Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam luận văn ths luật 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.46 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Lê Thị Thảo

Một số vấn đề pháp lý
về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số:

Luận văn thạc sỹ khoa học luật

Người hướng dẫn khoa học: TS. lê thị thu thủy

Huế - 2002


Bảng chữ viết tắt trong luận văn

blds : Bộ luật dân sự
CTTC

: Cho thuê tài chính

HĐCTTC : Hợp đồng cho thuê tài chính
HĐDS

: Hợp đồng dân sự

HĐKT



: Hợp đồng kinh tế



: Nghị định

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TSCĐ

: Tài sản cố định

TSLĐ

: Tài sản lưu động


Mục lục
Lời nói đầu
Chương1. khái quát chung về hợp đồng cho thuê tài chính
1.1.

Khái niệm chung về cho thuê tài chính và hợp đồn

1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính

1.1.2. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chín

1.1.3. Khái niệm và bản chất pháp lý của hợ
chính.
1.2.

Đặc điểm và phân loại hợp đồng cho thuê tà

1.2.1. Đặc điểm của hợp đồng cho thuê tài c

1.2.2. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính
1.3.

Chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng ch

1.4.

Đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính.

Chương 2. Giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính.

2.1. Giao kết hợp đồng cho thuê tài chính.

2.1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính

2.1.2. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng cho thuê tài c
2.1.3. Hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính.
2.1.4. Nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính.

2.2. Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính.


2.2.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng cho thuê
2.2.2. Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính.

2.2.3. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng c

2.2.4. Chấm dứt và giải quyết tranh chấp phát si
Chương 3. định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng cho thuê tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay.
3.1.

Định hướng hoàn thiện.

3.2.

Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
thuê tài chính ở Việt nam.

Kết luận
Phụ lục
Danh mục tài liệu tham khảo


Lời nói đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã mang lại cho nền kinh tế Việt

Nam từng bước chuyển biến mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn trong
những năm qua. Kinh tế tăng trưởng khá, nhịp độ tăng tổng sản phẩm bình quân
hàng năm là 7%. Lạm phát được đẩy lùi, đời sống kinh tế của đông đảo quần chúng
nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên để duy trì được nhịp độ phát triển đó, tránh
nguy cơ tụt hậu, tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới, đòi hỏi phải có một khối lượng vốn lớn, các doanh
nghiệp phải tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao, mẫu mã đủ sức cạnh tranh
trên thị trường. Để đạt được điều đó, vấn đề đặt ra là phải có cơ chế huy động vốn
hữu hiệu nhằm khơi thông các nguồn vốn trong nước, thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đặt ra nhiệm vụ: “Phát triển thị trường vốn
bằng nhiều hình thức thu hút tiền gửi trung và dài hạn qua ngân hàng và các công
ty tài chính để cho vay đầu tư phát triển” [19,100] và tiếp tục khẳng định trong
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Phát triển thị trường vốn và tiền tệ,
nhất là thị trường vốn trung và dài hạn, thu hút các nguồn vốn bên ngoài, đa dạng
hoá các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi Ngân hàng và các quỹ
đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội” [20,192-194].

Trong điều kiện hiện nay, khả năng tài chính của các doanh nghiệp còn hạn
chế, cơ chế vay vốn thông qua Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, Cho thuê tài
chính (finance lease) - một hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn thông qua hợp
đồng cho thuê tài chính đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và đáp
ứng được nhu cầu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

1


Có thể nói, hoạt động CTTC ở Việt Nam là một hình thức hoạt động tín dụng
tương đối mới mẻ. Trong những năm gần đây, qua quá trình đa dạng hoá các loại hình
tín dụng nhằm cung ứng nguồn vốn cho các doanh nghiệp, thu hút các nguồn vốn phục

vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoạt động CTTC đã được
chú ý đến. Cơ sở pháp lý cho hoạt động CTTC ở Việt Nam được khởi điểm từ khi có
Nghị định số 64/CP ngày 09/10/1995 về quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của
công ty CTTC tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là NĐ số 64/CP).

Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động CTTC trong thời gian qua
đã thu được nhiều kết quả, đã mang lại cơ hội kinh doanh cho nhiều doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế hoạt động CTTC cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc do
chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ, chưa có một hành lang pháp lý
vững chắc an toàn để tạo lập và thực hiện hoạt động CTTC. Hiện nay pháp luật
điều chỉnh hoạt động CTTC chỉ mới dừng lại ở các văn bản dưới luật: Nghị định
16/CP ban hành ngày 02/05/2001 về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC
(NĐ16/CP). Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện HĐCTTC
chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (25/09/1989) và Bộ luật Dân sự
(1996), trong đó có rất nhiều quy định trong pháp lệnh HĐKT không còn phù hợp
với điều kiện nền kinh tế hiện nay. Các hoạt động của các doanh nghiệp đang được
điều chỉnh bởi các luật mới: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức
tín dụng, Luật doanh nghiệp. Như vậy, cơ sở để thiết lập và thực hiện HĐCTTC đã
không còn phù hợp trong trong tình hình mới và hiệu quả pháp lý không cao do chủ
yếu được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật. Mặt khác, chưa có các văn bản
hướng dẫn cụ thể về việc ký kết và thực hiện HĐCTTC. Do đó, nhu cầu đòi hỏi cần
phải có một hành lang pháp lý hoàn thiện, thống nhất đồng bộ và có hiệu lực pháp
lý cao để thúc đẩy hoạt động CTTC. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về
HĐCTTC là một tất yếu khách quan, nhằm thúc đẩy hoạt động CTTC ngày càng
phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

