Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.02 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức
thương mại thế giới WTO sau 8 năm đàm phán. Để chuẩn bị tham gia và chấp
nhận những luật lệ chung cho hầu hết các nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam
đã có những thay đổi căn bản nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt
Nam và luật quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia vào hoạt
động thương mại tại Việt Nam. Đáp ứng các yêu cầu đó, năm 2005, Quốc hội
Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật mới trong đó có bao gồm Bộ luật dân sự
2005 và Luật thương mại 2005 thay thế cho Bộ luật dân sự và Luật thương mại
cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Đây là một thay
đổi lớn đối với toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng
nói riêng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là quan hệ trao đổi hợp pháp mà hầu hết các
cá nhân tổ chức kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát
triển. Việc kí kết, thực hiện hợp đồng phải tuân theo đúng các quy định của pháp
luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên, đồng thời góp phần tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế của
nhà nước trong nền kinh tế.
Với sự ra đời của các đạo luật nêu trên, quy định về pháp luật hợp đồng
hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên việc áp dụng các chính sách
mới trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng vẫn đang có nhiều vấn đề cần bàn
luận. Bài viết “Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam và
thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm
FECON” dưới đây trình bày một cách khái quát về tình hình áp dụng pháp luật
trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ở Công ty cổ phần kỹ thuật
nền móng và công trình ngầm FECON. Bài viết này bao gồm ba phần chính:
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa


Chương II: Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình
ngầm FECON
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA
I. Khái quát chung về hợp đồng
1. Khái niệm
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. (Điều 388 Bộ luật dân sự 2005).
Để quan hệ hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, cần tồn tại các
điều kiện sau:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
- Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
- Trong trường hợp pháp luật có quy định về hình thức giao dịch thì phải
tuân theo đúng hình thức đã quy định đó.
(Điều 122 Bộ luật dân sự 2005)
2. Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền
và nghĩa cụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Điều 402 Bộ luật dân sự quy định:
“Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội
dung sau đây:

1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm;
2. Số lượng, chất lượng;
3. Giá, phương thức thanh toán;
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên;
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
7. Phạt vi phạm hợp đồng;
8. Các nội dung khác.”
Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở hợp đồng
này các bên không cần thỏa thuận nhưung ở một hợp đồng khác, các bên lại
buộc phải thỏa thuận thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác, ngoài
những nội dung cụ thể này, các bên còn có thể thỏa thuận để xác định với nhau
thêm một số nội dung khác. Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội
dung của hợp đồng thành ba loại:
2.1. Điều khoản cơ bản
Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng. Đó là
những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không
thỏa thuận được những điều khoản đó, thì hợp đồng không thể giao kết được.
Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng hợp đồng quyết định hoặc do
pháp luật quy định. Tùy theo từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là
đối tượng, giá cả, địa điểm… có những điều khoản đương nhiên là điều khoản
cơ bản, vì không thỏa thuận tới nó sẽ không thể hình thành hợp đồng. Chẳng
hạn, điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán
tài sản. Ngoài ra, có những điều khoản mà vốn dĩ không phải là điều khoản cơ
bản nhưng các bên thấy cần phải thỏa thuận được điều khoản đó mới giao kết
hợp đồng thì những điều khoản này cũng là điều khoản cơ bản của hợp đồng sẽ

giao kết.
2.2. Điều khoản thông thường
Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp
đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như hai bên
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật đã định. Khác với điều
khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng tới quá trình
giao kết hợp đồng, các bên có thể không cần thỏa thuận và không cần ghi vào
văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã quy định nhưng các bên
vẫn phải thực hiện các điều khoản đó. Vì vậy, nếu có tranh chấp về những nội
dung này, thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng. Ví dụ: Địa điểm giao tài sản là động sản (đối tượng
của hợp đồng mua bán) là tại nơi cư trú của người mua (nếu trong hợp đồng, các
bên không thỏa thuận về địa điểm giao tài sản).
2.3. Điều khoản tùy nghi
Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận vì tính chất của hợp đồng và
những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các
bên còn có thể thỏa thuận để xác định thêm một số tài khoản khác nhằm làm cho
nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các điều khoản này được gọi là điều khoản
tùy nghi.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ
dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép
lựa chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho
thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều
khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường nhưng cũng có thể là điều

