nhiên, số vụ Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản và số lượng vụ việc mà
Tòa ra quyết định doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản vẫn ở mức khiêm tốn. Cụ
thể, Tòa án ra được 77 quyết định mở thủ tục phá sản và ra 12 quyết định
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Như vậy tính từ thời điểm Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến ngày
28 tháng 02 năm 2014, tổng số đơn mà Tòa án nhận được là 620 đơn, trong đó
có 331 vụ việc được ra quyết định mở thủ tục phá sản và 95 quyết định doanh
nghiệp phá sản được tuyên.
Với kết quả thống kê mà Tòa án nhân dân tối cao công bố, chúng ta dễ
dàng nhận thấy việc thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam hiện nay đang có
vấn đề, không phản ánh trung thực kết quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp, không giải quyết được những đòi hỏi mà thực tiễn giải quyết
yêu cầu phá sản đặt ra. Với gần chục năm thực hiện và áp dụng (Luật Phá sản
có hiệu lực từ ngày 15/10/2004) mà toàn hệ thống Tòa án trên cả nước mới chỉ
ra được 95 quyết định phá sản, như vậy tính bình quân mỗi một năm trên toàn
Việt Nam có chưa đầy chục doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Điều này rất
không bình thường, khi mà ở nước ta thời gian qua mỗi năm có hàng chục
ngàn doanh nghiệp ra đời (năm 2010 có 83.600 doanh nghiệp được thành lập
mới, năm 2011 con số này là 75.000) và hàng năm cũng có quá nửa số đó rút
khỏi thị trường (năm 2010 có 43.505 doanh nghiệp đóng cửa, năm 2011 con số
này là 53.972).[81]
Với sứ mệnh thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, Luật Phá sản
2004 đã bổ sung nhiều quy định mới và có những ưu điểm nhất định. Tuy
nhiên, với những gì diễn ra trong thời gian qua, khi đánh giá về hiệu quả điều

chỉnh của Luật Phá sản 2004, nhiều chuyên gia cho rằng văn bản này có hiệu
3


quả điều chỉnh thấp, ít tính khả thi, không phản ánh hết yêu cầu và thực trạng
giải quyết phá sản ở Việt Nam. Thậm chí có ý kiến cho rằng Luật Phá sản 2004
đang “phá sản”. Ở một mức độ nào đó tác giả đồng ý với những nhận định
trên. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, bên cạnh một số vướng mắc ở các quy định
cụ thể trong Luật Phá sản 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành (thuộc luật
nội dung) thì việc tổ chức thực thi pháp luật phá sản, một mảng pháp luật thuộc
luật hình thức (tố tụng phá sản) cũng là một trong những nguyên nhân làm sai
lệch hiện tượng phá sản ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Trước thực trạng
đó, việc sửa đổi bổ sung Luật Phá sản năm 2004 nói riêng và tiếp tục hoàn
thiện pháp luật phá sản nói chung là một yêu cầu cấp bách. Hiện tại Luật Phá
sản năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19
tháng 6 năm 2014 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 . Xuất phát từ
những lý do cơ bản này NCS đã chọn đề tài "Kế thừa những ưu điểm của Luật
Phá sản năm 2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn thi hành” làm
luận án tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là phân tích, luận giải và làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn, qua đó chỉ ra những ưu điểm nhất định mà Luật Phá sản năm 2004
có được nên và đã được kế thừa khi ban hành Luật phá sản năm 2014. Bên
cạnh đó, luận án cũng nhấn mạnh đến thực trạng thi hành pháp luật phá sản tại
Việt Nam trong thời gian qua, phân tích đánh giá về tính khả thi cũng như
những vướng mắc bất cập ở Luật Phá sản 2004 và các văn bản có liên quan.
Đồng thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao tính khả thi của pháp luật phá sản.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
được xác định cụ thể như sau:

Một là, về phương diện lý luận, luận án hệ thống hóa và làm rõ thêm các
vấn đề lý luận về phá sản, pháp luật phá sản cũng như các vấn đề thực thi