2



Hoạt động CTTC đã được nhiều luật gia cũng như các nhà kinh tế quan tâm
nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau như: “Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín
dụng thuê mua" của Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản - NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
1996; “Cơ sở pháp lý cho hoạt động thuê mua ở Việt Nam - thực trạng và giải
pháp” - luận văn Thạc sỹ của tác giả Doãn Hồng Nhung,1998; “ Hoàn thiện cơ chế
CTTC tại Việt Nam” - luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Bùi Quang Hải; “Tín
dụng thuê mua-hình thức đầu tư mới”,Tạp chí Tài chính số ra tháng 12/1996;
“Những vướng mắc cần tháo gỡ trong hoạt động CTTC”, Tạp chí Ngân hàng số
6/1999... Trong các công trình trên các tác giả đã trình bày, phân tích khá chi tiết
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động CTTC ở Việt Nam theo quy định
NĐ 64/CP, đã khắc họa được bức tranh chung về hoạt động cho thuê tài chính, cung
cấp các thông tin về kinh nghiệm thực hiện nghiệp vụ CTTC ở các nước trong khu
vực và thế giới và nghiên cứu nghiệp vụ cho thuê dưới giác độ kinh tế. Tuy nhiên,
việc đi sâu nghiên cứu về cơ sở pháp lý của hoạt động CTTC và HĐCTTC vẫn
chưa được đề cập đến một cách toàn diện. Như vậy, có thể nói từ khi hoạt động
CTTC chính thức đi vào hoạt động ở Việt Nam cho đến nay, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về các quy định của HĐCTTC. Trong luận văn
này, tác giả cũng không có tham vọng đề cập tới tất cả những vấn đề của HĐCTTC,
mà chỉ xem xét dưới góc độ pháp luật, những vấn đề có tính chất cơ bản nhất, góp
phần xây dựng cơ chế pháp lý thúc đẩy hoạt động CTTC.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
-

Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về HĐCTTC; thực

tiễn hoạt động CTTC thông qua việc thực hiện HĐCTTC, chỉ ra những vấn đề bất
cập cũng như những giải pháp cho việc thực thi và tiếp tục hoàn thiện các quy định
của pháp luật này.
-


Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể

như sau:

3


+

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật hiện

hành về HĐCTTC.
+

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên, tiến tới tìm hiểu, phân tích

những quy định của pháp luật về HĐCTTC còn chưa thống nhất.
+

Đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật

về HĐCTTC, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động CTTC ở Việt Nam phát triển.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả không đi sâu nghiên cứu các
quy phạm pháp luật về CTTC mà chỉ đi vào nghiên cứu các quy định của pháp luật
về HĐCTTC và thực tiễn giao kết, thực hiện HĐCTTC.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin kết hợp với các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp điều tra, đánh giá và các chủ trương, đường lối, quan điểm của
nhà nước ta, các quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội được

sử dụng làm cơ sở pháp lý, từ đó rút ra những kết luận có tính chất tổng hợp, đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về HĐCTTC trong giai đoạn
hiện nay.
5. Cơ cấu của đề tài:
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đề ra, với những phương pháp nghiên
cứu trên, đề tài được bố cục như sau :
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương:
-

Chương I: Khái quát chung về hợp đồng cho thuê tài chính

-

Chương II: Giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính

-

Chương III: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về

HĐCTTC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

4


6. Điểm mới của đề tài:
a) Về lý luận:
Luận văn là công trình lần đầu tiên nghiên cứu những khía cạnh
pháp lý về
HĐCTTC .

-

Luận văn phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động CTTC và

HĐCTTC, trên cơ sở đó nêu ra những điểm hạn chế, bất cập của các quy định pháp
luật hiện hành.
Luận văn đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của
pháp
luật về HĐCTTC.
b) Về mặt thực tiễn:
-

Luận văn giúp các nhà làm luật phát hiện những mâu thuẫn, bất cập của

các quy phạm pháp luật hiện hành về HĐCTTC. Luận văn giúp cho các nhà kinh
doanh hiểu và áp dụng một cách có hiệu quả pháp luật về HĐCTTC, đồng thời
tránh những tổn thất và hạn chế tranh chấp trong hoạt động CTTC.
-

Đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện các quy phạm pháp luật về

giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp HĐCTTC, nhằm thúc đẩy hoạt động
CTTC phát triển.


