Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của việt nam trong tiến trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.51 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------------------

Trịnh Thế Phương

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH THỰC
HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO

LUẬN VĂN THẠC SĨ: LUẬT HỌC

Hà Nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------------------

Trịnh Thế Phương

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH THỰC
HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số:

60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.GVC: Nguyễn Lan Nguyên

Hà Nội - 2008


MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
LỜI CAM ĐOAN
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành KDBH trên thế giới
1.1.1. Lịch sử hình thành
1.1.2. Sự phát triển của ngành KDBH thế giới
1.1.3. Sự hình thành và phát triển ngành KDBH tại Việt Nam
1.2. Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản trong KDBH
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Một số thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
1.2.4. Các loại hình bảo hiểm
1.2.5. Các hình thức kinh doanh bảo hiểm
1.3. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
1.3.1. Nhanh chóng bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất gây ra cho đối tượng
thụ hưởng bảo hiểm khi gặp rủi ro được bảo hiểm

1.3.2. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra trong sinh
hoạt, sản xuất kinh doanh
1.3.3. Là kênh huy động vốn lớn để đầu tư trở lại nền kinh tế quốc dân
1.3.4. Ngành bảo hiểm góp phần hỗ trợ các khoản chi ngân sách nhà nước
cho nền kinh tế
1.3.5. Tạo tâm lý an tâm của tổ chức, cá nhân khi tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những ngành nghề có hệ số rủi ro cao khi đã
thực hiện việc mua bảo hiểm
1.3.6. Góp phần đảm bảo an toàn vốn cho các ngành kinh tế khác, có khả
năng phục hồi nhanh sau khi xảy ra các thiệt hại
Kết luận chương 1:
Chương 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
2.1 Quy định pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm
2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật
2.1.2. Nguyên tắc áp dụng luật
2.1.3. Chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm
2.1.4. Hoạt động của DNBH
2.1.5. Cơ cấu tổ chức DNBH
2.1.6. Đầu tư vốn của DNBH
2.1.7. Kiểm soát đối với DNBH mất khả năng thanh toán
1


2.1.8. Hợp đồng bảo hiểm
2.1.9. Giải thể, phá sản, thu hồi giấy phép hoạt động
2.2. Tác động của việc gia nhập WTO đến tổ chức và hoạt động kinh
doanh bảo hiểm tại Việt Nam
2.2.1. Nguyên tắc pháp lý nền tảng của WTO

2.2.2. Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam lĩnh vực bảo hiểm
2.2.3. Tác động của cam kết gia nhập WTO vào ngành kinh doanh bảo hiểm
Việt Nam
2.2.4. Phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam sau 2 năm gia
nhập WTO
2.3. Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về tổ chức, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm hiện nay
2.3.1. Cam kết gia nhập WTO ngành kinh doanh bảo hiểm phát sinh sự kiện
pháp lý mới chưa được pháp luật điều chỉnh
2.3.2. Một số quy định của pháp luật chưa có văn bản hướng dẫn triển khai
thực hiện
2.3.3. Điều kiện để DNBH nước ngoài đầu tư thành lập DNBH tại Việt Nam
thấp hơn so với tiêu chuẩn một số nước thành viên WTO
2.3.4. Quy định ràng buộc trách nhiệm của DNBH tham gia hoạt động đầu
tư chưa chặt chẽ
2.3.5. Bảo hiểm tương hỗ là một định chế phục vụ nhu cầu bảo hiểm của
người có thu nhập thấp chưa được chú trọng triển khai thực hiện một cách có
hiệu quả
2.3.6. Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong KDBH mức phạt còn nhẹ,
chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm
2.3.7. Một số quy định, thuật ngữ pháp lý chưa được giải thích, hướng dẫn
cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các DNBH
2.3.8. LKDBH còn chứa đựng những nội dung không còn hiệu lực thi hành
trên thực tế
Kết luận chương 2
Chương 3: TIẾP TỤC VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM
3.1. Kinh nghiệm phát triển ngành bảo hiểm của EU và Trung Quốc
3.1.1. Kinh nghiệm phát triển ngành KDBH các nước thuộc khối liên minh
Châu Âu (EU)

3.1.2. Kinh nghiệm phát triển bảo hiểm ở Trung Quốc
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bảo hiểm
3.2.1. Cơ sở xây dựng và hoàn thiện pháp luật
3.2.2. Một số điểm cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm
3.3. Giải pháp thực hiện
3.3.1. Về phía Nhà nước
3.3.2. Về phía Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
3.3.3. Về phía các DNBH