khoản tùy nghi. Chẳng hạn, địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản sẽ
là điều khoản cơ bản, nếu lúc giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về nơi giao
vật. Ngược lại, nó là điều khoản thông thường nếu các bên không thỏa thuận mà
mặc nhiên thừa nhận và thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt khác, địa
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa
thuận cho phép bên có nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện
nghĩa vụ giao vật.
Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta còn có thể phân
chúng thành hai loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác pháp
luật.
II. Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
1. Khái niệm
Hàng hóa theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người,
được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu mang tính xã
hội. Nhu cầu của con người phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hóa
cũng luôn phát triển phong phú và đa dạng. Dựa vào đặc trưng từng loại mà
hàng hóa được phân thành bất động sản (bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây
dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng
đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai) và động sản (là những tài sản không
phải là bất động sản) hay phân thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình(quyền
tài sản). Hàng hóa có thể là vật, là lao động của con người, là các quyền tài sản
mang tính vô hình. Luật thương mại 2005 quy định, hàng hóa bao gồm: a) Tất
cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) Những vật
gắn liền với đất đai. Khái niệm này đã được mở rộng so với quy định trong Luật
thương mại 1997, và đã bao gồm hầu hết các đối tượng thực tế được mua bán
trên thị trường.
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ

giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên
mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá
theo thỏa thuận(Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005).
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Pháp luật hợp đồng, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
là bộ phận quan trọng của pháp luật thương mại ở bất kỳ quốc gia nào. Trước
khi có Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 ra đời, pháp luật về hợp
đồng của Việt Nam nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý cao thấp khác nhau, thiếu tính hệ thống. Năm 2005 với sự ra đời của Bộ luật
dân sự, Luật thương mại cùng một số văn bản pháp luật quan trọng khác đã tạo
được sự thống nhất trong pháp luật hợp đồng, giải quyết các vấn đề chồng chéo
giữa các văn bản pháp luật, cụ thể là: Các hoạt động có tính chất thương mại,
nếu được quy định tại một luật riêng thì sẽ được điều chỉnh bởi luật đó; Các hoạt
động không được quy định trong luật riêng khác thì sẽ được điều chỉnh bởi Bộ
luật dân sự. (Điều 4 Luật thương mại 2005)
Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực, người tham gia giao kết hợp
đồng phải là đại diện hợp pháp của các bên liên quan. Đại diện hợp pháp có thể
là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền (bằng văn bản), được quy
định chi tiết trong Bộ luật dân sự 2005, điều 139 - 148 và trong các văn bản liên
quan đến từng loại chủ thể kinh doanh. Luật thương mại 1997 quy định chủ thể
của quan hệ mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc có một bên là thương
nhân. Điều luật này đã được bỏ vì nó trái với khái niệm hoạt động thương mại
và mua bán hàng hóa của Luật thương mại 2005.
2. Ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng
Khi xác lập một quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia
phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. (Điều 389 Bộ luật dân sự 2005, điều
10, điều 11 Luật thương mại 2005)

Thứ nhất là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Thương nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại. Trong
quá trình xác lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia đều
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bình đẳng, không được lấy bất cứ một lý do nào về sự khác biệt để đối xử không
bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình
thức sở hữu. Sự bình đẳng được thể hiện ở các điểm:
- Bình đẳng trong việc tham gia vào quan hệ hợp đồng không phụ thuộc
vào giới tính và các địa vị xã hội khác;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi hợp đồng được xác lập. Các bên
phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện,
thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên có
quyền.
Thứ hai là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận: Các bên tham gia có
quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong
mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hoạt động thương mại; các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực
hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi cam kết, thỏa
thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị coi là vô hiệu.
2.2. Hình thức hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Việc lựa chọn hình thức giao kết hợp
đồng là do các bên giao kết hợp đồng tự lựa chọn trừ trường hợp đối với các loại
hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản
thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 24 Luật thương mại 2005).
2.3. Thủ tục ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
2.3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:

* Khái niệm: Ðề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người
về việc mong muốn giao kết hợp đồng với một người khác trên một đối tượng
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và trong những điều kiện đã được người đề nghị xác định rõ. Ðề nghị được gửi
đến một người đối tác xác định cụ thể.
* Hình thức đề nghị: Luật Việt Nam hiện hành không có quy định riêng về
hình thức đề nghị. Vậy, việc đề nghị tuân thủ các quy định chung về hình thức
giao dịch: đề nghị có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể. Ngay cả trong trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một
hình thức nhất định, thì đề nghị giao kết cũng có thể được ghi nhận dưới hình
thức khác
* Tính chất của đề nghị giao kết hợp đồng: Ðề nghị giao kết hợp đồng sẽ
trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo các điều
kiện được đưa ra trong đề nghị đó. Bởi vậy:
- Ðề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, nghĩa là phải thể hiện ý chí
dứt khoát của người đề nghị: hợp đồng sẽ phải được người đề nghị giao kết nếu
lời đề nghị được chấp nhận. Không có tính chất này, thì cái gọi là đề nghị giao
kết hợp đồng thực ra chỉ là một lời mời thương lượng
- Ðề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, nghĩa là phải ghi nhận
tất cả các nội dung chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có thể được giao kết chỉ
trên cơ sở tuyên bố chấp nhận giao kết của người được đề nghị.
* Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời gian chưa có sự chấp nhận đề
nghị: Chừng nào đề nghị giao kết hợp đồng chưa được chấp nhận, thì hợp đồng
chưa được giao kết. Tuy nhiên, theo Bộ luật dân sự 2005 - Ðiều 390, khi một
bên đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời
hạn trả lời, thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời
và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.
Trường hợp người được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có

nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 395). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị được đưa ra
trước không còn hiệu lực.
2.3.2. Chấp nhận đề nghị
* Khái niệm: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên
được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị.
* Sự im lặng: Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa
thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận (Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 404 khoản 2).
Cần lưu ý câu chữ của luật: nếu có thỏa thuận.... Một người gửi một đề nghị cho
người khác và ghi rõ trong đề nghị rằng nếu người nhận đề nghị im lặng, thì hết
thời hạn trả lời, người này coi như chấp nhận giao kết hợp đồng. Ðiều kiện đó
hoàn toàn vô nghĩa nếu người nhận được đề nghị, trong thời hạn trả lời, không
xác nhận với người đề nghị về việc chấp nhận điều kiện. Một người nhận được
một đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời và báo cho người đề nghị biết rằng nếu hết
thời hạn đó mà người nhận đề nghị vẫn im lặng, thì coi như người này chấp
nhận đề nghị: trong trường hợp này, sự im lặng trở thành hình thức diễn đạt sự
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo sự thỏa thuận giữa hai bên liên
quan.
* Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Việc chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng, cũng như việc đề nghị, không ràng buộc người bày tỏ
ý chí chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thông tin cho người đối tác: người
chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời chấp nhận trong trường hợp người đề nghị
chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng, khác với đề nghị, chấp nhận đề nghị, một
khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ không thể được rút lại hay thay đổi theo
ý chí đơn phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề

nghị được gửi trễ hạn và trở thành một đề nghị mới (Ðiều 397 khoản 1).
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự chấp nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời hạn trả
lời có tác dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về việc xác lập hợp đồng.
2.4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật thương mại 1997 quy định “Hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Tên hàng;
- Số lượng;
- Quy cách, chất lượng;
- Giá cả;
- Phương thức thanh toán;
- Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng.
Ngoài các nội dung chủ yếu quy định tại Điều này, các bên có thể thoả
thuận các nội dung khác trong hợp đồng.”
Luật thương mại 2005 đã bỏ quy định này do không cần thiết phải bắt
buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung nhất định. Hơn nữa, quy định này
có thể gây ra nhiều hợp đồng vô hiệu ngoài mong muốn của các bên. Điều này
cũng cho thấy Luật thương mại 2005 đã thực hiện nguyên tắc tự do, tự nguyện
thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Quyền tự do giao kết và thỏa thuận hợp
đồng được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại điều 57 Hiến pháp 1992, điều 4, điều
388 Bộ luật dân sự 2005. Như vậy, không những được tự do lựa chọn bạn hàng,
các chủ thể kinh doanh còn được tự do thỏa thuận những nội dung trong hợp
đồng phù hợp với quy định của pháp luật, được thỏa thuận tất cả những gì mà
pháp luật không cấm. Tùy thuộc vào từng loại hàng hóa, quy mô của quan hệ
mua bán cũng như các điều kiện khác mà các bên thỏa thuận chi tiết những
quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cụ thể. Các quy định của pháp luật
thương mại liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ có chức năng xác

định những chuẩn mực chung nhất trong quan hệ giữa người mua, người bán và
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các bên liên quan, dựa vào đó các bên cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong trường hợp không có thỏa thuận, cơ quan tài phán có thể dựa vào đó mà
xác định quyền và nghĩa vụ cho các bên.
Tuy vậy, để Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì mục đích và nội
dung các thỏa thuận trong Hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Ví dụ: hàng hóa mà các bên mua bán không phải là hàng cấm kinh doanh
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh hiện
nay được quy định trong Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính
phủ.
III. Chế độ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Sau khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
bắt buộc đối với các bên (Điều 4 Bộ luật dân sự 2005). Hợp đồng khi đó trở
thành “luật”, các bên phải tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận, nếu
không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của
pháp luật (Điều 7 Bộ luật dân sự 2005).
Trong quá trình thực hiện Hợp đông mua bán hàng hóa, các bên phải tuân
thủ những nguyên tắc sau:
* Thực hiện hợp đồng một các trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi
nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
Tham gia hợp đồng là tự nguyện ràng buộc vào các nghĩa vụ. Các nghĩa
vụ càng phức tạp và mang tính tổng thể thì cách thỏa thuận càng chi tiết nhằm
dự liệu việc điều chỉnh các tình huống có thể xảy ra. Song dù có thỏa thuận chi
tiết đến đâu, vào thời điểm ký kết, người soạn thảo hợp đồng cũng không thể
lường trước được tất cả những tình huống có thể xảy ra, ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện hợp đồng sau này. Do vậy, để việc thực hiện hợp đồng diễn ra

phù hợp với lợi ích của các bên đối tác, các bên cần có nghĩa vụ thông báo cho
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhau những thông tin liên quan, hợp tác chặt chẽ, thương lượng, hòa giải tìm các
biện pháp thỏa đáng đế giải quyết những vấn đề mới xuất hiện (ví dụ điều chỉnh
lại thời điểm giao hàng, điều chỉnh lại giá, xử lý hàng kém phẩm chất…).
* Thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác.
Hợp đồng sau khi được giao kết hợp pháp thì phải được thực hiện. Người
bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và
nhận tiền, người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa
thuận. Các nghĩa vụ này phải được thực hiện đúng và đầy đủ.
* Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 412 Bộ luật dân sự 2005).
Các bên không những có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các thỏa
thuận trong Hợp đồng mua bán hàng hóa, mà khi thực hiện các nghĩa vụ đó
không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên thứ ba. Trong mua bán hàng hóa, nguyên tắc này
được thể hiện ở chỗ, bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu của bên mua
đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; Hàng hóa đó phải
hợp pháp; Việc chuyển giao hàng hoá là hợp pháp (Điều 45 Luật thương mại
2005).
2. Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1. Nghĩa vụ giao hàng của người bán
Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số
lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp
đồng (Điều 24 Luật thương mại 2005). Nói một cách khái quát nhất, nghĩa vụ
giao hàng của người bán được thực hiện, nếu người bán đã thực hiện tất cả các
hành vi cần thiết để hàng hóa được chuyển sang cho người mua tự do định đoạt.

Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.1 Giao đúng loại hàng:
Người bán không được giao các loại hàng khác hoặc thực hiện các nghĩa
vụ khác thay thế các loại hàng đã thỏa thuận, nếu bên mua không chấp nhận. Để
tránh tranh chấp về loại hàng, điều khoản tên hàng trong Hợp đồng mua bán
hàng hóa cần được soạn thảo chi tiết: Tên hàng thường được ghi bằng một danh
từ thông dụng và rõ nghĩa nhất, nếu có nguy cơ danh từ đó có thể hiểu theo
nhiều nghĩa không đồng nhất, thì kèm theo tên hàng cần ghi thêm tên khoa học,
công dụng, chức năng và mục đích sử dụng, nơi sản xuất, nguồn gốc, nhãn hiệu
của hàng hóa. Nếu hàng hóa được giao không đúng chủng loại, không phù hợp
với hợp đồng, hầu quả pháp lý được quy định tại Điều 68 Luật thương mại 1997,
điều luật này (đáng ra là một quy định cụ thể, phù hợp với những đặc thù của
quan hệ mua bán thương mại) lại chung chung hơn cả Điều 430 của Bộ luật dân
sự 1995. Bất cập này đã được sửa chữa bằng Điều 40 Luật thương mại 2005.
Theo quy định đó, khi hàng hóa được giao không đúng chủng loại: “Trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác, trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp
với hợp đồng được quy định như sau:
- Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng
hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về
những khiếm khuyết đó;
- Trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn khiếu nại
theo quy định của Luật này, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm
khuyết nào của hàng hoá đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả
trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro;
- Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh
sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp
đồng.”
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giao hàng đúng số lượng: Tùy theo đặc điểm của hàng hóa, các bên thỏa
thuận cụ thể số lượng, đơn vị đo lường, cách thức đo lường (ví dụ trọng lượng
tịnh, trọng lượng cả bì), mức độ dung sai, mức độ hao hụt tự nhiên. Hậu quả
pháp lý của việc giao hàng thừa hoặc giao hàng thiếu được quy định tại Điều 41,
43 Luật thương mại 2005: “Trường hợp bên bán giao thừa hàng thì bên mua có
quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng thừa đó; Trường hợp bên mua chấp nhận
số hàng thừa thì phải thanh toán theo giá thoả thuận trong hợp đồng nếu các bên
không có thoả thuận khác.”
2.1.2. Giao hàng đúng địa điểm:
Việc giao hàng có thể được tiến hành tại cửa hàng, tại nơi sản xuất, tại trụ
sở của người bán, tại trụ sở của người mua hay một địa điểm bất kỳ nào mà các
bên thỏa thuận. “Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa
điểm giao hàng được xác định như sau:
a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
hàng tại nơi có hàng hoá đó;
b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì
bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng
hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa
hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải
giao hàng tại địa điểm đó;
d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh
doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi
cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.”
(Điều 35 Luật thương mại 2005)
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Điều luật này đã xóa bỏ phần nào sự cứng nhắc của Luật thương mại 1997
quy định nếu không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì hợp đồng được coi
như là chưa giao kết.
2.1.3. Giao hàng đúng thời hạn:
Tương tự như vậy thời hạn giao hàng theo quy định của Luật thương mại
1997 cũng thuộc những nội dung chủ yếu của Hợp đồng mua bán hàng hóa, mà
nếu thiếu thỏa thuận về nó trong hợp đồng sẽ được coi như là chưa giao kết,
Điều 50 Luật thương mại 1997. Luật thương mại 2005 quy định trường hợp
không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một
thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng(Điều 37). Tùy theo từng loại hàng,
các bên có thể thỏa thuận hàng được giao toàn bộ hoặc từng phần theo lịch trình
nhất định.
Nếu người bán hàng giao hàng sau thời hạn thỏa thuận, tùy vào từng loại
hàng khác nhau mà hậu quả pháp lý cũng khác nhau. Nếu hàng hóa được dùng
cho một thời điểm nhất định mà sau thời điểm đó trở nên không cần thiết nữa (ví
dụ bánh kẹo, đồ chơi phục vụ trực tiếp cho trẻ em dịp Tết Trung Thu, hàng hóa
đặc biệt phục vụ cho lễ Noel, cho Tết Nguyên Đán); bên mua có quyền từ chối
tiếp nhận hàng giao chậm và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong những trường
hợp khác, bên mua thường gia hạn hợp lý để bên bán có thể thực hiện được
nghĩa vụ giao hàng và yêu cầu bên bán đền bù thiệt hại hoặc trả phạt hợp đồng
theo quy định liên quan đến trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng.
2.1.4. Giao hàng đúng phương thức:
Tùy theo tính chất, quy mô và các điều kiện cụ thể mà các bên thỏa thuận
cụ thể về phương thức giao hàng. Hàng có thể được giao trực tiếp cho người
mua tại trụ sở, nơi bán hoặc nơi sản xuất của người bán, được giao cho người
vận chuyển là chủ phương tiện vận chuyển như đường sắt, đường thủy, đường
bộ, đường hàng không. Phương thức giao hàng (bằng phương tiện gì, bên nào
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368