5


Chƣơng 1
Khái quát chung về hợp đồng cho thuê tài chính

1.1. Khái niệm chung về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính:
1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính:
Xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển của nền kinh tế, đáp ứng nguồn
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của con người, hoạt động CTTC đã xuất
hiện. Hình thức cho thuê đầu tiên đó là cho thuê các tài sản, chủ yếu là các công cụ
sản xuất nông nghiệp, đất đai, quyền sử dụng nguồn nước, bò kéo... Đây là “quan
hệ giữa một bên là chủ sở hữu tài sản nhường quyền nắm giữ và sử dụng tài sản
cho một bên khác trong một thời gian nhất định với những điều kiện do hai bên
thoả thuận. Trong thời gian cho thuê, quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc bên
cho thuê. Bên thuê chỉ được quyền sử dụng và phải trả cho bên cho thuê một khoản
phí thuê” [40].
Các giao dịch cho thuê tài sản xuất hiện khoảng năm 2.800 TCN tại Thành
phố Simerian (thuộc Irắc ngày nay). Trong quan hệ giao dịch thời bấy giờ, các bên
tham gia giao dịch cho thuê tài sản là các thầy tu giữ vai trò cho thuê và nông dân
là những người đi thuê công cụ sản xuất nông nghiệp, gia súc, ruộng đất...Trong
nền văn minh cổ đại như Hy lạp - La mã hay Ai cập, hình thức thuê mua truyền
thống này cũng đã xuất hiện.
Vào khoảng năm 1.700 TCN, các quy định về hợp đồng cho thuê tài sản đã
được ghi nhận trong bộ luật Hamurabi dưới triều đại Babilon. Tuy nhiên, các giao
dịch cho thuê tài sản thời kỳ này đều thuộc hình thức cho thuê kiểu truyền thống
(Tradictional lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương
thức cho thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của
nó, đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch. Trong suốt thời hạn hợp
đồng, quyền sở hữu không chuyển cho bên thuê nhưng bên thuê phải chịu trách
nhiệm giữ gìn tài sản đó như chính của mình.

6


Vào những năm 50 của thế kỷ XIX, hình thức CTTC xuất hiện đầu tiên ở

Hoa Kỳ do Công ty Tư nhân United States leasing Corporation sáng tạo nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Không lâu sau, hoạt động
CTTC đã thâm nhập vào Châu Âu. Năm 1960, lần đầu tiên một HĐCTTC đã được
ký ở Anh với giá 18.000 bảng Anh. Cũng trong năm 1960 phương thức CTTC được
ghi nhận trong bộ luật Thương mại của Pháp dưới tên gọi “Credit Bail”.
Hoạt động CTTC cũng có những bước phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu
á và nhiều khu vực khác trên thế giới kể từ đầu thập niên 70.
Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đã và đang được xúc tiến mạnh mẽ. Song
song với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; phát triển nền kinh tế
Việt Nam đạt trình độ công nghệ hiện đại, nâng cao mức sống của nhân dân và tạo
đà phát triển bền vững tiếp theo. Trong bối cảnh đó, hoạt động CTTC bắt đầu đi
vào hoạt động ở Việt Nam. Đến nay, hoạt động CTTC đã thu được kết quả, tuy
chưa khả quan lắm nhưng đã phần nào tạo cơ sở cho hoạt động CTTC ở Việt Nam
phát triển.
Theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế hiện nay, trên thế giới đang tồn tại hai
phương thức cho thuê chủ yếu đó là :
-

Cho thuê vận hành (cho thuê dịch vụ - Operational lease): là hình thức cho

thuê theo đó, người cho thuê phải chịu mọi chi phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cho
thuê cùng với mọi rủi ro và sự sụt giảm giá trị của tài sản và có thể huỷ ngay hợp
đồng với điều kiện phải báo trước. Sau khi hợp đồng thuê hết hiệu lực, tài sản được
hoàn trả lại cho người cho thuê.
-

Cho thuê tài chính (financial lease): là một phương thức tài trợ tín dụng

trung và dài hạn, không thể huỷ ngang. Theo phương thức này, bên cho thuê không
chịu bất kỳ chi phí nào về bảo quản tài sản cũng như những chi phí khác có thể xảy

ra đối với tài sản cho thuê. Quyền sở hữu đối với tài sản thuê sau khi hợp đồng
chấm dứt, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên trong hợp đồng, cụ thể là: người
đi thuê có thể mua đứt tài sản thuê hoặc có thể tiếp tục thuê lại tài sản.