2


Kết luận chương 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt
BH
DN
DNBH
LKDBH
ASEAN
EU
IAIS

WTO


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
I. DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng,
biểu
Bảng 1.1
Bảng 1.2
Bảng 2.1
Bảng 3.1
II. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên bảng,
biểu
Biểu đồ 2.1
Biểu đồ 2.2
Biểu đồ 2.3
Biểu đồ 2.4
Biểu đồ 3.1


MỞ ĐẦU
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề
tài a. Về lý luận
Ngày 11.01.2007, Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại thế
giới (Word Trade Organization - WTO) kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ
chức này. Đây là kết quả đánh dấu sự thành công của Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế, sự cố gắng nỗ lực của Việt Nam trong quá trình đàm phán với
tổ chức WTO và với các nước thành viên; đồng thời cũng chứng tỏ thành quả
của chúng ta trong phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, tăng trưởng kinh

tế sau hơn 20 năm đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường.
Gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam một cơ hội lớn trong giao thương,
hợp tác phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các
quy định ưu đãi dành cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam, cơ chế
giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, hệ thống các nguyên tắc như nguyên
tắc ưu đãi tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, công khai minh bạch… là những thuận
lợi cơ bản cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ
gặp nhiều khó khăn thách thức trên hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh. Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, đề ra các giải pháp hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa thúc đẩy
ngành sản xuất, dịch vụ trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh với
nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư chính đáng vào hoạt động tại Việt Nam.
Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một phần không
tách rời trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy
nhiên, nó cũng có những điểm khác biệt so với các ngành khác do những nét đặc
thù riêng của ngành bảo hiểm. Theo phân loại của WTO thì bảo hiểm là một
trong ba phân ngành lớn của dịch vụ tài chính và thuộc ngành nhậy cảm của nền
kinh tế. Chính vì vậy, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, lĩnh vực dịch vụ

1


bảo hiểm là một trong những lĩnh vực được các nước thành viên quan tâm và
yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nguyên nhân chính vì đây là ngành có thế mạnh của các nước phát triển, tiềm
năng khai thác thị trường bảo hiểm tại Việt Nam còn rất lớn, nhất là trong điều
kiện nền kinh tế tiếp tục có bước tăng trưởng tốt như hiện nay.
Kết quả đàm phán của Việt Nam đã đưa ra các cam kết được coi là ưu
đãi hơn nhiều so với các thành viên khác (ngay cả Campuchia là nước kém

phát triển hơn Việt Nam cũng chấp nhận cam kết mở cửa tự do hơn). Từ kết
quả đàm phán đó chúng ta có những thuận lợi cơ bản đó là:
-

Lộ trình thực thi các cam kết cũng như những gì chúng ta đã chuẩn bị

trước đó giúp các công ty bảo hiểm trong nước chủ động tổ chức, sắp xếp lại
hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối tác nước ngoài.
-

Việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam sẽ

làm cho thị trường sôi động hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
người tham gia bảo hiểm.
-

Công ty bảo hiểm trong nước có cơ hội học hỏi, nâng cao năng lực

quản lý và điều hành của các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới khi tham gia
cùng hợp tác đầu tư.
Bên cạnh đó cũng có những khó khăn hạn chế cho các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước đó là:
-

Thế mạnh về kinh doanh bảo hiểm của các nước phát triển là áp lực

cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước.
-

Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm, vì sự thâm nhập thị


trường Việt Nam kèm theo đó là việc các công ty nước ngoài thu hút nhân lực
có kinh nghiệm đang làm việc tại Việt Nam.
-

Thị trường với sự có mặt của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư

nước ngoài là sức ép đối với các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực này, bao
gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, khả năng giải quyết