chịu cước phí vận chuyển và rủi ro khi hàng hóa thất thoát hư hỏng) là một trong
những điều kiện cơ sở giao hàng, quyết định trực tiếp đến giá bán hàng hóa, cho
nên thường được bên bán ấn định trước hoặc thỏa thuận chi tiết với bên mua.
2.1.5. Giao hàng đúng chất lượng:
Người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua đúng chất lượng đã thỏa
thuận.
Giao hàng đúng quy cách, bao bì: Tuy không phải là chất lượng song quy
cách, bao bì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phảm và khả năng tiêu thụ
của hàng hóa. Nếu không được quy định cụ thể thì người bán phải giao hàng với
bao bì thường dùng cho loại hàng này, đảm bảo an toàn, có tính đến khả năng
chuyển tải trong điều kiện bốc dỡ vận chuyển thông thường phù hợp với thời
gian và phương tiện vận tải.
2.2. Quyền kiểm tra và “trách nhiệm” thông báo về hàng hóa không phù hợp
với hợp đồng của người mua
Người mua hoặc đại diện của người mua có quyền tham dự việc kiểm tra
chất lượng hàng hóa trước khi giao hàng, nêu các bên có thỏa thuận. Sau khi
được thông báo mời dự kiểm tra mà người mua vắng mặt thì người bán có quyền
giao hàng theo thỏa thuận.
Sau khi hàng được vận chuyển đến nơi giao hàng, người mua có quyền
kiểm tra hàng trong một thời hạn hợp lý. Tùy theo đặc tính của từng loại hàng
mà thời hạn và cách thức kiểm tra cũng khác nhau. (điều 44 Luật thương mại
2005)
Người mua phải khẩn trương kiểm tra hàng trong một thời gian hợp lý,
nếu phát hiện thấy hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì kịp thời thông báo
cho người bán. Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết
của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng

hoá.
2.3. Chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro
Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận
khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng
hóa được chuyển giao. (Điều 62 Luật thương mại 2005)
Về nguyên tắc, địa điểm và thời gian quyền sở hữu hàng hóa được chuyển
từ người bán sang người mua do các bên tự do thỏa thuận. Bên bán thường ràng
buộc việc chuyển giao quyền sở hữu với điều kiện bên mua đã thanh toán đầy đủ
tiền hàng. Trong trường hợp này thời điểm chuyển quyền sở hữu có thể không
đồng nhất với thời điểm giao hàng. Chỉ khi các bên không thỏa thuận và pháp
luật không quy định thì quy định của điều 62 Luật thương mại 2005 mới được
áp dụng. Khi đó thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm giao hàng.
Gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu là trách nhiệm gánh chịu rủi
ro đối với hàng hóa (ví dụ hàng thất thoát, hư hỏng, tiêu hao trên đường vận
chuyển hoặc lưu kho). Vấn đề chuyển rủi ro được quy định từ điều 57 đến điều
61 Luật thương mại 2005.
Nếu hàng hóa đã sẵn sàng để chuyển giao, song người mua chậm thực
hiện nghĩa vụ nhận hàng, thì phải bồi thường thiệt hại cho người bán và phải
chịu mọi rủi to xảy ra kể từ thời điểm chậm tiếp nhận hàng, nếu trong hợp đồng
các bên không có thỏa thuận khác. Trường hợp này được gọi là rủi ro chuyển
sớm, tương tự như quy định của điều 69 Công ước Viên 1980.
2.4. Nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán của người mua
Nếu việc giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản
của người bán thì nhận hàng và thanh toán tiền mua hàng là nghĩa vụ cơ bản
tương xứng của người mua.
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhận hàng là một nghĩa vụ pháp lý của người mua mà việc vi phạm nghĩa
vụ đó có thể kéo theo một số hậy quả pháp lý được quy định trong Luật thương

mại. Nếu người bán đã sẵn sàng giao hàng mà người mua không nhận thì người
bán phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo quản tài sản và yêu
cầu bên mua thanh toán chi phí hợp lý. Người mua phải chịu rủi to từ thời điểm
chậm tiếp nhận hàng. Luật thương mại 2005 đã bổ sung điều 56 về nghĩa vụ
nhận hàng của bên mua nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên bán: “Bên mua có nghĩa
vụ nhận hàng theo thoả thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên
bán giao hàng.”
Người mua phải thanh toán tiền mua hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Nếu người mua chậm thanh toán tiền thì người bán có quyền đòi tiền lãi trên số
tiền trả chậm theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy
định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả. Nếu các bên
không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không quy định khác.
2.5. Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của người bán, người mua
Nếu có bằng chứng về việc một bên có hành vi lừa dối hoặc không có khả
năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ, thì bên kia có quyền đình chỉ việc thực hiện
nghĩa vụ tương ứng của mình. (Điều 415 Bộ luật dân sự 2005)
Điều 51 Luật thương mại quy định cụ thể về quyền ngừng thanh toán tiền
mua hàng của bên mua: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, việc ngừng thanh
toán tiền mua hàng được quy định như sau:
1. Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm
ngừng việc thanh toán;
2. Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh
chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được
giải quyết;
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp
với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc
phục sự không phù hợp đó;

4. Trường hợp tạm ngừng thanh toán theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này mà bằng chứng do bên mua đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho
bên bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo
quy định của Luật này.”
IV. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trách nhiệm pháp lý thường được hiểu là sự áp dụng chế tài cho một chủ
thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ nhất định. Trong
quan hệ hợp đồng, nếu vi phạm nghĩa vụ, bên vi phạm phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi mang tính vật chất, chính vì vậy thuật ngữ trách nhiệm vật chất khi vi
phạm hợp đồng được sử dụng rộng rãi. Điều kiện để xuất hiện trách nhiệm vật
chất trước hết là sự vi phạm hợp đồng, được hiểu là không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng.
Căn cứ để xác định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng đó là hành vi vi
phạm hợp đồng; thiệt hại; mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng
và thiệt hại xảy ra; lỗi.
Xác định thiệt hại: việc xác định thiệt hại là nhiệm vụ của bên bị vi
phạm.Bên bị vi phạm phải có nhiệm vụ xác định xem bên vi phạm đã không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nội dung hợp đồng như thế
nào và phải chứng minh là đã có thiệt hại xảy ra đối với mình.
Thiệt hại xảy ra đối với bên bị vi phạm phải là thiệt hại về tài sản và là
thiệt hại có thực, có thể tính toán được. Cụ thể hơn, những thiệt hại có thực tức
là những thiệt hại cho bên bị vi phạm được tính toán dựa trên:
- Tổn thất: mất mát có thực về mặt tài sản do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chi phí: những chi phí hay những khoản bên bị vi phạm đã phải chi thêm
ra để ngăn ngừa hạn chế thiệt hại (chi phí hợp lý).
- Thất thu: những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ và những mất