7


Việc phân biệt hai hình thức này dựa trên mức độ rủi ro và lợi ích gắn với
quyền sở hữu tài sản cho thuê thuộc về người cho thuê hay người thuê. Sự phân
loại này giúp nhận diện một cách chính xác bản chất kinh tế, pháp lý của các giao
dịch nói trên, và qua đó để xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp.
Trên thế giới tồn tại thuật ngữ “Leasing” nghĩa là thuê mua, để chỉ hoạt động
CTTC. Đây thực chất là một giao dịch thuê tài sản có kèm theo việc mua lại tài sản
khi đáo hạn hợp đồng, và phải có sự thoả thuận của bên thuê và bên cho thuê. Như
vậy, CTTC có thể hiểu là một loại hình giao dịch vốn, trong đó bên cho thuê tài trợ
vốn bằng tài sản, hiện vật cho bên thuê; trong hợp đồng các bên có thể thoả thuận
về việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản thuê khi hết thời hạn hợp đồng. Do vậy,
theo chúng tôi sử dụng thuật ngữ “leasing” là chưa chính xác vì việc chuyển giao
quyền sử hữu tài sản sau khi hết thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng có thể xãy
ra hoặc không tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Trong
trường hợp này, nên dùng thuật ngữ “Financial lease” tức là “CTTC” là hợp lý và
thể hiện đầy đủ tính chất của hoạt động CTTC.
Theo Hiệp định thống nhất luật dân sự về tín dụng thuê mua quốc tế tại
Ottawa - Canada năm 1988 thì CTTC là giao dịch trong đó một bên (bên cho thuê)
chuyển giao quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia (bên thuê)
trong một thời gian nhất định, mà trong thời gian đó, bên cho thuê dự định thu hồi
vốn tài trợ và chi phí liên quan. Quyền sở hữu có thể được chuyển giao hay không
tùy theo thoả thuận giữa hai bên.



một số nước thì không có định nghĩa một cách khái quát cho thuê tài chính

là gì mà chỉ nêu ra các đặc tính của hoạt động CTTC:
-

Người cho thuê mua thiết bị do người thuê yêu cầu.

-

Các thiết bị thuộc quyền sở hữu của người cho thuê và quyền sử

dụng được trao cho người thuê trong suốt thời hạn thuê thường tương
đương với tuổi thọ kỹ thuật của thiết bị.

8


-

HĐCTTC không thể bị phá bỏ trước kỳ hạn.

-

Số tiền thanh toán cho thuê sẽ bù đắp chi phí bao gồm: chi phí quản

lý, rủi ro, cho phép khấu hao toàn bộ hoặc gần như toàn bộ giá mua thiết
bị đó.
-

Tại thời điểm kết thúc hợp đồng, người thuê có quyền gia hạn hợp


đồng và phí suất được ấn định vào thời điểm ký hợp đồng.
-

Nếu người thuê quyết định không gia hạn hợp đồng thuê thì quyền sử

dụng thiết bị sẽ chấm dứt và thiết bị được bàn giao lại cho người cho thuê

[33,14].


Việt Nam, cho đến nay chưa có sự thống nhất về khái niệm CTTC do mỗi

người nhìn nhận hoạt động CTTC dưới góc độ khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật Việt
Nam đã đưa ra định nghĩa về CTTC trong Nghị định 64/CP “CTTC là hoạt động tín
dụng trung và dài hạn thông qua việc mua máy móc thiết bị và các động sản khác.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê
và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê
được chuyển quyền sở hữu bằng cánh mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng thuê. Theo quy định của Nghị định
16/CP thì “CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và
nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê
và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”.
Như vậy, mặc dù không có sự thống nhất về khái niệm CTTC trong các văn
bản pháp luật nhưng về bản chất của hoạt động CTTC đều được hiểu như nhau
trong các khái niệm nêu trên, đó là: CTTC là một hoạt động tín dụng trung và dài
hạn thông qua hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê, trong đó theo yêu


9


cầu của bên thuê, bên cho thuê chuyển giao quyền sử dụng tài sản thuê cho bên
thuê trong suốt thời gian thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê.
Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê theo thỏa thuận. Quyền sở
hữu tài sản có thể chuyển giao hay không vào cuối thời hạn thuê tùy thuộc vào sự
thỏa thuận của hai bên.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính:
“CTTC là một hoạt động không thể thiếu đối với nền kinh tế hiện đại.
Doanh số của nền công nghiệp CTTC trên thế giới trong những năm gần đây đã đạt
tới con số kỷ lục 450 tỷ USD trong năm 1998 và vẫn tiếp tục tăng trưởng với tốc độ
trung bình 7% hàng năm. Hoạt động thuê mua đang đạt được những bước tăng
trưởng đầy ấn tượng ở các Châu Lục mới phát triển như Châu á, Châu
Phi...”[46,38]. Hoạt động CTTC ngày càng phát triển và khẳng định được thế đứng
của mình, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam. Sở dĩ như vậy là
do những tiện ích của nó mang lại đối với nền kinh tế cũng như các bên tham gia
trong giao dịch CTTC.
*