2


tranh chấp, thị trường bị chia cắt là vấn đề khó khăn trong việc ngăn ngừa rủi
ro mang tính hệ thống.
b. Về thực tiễn
Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Việt Nam được quy định
chủ yếu trong LKDBH và một số Luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật hàng
hải, Luật hàng không dân dụng, Luật giao thông đường thuỷ nội địa và các
văn bản hướng dẫn thi hành thời gian qua đã góp phần ổn định và phát triển
thị trường bảo hiểm trong nước. Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ bảo hiểm
đạt 23%/năm. Tính đến tháng 6/2008, toàn thị trường đã có 41 DN hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm, gồm 23 DN bảo hiểm phi nhân thọ, 9 DN bảo hiểm
nhân thọ, 8 DN môi giới bảo hiểm và 1 DN tái bảo hiểm. Nhiều DNBH nước
ngoài được thành lập và hoạt động như AIG (Mỹ), Prevoir (Pháp), ACE life
(Mỹ), NewJork life (Mỹ), Daiichi (Nhật Bản). Phạm vi hoạt động của các DN
chủ yếu trên thị trường nội địa, doanh thu xuất khẩu các dịch vụ không cao,
đạt khoảng 0,5 triệu USD, chủ yếu là dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu và
tái bảo hiểm [45].
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã cho phép thành lập các doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài hoạt động từ trước khi chúng ta thực hiện cam kết gia
nhập WTO. Nhưng theo cam kết gia nhập WTO, phương thức kinh doanh bảo
hiểm không chỉ đơn thuần là thành lập các DNBH tại thị trường nội địa mà
còn có những phương thức kinh doanh khác như hoạt động của các chi nhánh,
cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới mà không có sự hiện diện của các
DN tại Việt Nam. Những phương thức mới đó hiện nay chưa phát triển mạnh
và chúng ta cũng chưa có cơ chế để điều chỉnh, giám sát. Bên cạnh đó, tác
động của hội nhập làm cho các DN đẩy nhanh cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị
trường. Chất lượng đang bị xếp thứ hai sau số lượng. Đằng sau sự cạnh tranh
là sự vi phạm các cam kết của các DNBH với nhau, vi phạm các quy định về
cạnh tranh của pháp luật.

3


Nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế điều chỉnh của
pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 đề ra chương trình hành động trong
thời gian tới, trong đó nêu: “Ngành tài chính cần phải điều chỉnh bổ sung các
quy định về điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng,
bảo hiểm, quỹ đầu tư và các dịch vụ tài chính khác, phù hợp với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao khả năng dự báo, phòng ngừa, giảm
thiểu các rủi ro và bất ổn có thể xảy ra, bảo đảm sự phát triển lành mạnh,
hiệu quả của thị trường tài chính tiền tệ”.
Tháng 3/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 45, 46 sửa đổi Nghị
định 42, 43 năm 2001 hướng dẫn LKDBH. Đồng thời Bộ Tài chính cũng đã
có các Thông tư, Quyết định triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới, phù hợp
với cam kết gia nhập WTO. Tuy nhiên, trước sức ép phát triển của thị trường
tài chính hiện nay cũng như so sánh với các chuẩn mực quốc tế chúng ta vẫn
còn nhiều hạn chế, tồn tại. Để tạo đà cho sự phát triển, phát huy thế mạnh hiện

có của các doanh nghiệp trong nước yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, đủ mạnh để kiểm soát được hoạt động đa dạng
của các DNBH, tạo điều kiện để các DN cạnh tranh lành mạnh. Đảm bảo
quyền lợi của người tiêu dùng các sản phẩm bảo hiểm. Việc nghiên cứu và
tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện luật kinh doanh bảo hiểm là yêu cầu hết
sức cấp thiết.
Để góp phần trong việc nghiên cứu, đưa ra các định hướng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong thời gian tới,
tác giả chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các
cam kết gia nhập WTO”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài
được chia thành 3 chương gồm:

4


Chƣơng 1. Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
Chƣơng 2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
Chƣơng 3. Tiếp tục việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2. Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu, cung cấp cho người đọc
những kiến thức pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
Việt Nam hiện hành và định hướng hoàn thiện do tác động của cơ chế hội
nhập cũng như đáp ứng sự phát triển của kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra là:
Nghiên cứu các quy định của WTO liên quan đến ngành
KDBH.