4


pháp luật phá sản. Trên cơ sở đó, nhận diện được một cách đầy đủ và chính xác
mô hình và đặc trưng cơ bản của pháp luật phá sản Việt Nam.
Hai là, về thực tiễn, luận án tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng thi
hành pháp luật phá sản ở Việt Nam thông qua các thiết chế thi hành và tính khả
thi của một số quy định thuộc Luật Phá sản năm 2004. Thông qua các nội dung
này, luận án sẽ chỉ ra một số hạn chế, bất cập của Luật Phá sản năm 2004 và
các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như những bất cập của văn bản này với
các văn bản pháp luật có liên quan.
Ba là, luận án nghiên cứu, so sánh và giới thiệu kinh nghiệm về quan
điểm xây dựng, hoàn thiện pháp luật phá sản của một số nước và rút ra bài học
cho Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật phá sản cũng như việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật
phá sản trong tương lai.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật phá sản và thực thi pháp luật phá sản là một lĩnh vực khá rộng,
do vậy luận án chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến
thực tiễn thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam, đề cập đến vấn đề tổ chức bộ
máy thực thi pháp luật phá sản và một số nội dung cơ bản của luật phá sản năm
2004 như: phạm vi và đối tượng áp dụng; thẩm quyền của Tòa án; tiêu chí xác
định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; chủ thể có quyền và nghĩa vụ
nộp đơn; tài sản phá sản và bảo toàn tài sản phá sản.
Về thời gian, xuất phát từ tình hình thực tiễn là nền kinh tế Việt Nam
chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, do vậy, luận án chỉ giới

hạn nghiên cứu trong giai đoạn chủ yếu từ năm 2004 trở lại đây, đặc biệt là trên
cơ sở các quy định của Luật Phá sản năm 2004 và một số vấn đề thuộc Luật
Phá sản năm 2014.

5


Về không gian, luận án giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất
định với pháp luật phá sản của một số quốc gia điển hình như: Cộng hòa Pháp
(đại diện cho hệ thống pháp luật Civil Law), Hoa Kỳ (điển hình của trường
phái Common Law) và Trung Quốc một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi và
có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
4.

Các kết quả mới đạt được của

luận án Những điểm mới của luận án
là:
-

Luận án đã giới thiệu một cách tổng quan các công trình nghiên cứu

khoa học trong và ngoài nước liên quan đến phá sản, pháp luật phá sản, thực
thi pháp luật phá sản và bước đầu đã có những nhận xét, đánh giá chung về kết
quả nghiên cứu của các công trình này. Đồng thời, chỉ rõ những kết quả nghiên
cứu đã được kế thừa cũng như những vấn đề được tiếp tục nghiên cứu trong
luận án.
-

Trên phương diện lý thuyết, luận án đã kế thừa và làm rõ hơn một số


vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản theo pháp luật về phá sản của
Việt Nam. Phân tích, đánh giá và khẳng định một số ưu điểm nổi bật của Luật
Phá sản năm 2004, có thể và đã được kế kế thừa, so sánh với pháp luật một số
nước và rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản.
-

Ở giác độ thực tiễn, luận án đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực

trạng thi hành pháp luật phá sản ở Việt Nam thông qua thiết chế thi hành Luật
Phá sản và tính khả thi của một số quy định thuộc Luật Phá sản năm 2004.
-

Luận án đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

tính khả thi của của pháp luật phá sản, gồm nhóm giải pháp về cơ chế, chính
sách, nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy thực thi pháp luật phá sản, nhóm giải
pháp trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và khắc phục những hạn chế của Luật
Phá sản năm 2004. Luận án cũng đề xuất một số vấn đề nhằm tiếp tục hoàn
thiện Luật Phá sản năm 2014 trong thời gian tới.

6


5. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo chủ
yếu, luận án được kết cấu với 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản 2004 trong bối

cảnh hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Chương 4: Phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường tính khả thi của
Luật Phá sản.