Vai trò đối với nền kinh tế:

CTTC góp phần mở rộng chủ thể tham gia cung ứng nguồn vốn cho nền kinh

tế. Hiện nay, việc vay vốn ở các ngân hàng đòi hỏi những điều kiện khắt khe như
doanh nghiệp phải có uy tín và kinh doanh có lãi; dự án phải có tính khả thi cao trong
trường hợp Ngân hàng cho vay không có đảm bảo, hơn nữa nguồn vốn huy động ở
ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, vốn dành cho đầu tư trung và dài hạn còn
hạn chế; muốn vay vốn trung và dài hạn doanh nghiệp thường phải có tài sản thế chấp

hoặc phải có 50% vốn đầu tư ban đầu cho dự án vay. Do vậy, tình trạng đói vốn trở
thành “căn bệnh trầm kha” của các doanh nghiệp Việt Nam [45,258]. Sự xuất hiện của
các định chế tài chính đã tạo ra nhiều loại hình dịch vụ phong phú, phục vụ nhiều
khách hàng dưới nhiều hình thức làm cho môi trường cạnh tranh sống động và các chủ
thể tham gia phải ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm,

1
0


đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy được năng lực của
mình. Công ty CTTC là một trong các chế định đó.
Như vậy, sự đa dạng hóa các loại hình cho thuê đáp ứng được nhu cầu vốn
riêng biệt của từng loại hình doanh nghiệp trong việc cung cấp kịp thời nguồn vốn
cho mình, khắc phục những hạn chế của tín dụng trung và dài hạn thông qua hình
thức vay vốn ở ngân hàng.
*

CTTC góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Hoạt động CTTC có

mức độ rủi ro thấp so với các phương thức tài trợ vốn khác. Vì đối với hoạt động
CTTC - mục đích sử dụng vốn thông qua việc đầu tư vào tài sản cho thuê. Trong
quá trình sử dụng nguồn vốn này bên cho thuê có thể nắm được tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của bên thuê thông qua tài sản cho thuê, tức bên cho thuê có
thể kiểm tra được chặt chẽ tài sản cho thuê và như vậy sẽ hạn chế được tình trạng
mất vốn. Đồng thời khoản tín dụng mà bên cho thuê cung cấp được thu hồi dần
thông qua việc thanh toán tiền thuê trong thời hạn hợp đồng. Mặt khác, CTTC có
phạm vi tài trợ rộng hơn nên thu hút được nhiều khách hàng đầu tư vốn để kinh
doanh. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập với nền kinh tế quốc tế và điều kiện giao lưu
ngày nay, CTTC là kênh thu hút vốn cho nền kinh tế thông qua các máy móc thiết

bị cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời hình thức thu hút vốn đầu tư
nước ngoài này lại không làm tăng thêm nợ nước ngoài của quốc gia nhận được
thiết bị cho thuê. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang thực hiện công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, hình thức thu hút vốn đầu tư này
đóng vai trò rất quan trọng.
*CTTC góp phần đổi mới công nghệ thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật. Với sự
tồn tại của nền kinh tế thị trường và trong quan hệ với nền kinh tế quốc tế đòi hỏi các
sản phẩm làm ra phải có chất lượng cao, mẫu mã kiểu dáng mới đảm bảo đủ sức cạnh
tranh, thu hút được khách hàng và đứng vững trên thị trường. Thông qua hoạt động
CTTC, các máy móc thiết bị có trình độ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp, góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong điều kiện có

11


khó khăn về nguồn vốn đầu tư. Nếu có cơ chế đảm bảo an toàn và vững chắc, hoạt
động CTTC có thể đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng.

Ngay cả đối với các nước có nền công nghệ cao như Nhật Bản, Mỹ, Pháp...
CTTC vẫn phát huy tác dụng đáp ứng kịp thời công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
*

Vai trò đối với bên thuê.

CTTC giúp cho người thuê có thể nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn

trong điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư.
Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất sử dụng tài sản cố
định của doanh nghiệp có thể tăng lên bất cứ lúc nào, đòi hỏi phải có sự tích luỹ.
Nhưng khả năng tài chính của doanh nghiệp không phải luôn luôn đáp ứng được

nhu cầu đó, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp nhiều khó khăn về
nguồn vốn trung và dài hạn. Chế độ vay ở các Ngân hàng thì rất hạn chế và thông
thường lại phải có tài sản thế chấp, cầm cố. Phương thức CTTC đáp ứng được
nguồn vốn cho các doanh nghiệp (bên thuê) phục vụ yêu cầu sản xuất và phục vụ
cho các khách hàng mà Ngân hàng sợ rủi ro không giám cho vay. Thông qua
phương thức cho thuê tài chính, các doanh nghiệp đi thuê mặc dù đang khó khăn về
nguồn vốn hoặc không đủ tài sản, uy tín để vay vốn tại các ngân hàng mà vẫn có
thể tiếp tục sử dụng các máy móc thiết bị đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của
mình.
*