-

Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về tổ chức và hoạt động

kinh doanh bảo hiểm.
-

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển ngành bảo hiểm trên thế

giới, tình hình phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam hiện nay,
thực trạng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Từ đó đề ra các giải pháp hoàn
thiện trong thời gian tới. Đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường này cũng
như các cam kết gia nhập WTO.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các loại hình
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam; không bao gồm các tổ chức bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm do Nhà nước thực
hiện không nhằm mục đích kinh doanh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thị trường bảo hiểm các khu vực trên
thế giới, kinh nghiệm pháp luật của các nước EU và Trung Quốc, so sánh đối

5


chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam. Tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt, đánh giá vị trí ngành bảo hiểm Việt Nam so với
thế giới và khu vực. Sử dụng kết hợp các phương pháp tổng hợp, thống kê, so
sánh, phân tích để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề. Dùng phương pháp
suy luận và tư duy biện chứng để đưa ra các đề xuất mang tính định hướng về

pháp luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam.

6


Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH BẢO HIỂM *******************
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm trên
thế giới:
1.1.1. Lịch sử hình thành:
Ngay nay, bảo hiểm là một ngành kinh doanh chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, các Công ty bảo hiểm có quy mô và phạm vi hoạt
động rất rộng với bề dầy lịch sử tồn tại và phát triển. Đặc biệt đối với các
nước phát triển, có những Công ty bảo hiểm đã tồn tại và phát triển hàng trăm
năm, đảm nhận trách nhiệm bảo hiểm, tái bảo hiểm cho nhiều Công ty lớn
khác ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa ai có thể xác
định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm bắt đầu từ bao giờ. Nhưng một điều
không thể phủ nhận đó là các hoạt động sơ khai, mang tính bảo hiểm đã có từ
rất lâu. Các hoạt động đó nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc sống con người
ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển
của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về quy mô, mức
độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cũng
phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần dần được tổ chức ngày
càng có quy chuẩn và chuyên nghiệp hơn, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa các
đối tượng tham gia hoạt động này và có tên gọi chung là bảo hiểm.
Đúc rút từ quá trình hình thành và phát triển của hoạt động của con
người mang bản chất của hoạt động bảo hiểm, các nhà nghiên cứu chia hình
thái bảo hiểm trong lịch sử phát triển thành 3 giai đoạn cơ bản đó là: Dự trữ
thuần túy, cho vay nặng lãi và thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm các bên.


7


1.1.1.1. Dự trữ thuần túy:
Xuất hiện từ thời Cổ đại, khi người nông dân nhận thấy rằng đôi khi xảy
ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân thu hoạch mùa màng.
Mặc dù mỗi hộ dân có thể tự dự phòng cho gia đình họ, nhưng họ sớm nhận
ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi người có
khả năng sẽ đóng vào một khoản nhỏ những năm được mùa, khi giá lương
thực xuống thấp. Và khi xảy ra các rủi ro làm giá lương thực lên cao, kho dự
trữ sẽ thực hiện việc cấp lương thực cho các hộ dân, góp phần ổn định được
đời sống trong cộng đồng dân cư. Hoặc điển hình như vào những năm 2.500
trước công nguyên (TCN), ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập
quỹ để giúp đỡ những người trong hội bị tai nạn.
Trong hình thái này, giữa các chủ thể tham gia không nhằm mục đích
lợi nhuận mà nhằm hỗ trợ giữa các thành viên trong cộng đồng. Một phần do
việc tạo lập các quỹ là hoàn toàn tự nguyện giữa các thành viên. Ngoài ra, do
quy mô hoạt động của quỹ nhỏ, chủ yếu là những người có quan hệ gắn bó
mật thiết về mặt huyết thống, trong phạm vi nhỏ hẹp nên yếu tố lợi nhuận
chưa được đề ra [39,tr.37]
1.1.1.2. Bảo hiểm dưới hình thức cho vay nặng lãi:
Song song với việc phát triển của hoạt động ngân hàng để phục vụ mục
đích tiêu dùng và sản xuất kinh doanh, mở rộng thương mại và buôn bán giữa
các quốc gia, các vùng, các Châu lục. Ở Babylon (khoảng l.700 năm TCN) và
AThen (khoảng 500 năm TCN), các hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng
hoá trên biển, qua sa mạc, giữa các thương nhân đã hình thành nên một điều
kiện vay vốn đặc thù, và có thể coi đó là một hình thái của bảo hiểm. Theo đó,
khi hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển thì người đi vay sẽ không phải
trả khoản tiền đã vay. Chình bởi đặc điểm: khi gặp rủi ro người vay