7


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Phá sản và pháp luật phá sản là vấn đề không mới lạ đối với đa số các
quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, tự do và hoàn hảo. Do vậy để có
cơ sở lý luận và khoa học cho các nhà làm luật hoạch định chính sách phá sản,
các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình chuyên sâu về vấn đề này. Với giới
hạn hiểu biết của tác giả thì hiện nay trên thế giới đã hình thành các học thuyết
về phá sản cơ bản sau đây:
Thứ nhất, học thuyết về chính sách phá sản (bankruptcy-policy Theory)
Tác giả của học thuyết này là Elizabeth Warren. Tư tưởng chủ đạo của
học thuyết là: pháp luật phá sản không chỉ là giải quyết vấn đề đòi nợ tập thể,
ngoài việc giải quyết đòi nợ tập thể pháp luật phá sản còn phải chú trọng đến
các vai trò xã hội khác, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, do vậy,
tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, thể chế chính trị, cơ chế kinh tế của từng
quốc gia cụ thể mà ở đó pháp luật phá sản nên được hình thành theo các thủ
tục không nhất thiết phải giống nhau [88].
Thứ hai, học thuyết về chia sẻ rủi ro (Risk-Sharing Theory)
Người đề xuất học thuyết này là Thomas H. Jackson và Robert E. Scott.
Mục đích mà học thuyết này hướng tới là làm rõ các cơ sở khoa học cho việc

xây dựng và hoàn thiện các quy định của luật phá sản về tái tổ chức hoạt động
của con nợ. Tư tưởng chủ đạo của học thuyết này: Pháp luật phá sản mục tiêu
quan trọng là tối đa hóa giá trị tài sản của con nợ, bên cạnh đó việc các chủ nợ
cùng tham gia chia sẻ nguy cơ thất bại với các chủ nợ cũng được coi là mục
tiêu thứ yếu. Do vậy, pháp luật phá sản chú trọng đến khả năng thương lượng,
8


tạo hành lang pháp lý để các bên có cơ hội hòa giải thông qua đó nhằm hướng
chủ nợ và con nợ đến việc chia sẻ rủi ro và cả hai nhóm chủ nợ này cũng phải
đối phó với nguy cơ mất khả năng thanh toán của con nợ [88].
Thứ ba, công trình nghiên cứu về tính đặc thù, khuynh hướng xây dựng
và áp dụng Luật Phá sản của các quốc gia có nền kinh tế chuyển đối.
Ngoài những học thuyết cơ bản tác giả nêu trên, năm 1996 (sau khi nền
kinh tế kế hoạch của một loạt các quốc gia Đông Âu sụp đổ) tác giả Michael
Kim đã có công trình nghiên cứu giới hạn trong phạm vi bài viết đăng tải trên
tạp chí Fordham LawRewiew với tiêu đề “ When nonuse is useful: Bankruptcy
law in post – Communist Central and Eastern Europe” tạm dịch là “Khi Luật
phá sản không được sử dụng một cách có hiệu quả ở các nước Trung và Đông
Âu thời kỳ hậu chủ nghĩa cộng sản”. Đối tượng nghiên cứu Michael Kim
hướng tới là Luật Phá sản ở hai quốc gia: Cộng hòa Séc và Hungary vào thời
điểm chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này đã thực sự sụp đổ. Giả thuyết tác giả
đặt ra khi nghiên cứu là “nếu các quốc gia này có một nền kinh tế thị trường
hoàn hảo” để có thể áp dụng luật phá sản hiện đại một cách có hiệu quả.

Công trình nghiên cứu của Michael Kim chỉ ra rằng: Từ sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản ở Trung và Đông Âu (CEE) đã làm nảy sinh nhiệm vụ khó
khăn cho những nền kinh tế thị trường đang phát triển [92]. Các quốc gia CEE
phải đối mặt với một di sản của chủ nghĩa cộng sản, đó là sự đi ngược lại nền
kinh tế thị trường. Dưới chủ nghĩa cộng sản, chính phủ sở hữu tất cả tài sản và

