Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.6 KB, 16 trang )

Luật thương mại Bài tập học kỳ
LỜI NÓI ĐẦU
Trên thế giới, ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, phá
sản được coi là hiện tượng bình thường. Hiện nay, trong nền kinh tế thị
trường của Việt Nam, hiện tượng này dần càng trở nên phổ biến. Đây là xu
thế tất yếu của quá trình cạnh tranh, quá trình đào thải và sự chọn lọc tự
nhiên: các chủ thể kinh doanh làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả tất yếu phải chấm
dứt sự tồn tại của mình qua việc bị tuyên bố phá sản và đương nhiên, chỉ có
các chủ thể kinh doanh hoạt động thực sự có hiệu quả mới có thể tiếp tục tồn
tại trong nền kinh tế. Phá sản góp phần làm lành mạnh hóa thị trường, cơ cấu
lại nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường trở nên đúng với bản chất của nó
hơn. Mặt khác, luật phá sản còn giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã có cơ hội
phục hồi hoạt động kinh doanh của mình, quay trở kinh doanh bình thường
không phải tuyên bố phá sản. Trước những yêu cầu mới của nền kinh tế thị
trường, việc quy định chặt chẽ và cụ thể về pháp luật phá sản càng trở nên cấp
thiết. Vì vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá
sản năm 2004”.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản
1.1.Khái quát về phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
“Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản.”
(Điều 3 Luật phá sản năm 2004) (LPS năm 2004). Các khoản nợ đến hạn phải
là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần
1
Luật thương mại Bài tập học kỳ
không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ,
tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp. Yêu cầu của chủ nợ thanh


toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu
cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) thanh toán (như
văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của DN, HTX…)
[8, mục 2.1, phần I ]
.
Quy định này so với quy định của luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì
tiêu chí xác định tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng ngắn gọn,
đơn giản và đi vào bản chất mà không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên
nhân của tình trạng thua lỗ cũng như việc doanh nghiệp, hợp tác xã đã áp
dụng các biện pháp để tự cứu mình mà không đạt được kết quả hay chưa. Quy
định này là bước tiến của LPS năm 2004, phù hợp với thông lệ chung trên thế
giới tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản cũng như khả năng phục
hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN, HTX
[6]
.
1.1.2. Khái niệm thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và các văn bản pháp luật của Việt Nam
chưa đưa ra khái niệm thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Nhưng trong các công trình khoa học có đưa ra quan điểm về các dấu hiệu
pháp lý về thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
[5]
như sau:
Thứ nhất, phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục được
tiến hành bởi Tòa án. Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết yêu cầu
phá sản của DN, HTX, sau khi Tòa án tiến hành mở thủ tục giải quyết yêu cầu
phá sản và chính Tòa án là người quyết định thủ tục phục hồi này.
Thứ hai, đối tượng áp dụng thủ tục phục hồi là các nhà kinh doanh (DN,
HTX) mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
[7]
. Đây là lúc DN, HTX lâm vào

tình trạng khó khăn về tài chính nhưng không có nghĩa là DN, HTX hoàn toàn
cạn kiệt tài sản. Thẩm phán xem xét và quyết định chỉ những DN, HTX còn
có khả năng phục hồi hoặc vì tầm quan trọng của DN, HTX đối với nền kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng mới là đối tượng áp dụng của thủ tục.
2
Luật thương mại Bài tập học kỳ
Thứ ba, thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là một thủ
tục đặc biệt trong thủ tục phá sản. Do thủ tục phục hồi được áp dụng khi có sự
đồng ý của hội nghị chủ nợ, không có sự phân chia tài sản DN, HTX trong
quá trình áp dụng thủ tục phục hồi…
Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm thủ tục phục hồi DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục do Tòa án áp dụng, theo đó, một DN,
HTX không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn được hưởng một
thời hạn nhất định để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh do
hội nghị chủ nợ thông qua, dưới sự giám sát của Tòa án và các chủ nợ
[5]
.
1.2. Vai trò của thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
Bảo vệ lợi ích của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là đưa DN, HTX
thoát khỏi khó khăn về tài chính, hoạt động kinh doanh trở lại bình thường.
Đây là mục đích cơ bản và tiên quyết để xây dựng và áp dụng thủ tục phục
hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Tối đa hóa việc trả nợ cho các chủ nợ, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các chủ nợ và những người có liên quan. Thể hiện qua việc LPS
quy định cho các chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, đề
xuất phương án phục hồi kinh doanh…Điều này góp phần bảo đảm tài sản
phá sản của DN, HTX - con nợ, từ đó đảm bảo các tài sản thanh toán nợ cho
các chủ nợ. Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ và
những người có liên quan, phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là
giải pháp mà họ luôn mong muốn. Vì khi DN, HTX thoát khỏi tình trạng khó