8


không phải hoàn trả khoản tiền đã vay, làm bản chất của hoạt động này không
phải là hoạt động vay vốn tín dụng mà là một loại hình bảo hiểm lúc sơ khai.
Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 50% và
phải trả trước một lần.
Hoạt động cho vay mạo hiểm lớn này tồn tại khá lâu và phổ biến ở nhiều
khu vực trên thế giới, tại Rôme nó kéo dài đến tận thời kỳ Trung cổ – thời kỳ
thống trị của nhà thời Thiên chúa giáo [39, 44].
1.1.1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên:
Bảo hiểm dưới dạng cho vay nặng lãi đã bị lạm dụng và vào năm 1434,
Giáo hoàng Grégoire IX đã ra sắc lệnh cấm hình thức này. Đồng thời, vào
cuối thế kỷ XV, khi các thương gia Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai
phá tới Châu Á và Châu Mĩ, mở đường cho “cuộc cách mạng thương mại”. Ý
tưởng về rủi ro và thành lập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc. Khi
những đội tàu tìm cách đi từ Châu Âu tới Inđônêxia để mua bán hàng hoá. Có
những tàu trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại có những chuyến
tàu không hoàn thành chuyến đi của mình do gặp bão biển, cướp biển, hư
hỏng tàu, hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Những người tham gia các
chuyến đi thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng bị
mất trắng. Dẫn đến nhu cầu có một sự thoả thuận ràng buộc trách nhiệm và
quyền lợi giữa các bên có liên quan. Từ những thoả thuận đó, có 2 phương
pháp đã được đưa ra để thực hiện đó là:
* Hình thức cổ phần.
Chuyến hàng được tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều người. Mỗi
người góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) và cùng chịu trách
nhiệm theo phần đóng góp đó. Khi chuyến hàng về đến đích, lợi nhuận sẽ
được chia cho mọi người theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Nếu chuyến hàng


9


chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng được chia sẻ cho nhiều người.
Hình thức này giảm được gánh nặng tổn thất cho nhiều người cùng gánh chịu.
Nhưng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: kêu gọi cho đủ người tham gia góp
cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm
và quyền lợi...
* Hình thức thông qua tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp.
Hình thức này có sự tham gia của bên trung gian, ngoài các thành viên có
nhu cầu trực tiếp, còn có các Công ty, thương nhân làm dịch vụ (Người bảo hiểm).

Theo hình thức này, các nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền
nhất định, nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng do một số
nguyên nhân nhất định thì bên người bảo hiểm sẽ trả một khoản tiền nhằm bù
đắp cho những thiệt hại đã xảy ra. Bút tích bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất
còn lưu lại được phát hành tại thành phố cảng Gênes - Italia, vào năm 1347.
Năm 1424, cũng tại cảng Gênes, công ty bảo hiểm đầu tiên của ngành vận tải
đường biển và đường bộ được thành lập. Sau bảo hiểm hàng hải, tiếp đến là
sự ra đời của các loại bảo hiểm khác:
-

Bảo hiểm hỏa hoạn: Vụ cháy lớn ở London - Anh vào năm 1666 đã thiêu

hủy trên 13.000 tòa nhà, trong đó có 87 nhà thời là thảm họa lớn nhất từ trước cho
đến thời điểm đó. Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản trước rủi ro cháy dẫn tới
sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa hoạn. Năm 1684, Công ty bảo
hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nước Anh, lấy tên là Friendly Society Fire
Office, hoạt động trên nguyên tắc hỗ trợ, với hệ thống phí cố định, người được bảo

hiểm phải chịu một phần thiệt hại xảy ra. Tiếp sau đó, nhiều công ty bảo hiểm cháy
khác tiếp tục ra đời ở Anh như Amicable (1696), Sun (1710, Union

(1714). Tại Pris, Pháp, văn phòng đại diện bảo hiểm mang tên “La Royal
Incendie” được thành lập năm 1786 [47,tr.39].