lập kế hoạch hoạt động của phần lớn các đối tượng tham gia vào nền kinh tế
(chủ thể kinh tế) thông qua sự điều hành tập trung thống nhất từ Trung ương.
Nhà nước đảm bảo một nền kinh tế giả tạo [92]. Nhà nước điều khiển sự phối
hợp và các khoản đầu tư, tín dụng và tiền lương, việc đầu tư và bao cấp trong
các Ngân hàng doanh nghiệp, thậm chí ngay cả khi chúng không tạo ra lợi
nhuận, kết quả của nền kinh tế là sự thiếu vắng của hiện
9


tượng phá sản và không có thất nghiệp. Do đó các chủ thể kinh tế dưới thời chủ
nghĩa cộng sản không bị sức ép về mặt tài chính nhưng cũng không giỏi tạo ra
lợi nhuận hay đạt được những thành công trong kinh doanh [92]. Những quyết
định đầu tư trong thành phần kinh tế Nhà nước không xuất phát từ động cơ lợi
nhuận. Dưới chủ nghĩa cộng sản, mọi người bỏ qua những quy luật thị trường
cơ bản (quy luật tối đa hóa lợi nhuận) và đứng ngoài cuộc cạnh tranh. Do đó
không cần thiết cho một cơ chế thị trường căn bản, chẳng hạn như Luật Phá
sản hay Luật Cạnh tranh [92].
Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, các quốc gia CEE đua nhau bắt đầu
sự chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường. Nền kinh tế chuyển đổi vừa
hướng tới kinh tế thị trường vừa bắt bản thân nó phải chấp nhận tính khắc
nghiệt của kinh tế thị trường.
Với sự phân tích sâu sắc và toàn diện tác giả chỉ ra các mô hình áp dụng
Luật Phá sản ở các quốc gia này. Ví dụ: Ở Cộng hòa Séc đã xây dựng luật phá
sản theo mô hình “tăng tốc” tiếp cận nhanh hơn với nền kinh tế thị trường,
trong khi đó Hungary thì lại áp dụng mô hình phá sản “từ từ” để phù hợp với
đặc trưng của một nền kinh tế chuyển đổi.
Tóm lại, qua sự khảo sát, phân tích đánh giá, Tác giả đã đi đến nhận
định: Luật Phá sản khó có thể sử dụng một cách có hiệu quả ở những quốc gia
có nền kinh tế chuyển đổi (chưa hoàn hảo). Những dự đoán của các chuyên gia
phương tây về việc sử dụng Luật Phá sản tràn khắp các nước CEE dựa trên sự

chấp nhận thị trường đã không tồn tại [82].
Có thể thấy “When nonuse is useful: Bankruptcy law in post –
Communist Central and Eastern Europe” là công trình nghiên cứu hữu ích cho
Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật Phá sản trong thời gian tới về việc lựa chọn
mô hình phá sản phù hợp để đảm bảo tính khả thi cao.

10


1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Pháp luật phá sản nói chung và vấn đề thực thi pháp luật phá sản nói
riêng là một lĩnh vực khá mới mẻ ở một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi nói
chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy vấn đề này đã được nhiều học giả
đặc biệt quan tâm, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này phải kể đến như:

Thứ nhất, ở bình diện khái quát mang tính lý luận chung có các công
trình tiêu biểu như:
“ Phá sản doanh nghiệp - một số vấn đề thực tiễn” của Nguyễn Tấn
Hơn, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1995; “Pháp luật về phá sản doanh
nghiệp trong Luật kinh tế Việt Nam” của Bùi Nguyên Khánh, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996; “Đi tìm triết lý Luật Phá sản” của Tiến sĩ
Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 16 năm 2003; “Chuyên
khảo Luật Kinh tế” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2004; “Luật Phá sản 2004 với việc cải thiện môi trường liên
doanh tại Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Tạp chí dân chủ và pháp
luật- số 03/2005; “Một số suy nghĩ về Luật Phá sản năm 2004” của Tô Nguyễn
Cẩm Anh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 06/2005;
Thứ hai, ở giác độ pháp luật so sánh với pháp luật phá sản nước ngoài
có các công trình điển hình như:
“Pháp luật về phá sản của Việt Nam và pháp luật Phá sản Úc: Những

nét tương đồng và khác biệt” của T.S Dương Đăng Huệ, Tạp chí Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, số 03/1995; “Pháp luật quốc tế về phá sản và
vận dụng vào việc xây dựng Luật Phá sản (sửa đổi) ở nước ta”, công trình
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, 2001; “Luật Phá sản doanh nghiệp
Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện” Luận án tiến
sĩ Luật học của Trương Hồng Hải - Đại học Luật Hà Nội 2004; “ Luật