CTTC giúp cho người đi thuê không bị ứ đọng vốn đầu tư vào tài sản cố

định. Trong hoạt động kinh doanh đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và cơ
hội kinh doanh, có thể xảy ra trường hợp doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả
muốn chuyển hướng hoạt động kinh doanh hiện tại của mình và khi đó sẽ kéo theo
sự thay đổi về cơ cấu tài sản cố định. Trong trường hợp này thì doanh nghiệp
thường thanh lý tài sản với giá trị rất thấp so với giá thực tế của tài sản hoặc không
bán được do không tìm kiếm được khách hàng có nhu cầu đối với loại tài sản đó.
Như vậy, tài sản cố định được mua sắm thường bị ứ đọng, gây khó khăn cho doanh
nghiệp. Nếu trong trường hợp này, doanh nghiệp thuê các tài sản này theo phương

1
2


thức CTTC sẽ giúp cho doanh nghiệp thay đổi các thiết bị đã lạc hậu một cách dễ
dàng và nhanh chóng. Hoặc thông qua phương thức bán và tái thuê (tức là khách
hàng thuê mang tài sản của mình bán cho bên cho thuê, nhận tiền bán tài sản từ bên
mua - bên cho thuê, sau đó ký hợp đồng thuê lại chính tài sản mà mình đã bán),

doanh nghiệp có thể chuyển TSCĐ thành TSLĐ hay chuyển dịch vốn đầu tư cho
các dự án kinh doanh khác có hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động
đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Mặt khác, các doanh nghiệp
cần vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có nhu cầu về tài sản thì vẫn có thể thực hiện
thông qua thuê TSCĐ theo phương thức bán và tái thuê. Như vậy, doanh nghiệp có
thể sử dụng vốn một cách hiệu quả.
*

CTTC là một phương thức tài trợ thuận lợi cho những khoản đầu tư nhanh

chóng, đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh của bên thuê. Thông qua phương
thức CTTC, người đi thuê có thể tìm kiếm, lựa chọn trước tài sản từ nhà cung cấp,
sau đó mới yêu cầu Công ty CTTC tài trợ, nên ưu thế cho phép người thuê rút ngắn
thời gian đầu tư thiết bị, đặc biệt, thủ tục tài trợ cũng đơn giản và ít rủi ro hơn các
phương thức khác.
-

Vai trò đối với bên cho thuê:

* CTTC cho phép doanh nghiệp cho thuê thu lợi nhuận an toàn hơn và cao
hơn so với cho thuê thông thường vì lợi nhuận từ tài sản cho thuê có tính ổn định
cao, và trong suốt thời hạn thuê, bên cho thuê có quyền sở hữu pháp lý đối với tài
sản thuê nên người cho thuê có khả năng nhanh chóng chiếm hữu lại tài sản nếu
người đi thuê không tuân thủ hợp đồng và vẫn nhận được toàn bộ số tiền thuê theo
thoả thuận ban đầu.
*Do tài trợ bằng hiện vật nên giá trị của vốn tài trợ luôn được giữ vững mà
không bị ảnh hưởng của lạm phát. Vì đối với hình thức tài trợ bằng cách xuất quỹ
cho vay có thể làm biến động đến lưu lượng của đồng tiền trong lưu thông cũng
như việc thu hồi đồng vốn vào cuối kỳ cho vay có thể giảm giá trị đồng tiền, còn
hình thức tài trợ trực tiếp thông qua hiện vật tránh được rủi ro đó. Trong thời gian


1
3


diễn ra giao dịch, vốn tài trợ được thu hồi dần cho phép người cho thuê đầu tư vào
hoạt động kinh doanh khác mà vẫn giữ được nhịp độ hoạt động của công ty. Mặt
khác, do doanh nghiệp cho thuê tập trung vào lĩnh vực hẹp của mình nên có điều
kiện để đầu tư theo chiều sâu cả về tài chính, kỹ thuật và kỹ năng nghiệp vụ tín
dụng, do vậy doanh nghiệp ngày càng có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Như vậy, thông qua hoạt động cho thuê tài chính - một kênh tài trợ vốn thích
hợp, góp phần đa dạng hóa các loại hình tín dụng, tháo gỡ các khó khăn về vốn đối
với các doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ,
làm tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang diễn ra ngày
một gay gắt như hiện nay.
1.1.3. Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng cho thuê tài chính:
1.1.3.1. Khái niệm hợp đồng cho thuê tài chính.
Vào thời điểm khai sinh của lịch sử xã hội loài người, con người sống chủ
yếu dựa vào điều kiện tự nhiên để tồn tại. Cùng với thời gian, con người dần dần
nắm bắt chinh phục tự nhiên, chủ động tạo ra của cải vật chất. Trải qua ba lần phân
công lao động xã hội, con người đã chuyên môn hoá về lao động sản xuất, điều đó
làm nảy sinh nhu cầu trao đổi sản phẩm. Trên cơ chế đó, hợp đồng đã xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá. Xuất phát điểm ban đầu của hợp
đồng chỉ là sự ghi nhận việc giao kèo mua bán giữa các bên hay nói cách khác đó là
sự tự nguyện trên cơ sở có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, mang tính
chất thuần tuý kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hợp
đồng ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống: dân sự,
lao động, thương mại... Tuỳ theo từng loại hợp đồng mà nó có những đặc điểm
riêng, nhưng có một điểm chung thống nhất đối với mọi hình thức hợp đồng là sự
thoả thuận của các chủ thể trên cơ sở tự do ý chí. Đặc điểm này được ghi nhận