10


-

Bảo hiểm nhân thọ: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cổ xưa nhất được

lưu giữ đến ngày nay được ký năm 1583 tại London. Công ty bảo hiểm nhân
thọ đầu tiên là Equitable được thành lập ở Anh vào năm 1762. Sản phẩm bảo
hiểm đầu tiên công ty này cung cấp là hợp đồng bảo hiểm trọn đời.
-

Các loại bảo hiểm khác: Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của

nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã
xuất hiện và phát rất nhanh như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm ô tô, máy bay, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự [39, 47].
1.1.2. Sự phát triển ngành KDBH thế giới:
1.1.2.1. Thị trường bảo hiểm Châu Âu:
Châu Âu được mệnh danh là cái nôi của bảo hiểm hiện đại, với bề dày
kinh nghiệm và quy mô tổ chức lớn nhất thế giới, tốc độ phát triển nhanh, ổn
định với nhiều tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới như AXA, UAP (Pháp),
Allianz (Đức), Prudential (Anh).
Nổi bật trong khu vực là hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc các

nước EU cũ1, tính riêng năm 2007, tổng phí bảo hiểm các nước này đạt 1,4 tỷ
Euro, bằng 8,64% GDP, phí bảo hiểm bình quân đầu người đạt 2.447 Euro.
Trong đó, tỷ trọng nguồn thu phí từ bảo hiểm nhân thọ cao hơn so với bảo
hiểm phi nhân thọ, với tỷ lệ đạt 61% [xem bảng 1.1].
Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, hai sản phẩm đóng vai trò chủ chốt là
bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm tài sản với tỷ trọng trung bình 55-60% (ví dụ
như ở Bun ga ry năm 2007 là 60,3%, Ba Lan 62,4%, Hung ga ry 58,3%; bình
quân phí bảo hiểm tài sản chiếm tỷ lệ từ 18-25% (Bungary năm 2007 là 25%,
Ba Lan 18%, Hung ga ry 29,5%). Đối với các nước EU cũ, phí bảo hiểm được

11


dàn đều hơn cho các sản phẩm, trong đó, phí bảo hiểm xe cơ giới bình quân
hàng năm là 30% và bảo hiểm tài sản là 20%.
Bảng 1.1. Doanh thu bảo hiểm của các nƣớc thuộc EU năm 2007

Nƣớc
Bun ga ri
CH Séc
Estonia
Hung ga ry
Lát vi a
Lát vi
Ba Lan
Ru ma ni
S lô va ki a
S lô ven ni a
Bình quân
Bình quân 15

nước EU cũ

(Nguồn: Word Insurance report 2007 – www.capgemini.com)
Thị trường bảo hiểm ở Châu âu có đặc điểm chung là:
-

Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thông qua hình thức

phối hợp giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng (Bancassurance) chiếm ưu thế
hơn so với kênh phân phối truyền thống. Tỷ lệ thu phí bảo hiểm nhân thọ qua
kênh phân phối này năm 2007 ở Tây Ban Nha chiếm 72%, Pháp 62%, Italia
59%, Bỉ 58%, Đức 25%, Hà Lan 22%[76]

Các nước thuộc EU cũ (gia nhập trước 1995) có 15 nước gồm: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp,
Đức, Hy Lạp, Ai Len, Italia, Hà Lan, Lúc xăm bua, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Anh.


12


-

Nhiều thị trường bảo hiểm trưởng thành trở nên bão hoà, và về cơ

bản, hầu hết các nhu cầu bảo hiểm hiện nay của khách hàng đã được đáp ứng.
Do đó, số lượng hợp đồng bảo hiểm không tăng mạnh trong những năm gần
đây. Trung bình, khách hàng ở thị trường này sở hữu 5,2 hợp đồng bảo hiểm,
trong đó 1,5 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, 3,7 hợp đồng bảo hiểm phi nhân
thọ và họ nắm giữ cùng một mức tham gia bảo hiểm trong 9,2 năm [63] .
-


Thị trường bảo hiểm Châu Âu đang chuyển dần từ trạng thái tĩnh sang

trạng thái động, thể hiện qua việc thay đổi các hợp đồng bảo hiểm của khách
hàng tăng lên ở một số quốc gia. Ví dụ như ở Anh, tỷ lệ thay đổi bình quân
trong 5 năm 2003-2007 đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là 10%, hợp
đồng bảo hiểm phi nhân thọ là 63%. Mỗi khách hàng thay đổi bình quân 3
năm cho một hợp đồng bảo hiểm ôtô và 5 năm cho hợp đồng bảo hiểm nhà,
tài sản. Nguyên nhân chủ yếu do sự cạnh tranh phí bảo hiểm, khách hàng
muốn lựa chọn công ty có độ an toàn cao hơn, lựa chọn loại sản phẩm bảo
hiểm mới phù hợp hơn [64].
-