11


Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của cộng hòa Pháp- những nét tương
đồng và khác biệt” Luận văn thạc sĩ của An Phương Huệ, 2004; “So sánh pháp
luật Việt Nam và pháp luật của một số nước về phá sản và định hướng sửa đổi
Luật phá sản 2004” của PGS.TS Ngô Huy Cương - tham luận hội nghị tổng
kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản tại Đà Nẵng;
Thứ ba, ở giác độ nghiên cứu pháp luật phá sản nước ngoài có công
trình tiêu biểu như:
“Luật Phá sản của Hoa Kỳ” của TS. Bùi Nguyên Khánh, Viện nghiên
cứu Nhà nước và Pháp luật năm 2002.
Thứ tư, vấn đề hoàn thiện pháp luật phá sản có các công trình điển hình
sau:
“Những giải pháp pháp lý cần xây dựng và hoàn thiện nhằm đảm bảo
doanh nghiệp rút khỏi thị trường” của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
năm 2002; “Một số ý kiến về dự thảo pháp luật phá sản (sửa đổi)” của PGS.TS
Dương Đăng Huệ và Cao Đăng Vinh- Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao - số
01/2004; “ Đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004” của Bộ Tư
pháp và Tòa án nhân dân tối cao- tài liệu phục vụ hội nghị chuyên đề năm
2008; “ Hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam theo các khuyến nghị của
hướng dẫn xây dựng Luật Phá sản của UNCITRAL năm 2005” Luận văn thạc
sĩ Luật học của Nguyễn Văn Nam, năm 2010; “Thực trạng pháp luật về phá

sản và việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp và
MPI-GTZSME Development Programme, năm 2008; “Dự thảo báo cáo tổng
kết đánh giá tác động của Luật Phá sản Việt Nam năm 2004” Tổng kết của
Tòa án nhân dân tối cao năm 2013; “Thủ tục Phá sản - thực trạng và hướng
hoàn thiện” của Đào Thị Hồng Phương, Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2009;
“Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Đào Thị Thu
Trang năm 2009; “Các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá
12


sản doanh nghiệp ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ Tư
pháp năm 2009 do PGS.TS Dương Đăng Huệ làm chủ biên; “Thực trạng thi
hành pháp luật phá sản ở Việt Nam và hướng hoàn thiện” của Lê Ngọc Thắng
- Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 12 năm 2013; và đặc biệt là bài
viết “Thi hành Luật Phá sản năm 2004 - thực trạng và giải pháp” của PGS.TS
Dương Đăng Huệ tại hội nghị chuyên đề đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá
sản 2004.
Thứ năm, liên quan đến vấn đề thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam có
các công trình như:
“ Luật Phá sản 2004 - Một số điểm mới và tính khả thi” của Lê Ngọc
Thắng - Tạp chí Giáo dục lý luận số 5/2004; “Kế thừa những ưu điểm của
Luật phát sản năm 2004 trong bối cảnh hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt
Nam” của Lê Ngọc Thắng - Tạp chí Dân chủ & Pháp luật (266) năm 2014;
“Bàn về quyền của người lao động trong thủ tục phá sản doanh nghiệp” của
Lê Ngọc Thắng - Tạp chí Lao động và xã hội (478) năm 2014; “Hoàn thiện
quy định về các giao dịch bị coi là vô hiệu theo Luật Phá sản năm 2004" của
Lê Ngọc Thắng - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (314) năm 2014; “Tìm hiểu
các quy định của Luật Phá sản năm 2004 - về thủ tục phục hồi và thanh lý tài
sản, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và một kiến nghị” của Bùi