trong các văn bản pháp luật về hợp đồng (Điều 395 - BLDS, Điều 3- Pháp lệnh
HĐKT).

1
4


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày nay, phương thức huy động vốn
thông qua HĐCTTC ngày càng phổ biến và đa dạng. ở các nước trên thế giới có
hoạt động CTTC phát triển, đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về HĐCTTC.
Có nước sử dụng thuật ngữ “HĐCTTC” nhưng có nước dùng thuật ngữ là “hợp
đồng thuê mua”.


Italia, hợp đồng thuê mua là hợp đồng giao kết giữa người đi thuê và bên

cho thuê về việc cho thuê các thiết bị do bên cho thuê mua hoặc sản xuất, nội dung
của hợp đồng phải phù hợp với yêu cầu của bên đi thuê và có hiệu lực trong một
thời gian nhất định. Hết thời hạn thuê theo ký kết trong hợp đồng bên thuê có
quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá định trước.


Tây Ban Nha, hợp đồng thuê mua là loại hợp đồng có mục đích nhượng lại

quyền sử dụng động sản hay bất động sản của bên cho thuê theo sự xác định của
người đi thuê theo hợp đồng. Hợp đồng này phải cho phép bên thuê có quyền mua
lại tài sản đã thuê vào cuối giai đoạn thuê [41].


Việt Nam, từ những năm 70 và 80 đã xuất hiện một số giao dịch mang tính


chất của giao dịch CTTC. Ví dụ, trong trường hợp tổng công ty Vietfrach trước đây
đã mua một số tàu biển dưới hình thức hợp đồng thuê tàu, tiền thuê và lãi được
Vietfrach trả dần cho chủ tàu theo định kỳ trong thời hạn thuê. Hết thời hạn thuê,
sau khi đã trả hết tiền thuê và lãi, thực hiện đầy đủ các điều khoản đã cam kết trong
hợp đồng thì bên kia chuyển giao quyền sở hữu con tàu cho Vietfrach.
Ngay từ năm 1993, nhà nước ta đã có những cải tiến đáng kể nhằm tạo ra
một hành lang pháp lý độc lập cho hoạt động CTTC. Chỉ thị số 84/TTg ngày
04/03/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước và
các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước đã
cho phép các doanh nghiệp áp dụng giải pháp “hợp đồng thuê toàn bộ doanh
nghiệp hoặc cho thuê tài sản và phương tiện kinh doanh”, nhưng cơ sở pháp lý đầu
tiên có đề cập đến khái niệm HĐCTTC là Thể lệ tín dụng thuê mua ban hành kèm
theo Quyết định số 149/QĐ - NH5 ngày 27/05/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà

1
5


nước Việt Nam. Theo quy định của văn bản pháp luật trên thì ở Việt Nam sử dụng
khái niệm hợp đồng tín dụng thuê mua, theo đó hợp đồng tín dụng thuê mua là một
hợp đồng được ký kết giữa bên CTTC và bên thuê và là cơ sở pháp lý xác định
quyền hạn và trách nhiệm của Tổ chức tín dụng và bên thuê trong một giao dịch tín
dụng thuê mua. Đến NĐ 64/CP ngày 9/10/1995 thì hợp đồng tín dụng thuê mua
được thay bằng HĐCTTC và HĐCTTC được định nghĩa là một loại hợp đồng kinh
tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy
móc thiết bị, bất động sản khác trong một thời gian nhất định (thời hạn cho thuê)
theo điều kiện sau: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được
chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
Ngoài ra trong NĐ 64/CP còn quy định: thời hạn cho thuê một loại tài sản ít

nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê
một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá trị tài
sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Những quy định trên của NĐ
64/CP là phù hợp với đặc điểm của một giao dịch tài chính do Uỷ ban tài chính
kiểm toán Quốc tế IASC đặt ra.
Nghị định số 64/CP đến nay được thay thế bởi NĐ16/CP ngày 02/05/2001.
Theo Điều 17 của Nghị định 16/CP thì “HĐCTTC là thoả thuận thuê một hoặc một
số máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo những quy
định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của các bên.
HĐCTTC phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Hợp
đồng phải ghi rõ việc xử lý tài sản khi hợp đồng chấm dứt trước thời hạn. Bên cho
thuê và bên thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng, trừ những trường hợp
nêu tại điều 27 Nghị định 16/CP ”:
Bên cho thuê có quyền chấm dứt HĐCTTC trước hạn khi rơi vào một trong
các trường hợp sau:
-

Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong HĐCTTC

-

Bên thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng.