mát trực tiếp ( bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại một cách xác
đáng).
Bên bị vi phạm cần phải chứng minh mình đã tiến hành những biện pháp
cần thiết mà mình có thể làm được để ngăn ngừa hạn chế thiệt hại.
Bên bị vi phạm cũng được tính vào thiệt hại những khoản bồi thường thiệt
hại cho bên thứ ba mà vốn là hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng này
gây ra.
Mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra:
hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân tất yếu của thiệt hại và thiệt hại phải
là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Tức là hành vi vi phạm hợp
đồng và thiệt hại phải có mối quan hệ nhân quả với nhau
Lỗi: Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đã thực hiện đối với hành vi bị coi
là trái pháp luật cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi có thể là lỗi vô ý
hoặc cố ý. Lỗi trong các quan hệ thương mại cũng giống như lỗi trong các quan
hệ pháp luật dân sự là lỗi suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng đã kí kết thì
pháp luật suy ra bên vi phạm là có lỗi, muốn được coi là không có lỗi, không
phải chịu trách nhiệm thì bên vi phạm phải tự chứng minh được là mình không
có lỗi.
Tùy theo từng loại nghĩa vụ hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận hoặc bên
bị vi phạm có thể lựa chọn các loại chế tài sau đây:
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được
thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không
đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả
thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch

vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch
vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi
phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để
thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.
Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của
người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và
bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có
quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm
phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù
lao dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại
khoản 2 Điều này.
Trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên
mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy
định trong hợp đồng và trong Luật này.
2. Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản
tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường
hợp miễn trách nhiệm đã được quy định.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại
bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi

phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Có thiệt hại thực tế;
- Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Để được bồi thường thiệt hại, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng
minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp
mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn
chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp
dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị
bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
Một điểm khác biệt quan trọng của Luật thương mại 2005 so với Luật
thương mại 1997 là mối quan hệm giữa chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài
phạt vi phạm. Luật thương mại 1997 quy định “Trong trường hợp các bên không
có thoả thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai
chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi
phạm.” Luật thương mại 2005 bổ sung thêm: “1. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. 2. Trường hợp các bên có
thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”
Theo quy định mới, chế tài bồi thường thiệt hại luôn được áp dụng khi có vi
phạm hợp đồng còn chế tài phạt vi phạm chỉ áp dụng khi có thỏa thuận phạt vi
phạm và mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

4. Tạm ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện, hủy hợp đồng
(Điều 308 - 315 Luật thương mại 2005)
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực và
bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
này.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình
chỉ hợp đồng;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm
một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh
toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần
hợp đồng: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất
cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; Hủy bỏ một phần hợp đồng
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp
đồng vẫn còn hiệu lực. Chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường
hợp sau đây (Điều 312 Luật thương mại 2005):
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ

hợp đồng;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu
một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch
vụ và việc này cấu thành một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ứng
dịch vụ đó thì bên kia có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng,
cung ứng dịch vụ. (Điều 313 Luật thương mại 2005)
Sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao
kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về
giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần
nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì
nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả
bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật (Điều
314 Luật thương mại 2005)
Bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ
bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc tạm ngừng, đình chỉ
hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt
hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp
đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại.(Điều 315 Luật thương
mại 2005)
Lại Cẩm Linh Luật kinh doanh K45
25

×