Thị Dung Huyền, Chuyên đề khoa học xét xử, Viện Khoa học xét xử, Tòa án
nhân dân tối cao; “Một số vấn đề về Luật Phá sản” của Nguyễn Thái Hà, Bùi
Hữu Toàn, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng - số 3,4/2005;
Thứ sáu, ở giác độ nghiên cứu về các thiết chế thực thi pháp luật phá
sản Việt Nam có:
“Một số vấn đề về hoạt động của Tổ quản lý và Thanh lý tài sản trong
thủ tục giải quyết phá sản”, bài tham luận của Đinh Thị Thu Hương tại Hội
thảo về pháp luật phá sản những vướng mắc và hướng khắc phục, tổ chức tại
TP.HCM năm 2006; “Quy chế pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo
13


pháp luật phá sản Việt Nam” của Đặng Văn Huy, Luận văn thạc sĩ Luật học,
năm 2010; “Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp” của Lê Tuấn Anh, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2013;
Thứ bảy, ở giác độ đi sâu vào nghiên cứu về các vấn đề như tài sản phá
sản, bảo toàn và xử lý tài sản phá sản có các công trình điển hình sau:
“Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật Việt
Nam” của Vũ Thị Hồng Vân, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2008; “ Bảo toàn
tài sản doanh nghiệp trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản- một số tồn tại
vướng mắc cần khắc phục” của thạc sĩ Cao Đăng Vinh, bài viết tham luận hội
thảo pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ở nước ta, Viện Nghiên cứu
lập pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức năm 2013.
Về cơ bản các công trình này chủ yếu phân tích đánh giá về pháp luật
phá sản của Việt Nam trên các phương diện: chức năng, vị trí, vai trò và các
nội dung cơ bản của pháp luật phá sản Việt Nam. So sánh sự tương đồng và
khác biệt giữa pháp luật phá sản của Việt Nam và pháp luật phá sản một số
nước trên thế giới, qua đó tìm ra những ưu và nhược điểm. Đa phần các công
trình này đã đề cập đến vấn đề thực thi pháp luật phá sản và nâng cao tính khả
thi của pháp luật phá sản Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở mức độ khái

quát.
Mặc dù các công trình này ít nhiều có sự khác nhau về đối tượng nghiên
cứu, nhưng nhìn chung các nghiên cứu trên ở những chừng mực nhất định đã
có sự phân tích đánh giá về thực tiễn thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam và
phương hướng nâng cao tính khả thi của Luật Phá sản. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này về cơ bản chỉ dừng lại ở thực trạng thực thi thông qua số liệu báo cáo
tổng kết của cơ quan chức năng và chủ yếu là đề cập tới những vướng mắc cụ
thể của hầu hết các nội dung của Luật Phá sản (luật nội dung) mà chưa có một
công trình nào đề cập một cách sâu rộng về việc tổ chức bộ máy

14


thực thi pháp luật phá sản - một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để
pháp luật phá sản được thực thi một cách có hiệu quả.
Về bản chất phá sản là một vụ tranh chấp dân sự. Do vậy việc giải quyết
phá sản thuộc lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, pháp luật của Việt Nam cũng như
pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều quy định thẩm quyền giải quyết vụ
phá sản thuộc về Tòa án - với tư cách là một thiết chế công, cho dù có giới hạn
là Tòa án chỉ tham gia khi các bên có yêu cầu. Trong pháp luật phá sản của
Việt Nam, Tòa án có vai trò quyết định ở mọi giai đoạn của thủ tục tố tụng, vai
trò này được thể hiện thông qua thẩm quyền của Thẩm phán đối với việc giải
quyết hầu hết các vấn đề phát sinh trong thủ tục phá sản.
Bên cạnh Thẩm phán, còn có cơ quan quản lý và thanh lý tài sản với vai
trò là người giúp việc cho Thẩm phán. Tuy nhiên, sự khác biệt của pháp luật
phá sản ở nước ta so với pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới là bộ
phận quản lý và thanh lý tài sản (quản tài viên), không có sự độc lập tương đối
với Tòa án trong việc xử lý nhiều vấn đề liên quan tới phá sản. Hơn nữa, với
cơ cấu hình thành chủ thể này như quy định của Luật Phá sản năm 2014 thì rõ
ràng là những thành viên của bộ phận này không thực sự chuyên nghiệp so với