1
6


-

Bên thuê bị phá sản, giả thể.


-

Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê không chấp nhận đề

nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo lãnh khác thay thế của bên
thuê.

Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn khi bên cho thuê vi phạm
một trong các trường hợp sau:
-

Bên cho thuê không giao đúng hạn tài sản.

-

Bên cho thuê vi phạm hợp đồng.

HĐCTTC chấm dứt trước thời hạn cho thuê trong trường hợp tài sản thuê bị
mất mát, hư hỏng không thể phục hồi , sửa chữa.
HĐCTTC được chấm dứt trước khi kết thúc thời hạn cho thuê trong trường
hợp bên cho thuê chấp nhận để bên thuê thanh toán toàn bộ tiền thuê trước thời hạn
ghi tại HĐCTTC.
Như vậy, ở mỗi nước trong những giai đoạn thời kỳ khác nhau quan niệm về
HĐCTTC cũng rất khác nhau. Nhưng nói chung, HĐCTTC có những điểm đặc
trưng sau đây: là sự thỏa thuận giữa bên thuê và bên cho thuê về việc thuê tài sản
nhất định theo yêu cầu của bên thuê và xác định quyền sở hữu tài sản khi chấm dứt
hợp đồng thuê. Theo quan điểm của chúng tôi, hợp đồng CTTC có thể hiểu đó là
sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê (công ty CTTC) và bên thuê (cá
nhân,tổ chức), theo đó bên cho thuê cung cấp tài sản thuê theo yêu cầu của bên

thuê cho bên thuê sử dụng trong một thời hạn nhất định. Bên thuê có quyền chọn
mua tài sản hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê theo thỏa thuận trong hợp
đồng.
1.1.3.2 - Bản chất pháp lý của hợp đồng cho thuê tài chính:
Tìm hiểu bản chất pháp lý của hợp đồng nói chung, HĐCTTC nói riêng có
ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như thực tiễn. Bởi vì, chỉ khi xác định
được bản chất pháp lý của hợp đồng này chúng ta mới xác định được quy chế pháp
lý của nó, tức là xác định nó thuộc nhóm quan hệ nào, do ngành luật nào điều


1
7


chỉnh, từ đó lựa chọn đúng đắn văn bản pháp lý để áp dụng cũng như thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp xảy ra.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì HĐCTTC về hình thức là văn
bản thoả thuận giữa các bên, có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với các bên trong
thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh (nếu có). Mặc dầu vậy,
việc xác định bản chất pháp lý của HĐCTTC còn có nhiều quan điểm chưa thống
nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng HĐCTTC là hợp đồng kinh tế, quan điểm thứ
hai xếp HĐCTTC tuỳ từng trường hợp mà coi đó là HĐKT hay HĐDS. Việc xác
định một HĐCTTC là hợp đồng kinh tế hay HĐDS sẽ làm thay đổi quy chế pháp lý
áp dụng đối với hợp đồng đó. Điều đó sẽ gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong việc lựa chọn phương án giải quyết khi có tranh chấp phát
sinh từ HĐCTTC. Như vậy, vấn đề ở đây đòi hỏi chúng ta phải xác định trong
trường hợp nào HĐCTTC là HĐKT, trong trường hợp nào là HĐDS. Theo Điều 1,
Pháp lệnh HĐKT thì “HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch, các
bên ký kết về việc sử dụng công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá dịch vụ, nghiên

cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh
doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và
thực hiện kế hoạch của mình”; Về hợp đồng dân sự, Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng
dân sự ngày 29/4/1991 có ghi “HĐDS là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua, bán, thuê, vay,
mượn, tặng, cho; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc thoả thuận khác
trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Vậy ta
thấy việc phân biệt HĐKT và HĐDS chủ yếu dựa vào mục đích ký kết của hợp
đồng: HĐKT ký kết nhằm mục đích kinh doanh, trong khi đó HĐDS nhằm thoả
mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Thực tế các HĐCTTC của khách hàng chủ yếu là
vì mục đích kinh doanh nên quan điểm thứ nhất cho rằng HĐCTTC là hợp đồng
kinh tế theo chúng tôi là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, từ ngày 1/7/1996 Pháp lệnh
hợp đồng dân sự đã được thay thế bằng BLDS. Trong BLDS không có quy định về
mục đích ký


1
8


×