khăn và tiếp tục kinh doanh trở lại thì khả năng thanh toán nợ là rất lớn.
Góp phần bảo đảm, duy trì trật tự và ổn định xã hội. Khi một DN, HTX bị
tuyên bố phá sản thì kéo theo các DN, HTX là bạn hàng, đối tác của họ cũng
chịu sự tác động nhất định về tài chính. Và vấn đề khó giải quyết nữa là việc
làm và tiền lương của người lao động trong điều kiện cung lớn hơn cầu hiện
nay. Nếu phục hồi thành công và giải quyết thỏa đáng quyền lợi giữa chủ nợ
và con nợ sẽ góp phần làm giảm đi những mâu thuẫn, căng thẳng có thể có
3
Luật thương mại Bài tập học kỳ
giữa những chủ thể này. Qua đó, góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội và
làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho các DN, HTX.
2. Những quy định pháp luật về thủ tục phục hồi DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản
2.1. Vai trò của hội nghị chủ nợ trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
Mục đích cơ bản và quan trọng của thủ tục phá sản là bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư – bao gồm cả chủ nợ và con nợ. Một trong
những phương thức bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp đó chính là hội
nghị chủ nợ (HNCN). Thông qua HNCN, các bên có thể đi đến những giải
pháp khả dĩ hơn so với việc tuyên bố DN, HTX bị phá sản.
2.1.1. Thành phần tham gia hội nghị chủ nợ
Theo quy định của LPS năm 2004, HNCN gồm có hai nhóm: nhóm chủ
nợ có quyền được tham gia HNCN quy định tại điều 62 và nhóm người có
nghĩa vụ tham gia HNCN quy định tại điều 63
[5]
. Có nghĩa là thành phần cơ
bản tham gia HNCN là các chủ nợ. Bên cạnh đó là những người có nghĩa vụ
tham gia HNCN khi họ là người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đây là
chủ thể lần đầu tiên được quy định trong nhóm người có nghĩa vụ tham gia
HNCN, do LPS năm 2004 mở rộng đối tượng được quyền nộp đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản. Vì vậy, thành phần tham gia HNCN đa dạng và phong
phú hơn.
Con nợ luôn luôn là đối tượng phải tham gia HNCN không phân biệt con
nợ nộp đơn hay không (do chủ thể khác nộp) đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
2.1.2. Thẩm quyền, vai trò của hội nghị chủ nợ
HNCN có toàn quyền trong việc định đoạt số phận của DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản (Điều 64). Đây là nơi đánh giá và quyết định có áp
dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hay không. Và còn là nơi để các
bên thảo luận, xem xét và thống nhất phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh. Thông qua quyền này, HNCN thể hiện được vai trò của mình trong
4
Luật thương mại Bài tập học kỳ
quá trình áp dụng thủ tục phục hồi và đưa ra các giải pháp giúp DN, HTX
thoát khỏi tình trạng khó khăn lúc này một cách rõ nét và đầy đủ nhất.
HNCN còn có thẩm quyền đề nghị thẩm phán ra quyết định cử người
quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản. Đây là thẩm quyền lần đầu tiên LPS năm 2004 trao cho HNCN. Điều
này chứng tỏ LPS năm 2004 đề cao vai trò của HNCN trong quá trình thực
hiện thủ tục phục hồi. HNCN còn có quyền bầu người đại diện, bầu thay thế
người đại diện trong tổ quản lý, tổ thanh lý tài sản. Đây là chủ thể có vai trò
không thể thay thế trong thủ tục mở phá sản. Vì vậy, sự tham gia của đại diện
chủ nợ trong tổ chức này tạo điều kiện cho các chủ nợ bảo vệ tốt hơn quyền
của mình.
2.2. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Theo LPS năm 2004, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có thể áp
dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh khi cần có các điều kiện nhất
định sau:
Thứ nhất, DN, HTX phải nằm trong tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn. Đây là dấu hiệu xác định DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và
là căn cứ để mở thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi hoạt động kinh

doanh nói riêng.
Thứ hai, DN, HTX đó phải thuộc phạm vi áp dụng của thủ tục phá sản
nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng. Theo quy định của LPS năm 2004 thì
chỉ áp dụng thủ tục này với DN, HTX mà chưa áp dụng với hộ kinh doanh cá
thể.
Thứ ba, điều kiện về khả năng phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá
sản. Đánh giá khả năng phục hồi có ý nghĩa quyết định đến việc áp dụng thủ
tục phục hồi. Theo qui định tại khoản 1 điều 68, việc có áp dụng thủ tục phục
hồi kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các chủ nợ chứ không
phải chủ DN, HTX hay Tòa án
[5]
. HNCN chính là nơi xem xét và quyết định
số phận của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
5
Luật thương mại Bài tập học kỳ
Vì vậy, điều kiện cần và đủ để DN, HTX được áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh là: HNCN lần thứ nhất được tổ chức thành công (hợp
lệ), điều 65 LPS năm 2004 quy định: “HNCN chỉ hợp lệ khi có đầy đủ các
điều kiện sau đây: Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai
phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; có sự tham gia của
người có nghĩa vụ tham gia HNCN quy định tại điều 63 của luật này”.Sau đó,
HNCN thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu DN, HTX phải
xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
[3]
.
Như vậy không phải DN, HTX nào lâm vào tình trạng phá sản cũng
được áp dụng thủ tục phục hồi mà phải đáp ứng được những điều kiện nhất
định. Những điều kiện này làm cho việc áp dụng thủ tục phục hồi đạt hiệu quả
cao trong thực tế, tránh trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi tràn lan, không

đạt được hiệu quả mà còn làm cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản kiệt
quệ hơn.
2.3. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
2.3.1. Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
 Chủ thể xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được quy
định tại khoản 2 điều 68 thì DN, HTX là chủ thể có nghĩa vụ. Bất kỳ chủ nợ
hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX
đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi. Đây là một điểm mới so
với LPSDN năm 1993 thì chỉ có chủ DN, HTX mới được quyền này. Quy
định mới này làm cho chủ thể xây dựng phương án phục hồi đa dạng hơn.
Điều này cũng chứng tỏ sự bổ sung và đề cao vai trò của các chủ nợ trong
việc xây dựng phương án phục hồi và đưa chủ nợ tham gia vào quá trình phục
hồi của DN, HTX. Qua đó, giúp cho HNCN có thể xem xét, lựa chọn được
những phương án khả thi và có hiệu quả nhất nhằm phục hồi DN, HTX thành
công và bảo vệ được quyền và lợi ích của các chủ nợ.
6

×