yêu cầu mà lẽ ra họ cần phải đáp ứng. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản
làm cho hoạt động thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam không cao.
Pháp luật phá sản nói chung và việc nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật
phá sản là vấn đề cần được quan tâm, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học,
nhà hoạch định chính sách nghiên cứu thông qua rất nhiều công trình khoa học
như đã được trình bày ở trên; kết quả của những nghiên cứu đó đã có những
đóng góp không nhỏ cho việc hoàn thiện pháp luật phá sản trong thời gian
qua . Tuy nhiên, để đáp ứng hơn nữa yêu cầu giải quyết phá sản, nhằm thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam trong điều kiện hội nhập
khu vực và quốc tế sâu rộng thì việc tiếp tục nghiên cứu và

15


hoàn thiện các quy định liên quan đến việc nâng cao hiệu lực thực thi của pháp
luật phá sản là vấn đề cấp bách hiện nay.
1.1.3. Những kết quả nghiên cứu được tác giả kế thừa trong quá trình thực
hiện luận án.
Thứ nhất, về mục đích và vai trò của luật phá sản.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều coi pháp luật phá
sản là công cụ nhằm thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thông
qua việc giải quyết những vấn đề mang tính lợi ích như: duy trì sự phát triển
ổn định của nền kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo hài hòa lợi ích của các
bên liên quan đến vụ phá sản: ổn định trật tự xã hội.
Thứ hai, về phạm vi và đối tượng áp dụng của Luật Phá sản.
Hiện nay trong các công trình nghiên cứu có đề cập nhiều đến vấn đề
này. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có các chủ thể kinh doanh
tồn tại dưới hình thức pháp lý là doanh nghiệp mới thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật Phá sản. Tuy nhiên, để tương thích với pháp luật trên thế giới
trong điều kiện Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập có những công

trình đã đề cập đến vấn đề mở rộng đối tượng áp dụng của pháp luật phá sản.
Đây cũng là quan điểm cần cân nhắc. Luận án sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu
của những công trình này.
Thứ ba, về tiêu chí để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản.
Một nội dung được coi là khá quan trọng đối với bất cứ Luật Phá sản
nào. Hiện nay có nhiều nghiên cứu trong các công trình kể trên liên quan tới
vấn đề này. Nội dung này cũng sẽ được tác giả luận án tiếp tục kế thừa.
Thứ tư, về thẩm quyền của Tòa án và Tổ quản lý và thanh lý tài sản.
Về địa vị pháp lý của Tòa án: Pháp luật về phá sản của hầu hết các nước
trên thế giới đều có quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
16


giải quyết vụ phá sản. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lập
pháp cũng như nguyên tắc xây dựng bộ máy nhà nước của mỗi nước có sự
khác nhau nên việc phá sản có thể được phân công giải quyết ở các Tòa án
khác nhau. Ở hầu hết các quốc gia Châu Âu lục địa, Tòa án có tên là Tòa
thương mại với nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ
thương mại có liên quan đến thương nhân và thực hiện cả việc giải quyết phá
sản [1]. Trong khi đó, ở một số nước như Hoa Kỳ, Thụy Điển, Nam Tư… lại
hình thành Tòa án phá sản riêng để chuyên trách một công việc duy nhất là phá
sản. Ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản hiện tại được giao cho Tòa Kinh tế thuộc hệ thống Tòa án nhân dân. Tòa
Kinh tế ở Việt Nam với vai trò là Tòa chuyên trách có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại và phá sản.
Thứ năm, về thẩm quyền và vai trò của Tòa án.
khi lâm vào tình trạng phá sản chủ nợ thường có khuynh hướng tẩu tán,
cất dấu tài sản do vậy rất cần có một thiết chế đủ mạnh, đủ tin cậy và đủ năng
lực đứng ra quản lý tài sản phá sản và sau đó nếu doanh nghiệp không có khả

năng phục hồi thì họ sẽ thực hiện thủ tục thanh lý đối với khối sản nghiệp của
con nợ. Các nghiên cứu của các công trình kể trên cũng đã đề cập tới vấn đề
này. Nhìn chung bản chất của thiết chế này được gọi là bộ phận quản lý tài sản.
Ở mỗi quốc gia khác nhau tên gọi của chủ thể này cũng khác nhau. Thông
thường chủ thể này được gọi là nhân viên quản lý và tài sản hay quản tài viên
(Trustee). Ở Việt Nam cho đến trước khi Luật phá sản năm 2014 được thông
qua, chủ thể này là một tập thể và được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
như chấp hành viên cơ quan thi hành án, nhân viên tòa án, chủ nợ, con nợ và
được gọi là Tổ quản lý và thanh lý tài sản.
Ngoài ra luận án còn kế thừa kết quả của các nghiên cứu trước đó ở các
nội dung khác như: Quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu phá sản doanh

17


nghiệp; Trình tự thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp; các nghiên cứu về
quy định liên quan đến chủ thể quản lý và thanh lý tài sản…
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng
về xây dựng nhà nước pháp quyền với việc thừa nhận đa hình thức sở hữu và
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Ngoài ra, luận án được thực hiện trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
những quan điểm, luận cứ khoa học, các tư tưởng pháp lý đã được khẳng định
cả về lý luận lẫn thực tiễn, cũng như các thành tựu lập pháp của một số quốc
gia trên thế giới có sự phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của Việt Nam.
1.2.1.2. Giả thuyết nghiên cứu.
Để thực hiện và hoàn thành luận án, từ cơ sở lý thuyết, Luận án xây

dựng ba giả thuyết nghiên cứu sau đây:
-

Phá sản, pháp luật phá sản và thực thi pháp luật phá sản là lĩnh vực đặc

thù của kinh tế thị trường.
-

Thực tiễn thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu

cầu và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế ở giác độ tái cấu trúc thị trường và
đóng cửa doanh nghiệp.
-

Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam là cần thiết. Một

số giải pháp có thể được sử dụng để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật phá
sản.
1.2.1.3. Câu hỏi nghiên cứu.
Từ giả thuyết nghiên cứu, một số câu hỏi đã được đặt ra trong quá trình
nghiên cứu luận án.

18


- Bản chất của phá sản, pháp luật phá sản và thực thi pháp luật phá sản là
gì?
-

Thực trạng thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam như thế nào? Rào cản


của thực trạng này là gì?
-

Các quy định của pháp luật phá sản Việt Nam hiện tại có đáp ứng được

đòi hỏi của nền kinh tế không? Phải chăng việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật
phá sản là cần thiết? Để nâng cao tính khả thi của pháp luật phá sản cần những
giải pháp cơ bản nào?
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong quá trình nghiên cứu đề
tài bao gồm: phương pháp phân tích đánh giá các quy phạm pháp luật thực
định, phương pháp thu nạp các phân tích có sẵn, phương pháp điều tra khảo
cứu tại Tòa, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp phỏng vấn chuyên gia, phương pháp phân tích kinh tế luật,
phương pháp dự báo qua những tài liệu thứ cấp. Các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu đã được tác giả áp dụng như sau:
-

Phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp phân tích kinh tế luật,

phương pháp luật học so sánh, nghiên cứu gián tiếp thông qua phân tích, tổng
hợp tư liệu đã được sử dụng chủ yếu cho chương 2 nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận chung về phá sản và pháp luật phá sản, nhận định đánh giá về pháp
luật phá sản Việt Nam trong tương quan với pháp luật phá sản của một số nước
điển hình.
-

Tại chương 3, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu trực tiếp thông


qua khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phương pháp điều tra khảo cứu tại
Tòa án, phương pháp thu nạp các phân tích đã có sẵn, phương pháp phân tích
tổng hợp được sử dụng để làm sáng tỏ những vấn đề nảy sinh trong

19


×