Theo nghiên cứu của các chuyên gia bảo hiểm thời gian qua, khách

hàng của ngành bảo hiểm được chia thành 4 nhóm gồm: Khách hàng truyền
thống, khách hàng cơ hội, khách hàng trung lập và khách hàng trung bình.
Tâm lý khách hàng đang có sự ưu tiên nhiều cho Internet và có nhiều khả
năng kênh phân phối truyền thống sẽ sớm bị thay thế bởi các kênh phân phối
trực tuyến.
-

Dân số các nước Châu Âu đang ngày càng già đi, số dân ở độ tuổi 65

và trung bình dân số trong độ tuổi từ 15-65 hiện nay có tỷ lệ từ 25-30% và
ước tính đến năm 2050 sẽ ở con số 50%, điển hình như nước Italia, Thổ Nhĩ
Kì con số này là xấp xỉ 70% [64]. Do đó, trong tương lai ngành bảo hiểm sẽ

13



đẩy mạnh hướng kinh doanh phù hợp với độ tuổi của dân số trong tương lai
như đẩy mạnh các hoạt động đầu tư vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giải trí…
-

Các Công ty bảo hiểm ở thị trường bão hoà đang tập trung mở rộng

thị trường thông qua việc đầu tư góp vốn liên doanh hoặc thành lập các Công
ty bảo hiểm ở thị trường tiềm năng (đặc biệt là khu vực Châu Á) hoặc thực
hiện các vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nhằm tạo lập các doanh nghiệp
lớn, có uy tín để thu hút khách hàng ở thị trường bão hoà chuyển các hợp
đồng bảo hiểm sang các công ty lớn. Những vụ mua bán lớn đã được chuẩn bị
và thực hiện phổ biến từ năm 2006, ví dụ như vụ Công ty bảo hiểm
Assicurazioni Generali SpA mua Công ty bảo hiểm Toro Assicurazioni SpA
tại Italia với trị giá 3.850 triệu Euro và mới đây (9/2008) là việc Tập đoàn bảo
hiểm AXA của Pháp, là Công ty bảo hiểm lớn thứ ba thế giới (sau AIG của
Mỹ và ING của Anh) đã công bố mua lại đối tác Winter thur, một công ty bảo
hiểm lớn thứ hai của Thuỵ sỹ và có thị trường ở 17 quốc gia khác [68]. Mục
tiêu của AXA là để củng cố hoạt động kinh doanh tại Châu Á và tăng cường
xâp nhập vào các thị trường đang phát triển mà hiện nay Winter thur đang
chiếm lĩnh.
1.1.2.2. Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ:
Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ được chia thành Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh,
trong đó phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến là ngành bảo hiểm Mỹ và
Canada.
-

Thị trƣờng bảo hiểm Mỹ: Là thị trường bảo hiểm có quy mô lớn nhất

thế giới với gần 6.000 công ty bảo hiểm tham gia, trong đó có hơn 150 công

ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp, điển hình là các tập đoàn hàng đầu thế giới
như AIG, Metropolitan Life, Newyork Life…[20,tr.183]. Năm 2007, doanh

14


thu phí bảo hiểm của Mỹ đạt 1.668 tỷ USD, bằng 9% GPD nước Mỹ và chiếm
41% tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thế giới [63].
-

Thị trƣờng bảo hiểm Canada: Thị trường bảo hiểm Canada là một

trong 10 nước phát triển của thế giới, doanh thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt
100.398 triệu USD, bằng 7% GDP, chiếm 2,47% tổng phí bảo hiểm thế giới.
Thị trường bảo hiểm ở đây có sự pha trộn, đan xen giữa đặc tính của Mỹ và
Anh. Số lượng công ty bảo hiểm nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, xấp xỉ 60%,
chủ yếu từ Anh, Mỹ, Hà Lan, Pháp, Thuỵ sỹ [47,63].
-

Thị trƣờng bảo hiểm Châu Mỹ La Tinh: Do ảnh hưởng của cơ chế

ngặt nghèo về việc thành lập công ty bảo hiểm và sự áp đặt, điều kiện, biểu
phí bảo hiểm, tỷ lệ hoa hồng trả cho các trung gian bảo hiểm đối với các công
ty bảo hiểm trong một thời gian dài, nên thị trường bảo hiểm ở đây còn kém
phát triển, tỷ lệ phí bảo hiểm trên GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 1%. Phát
triển mạnh nhất ở khu vực là Baraxin với tổng thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt
38.786 triệu USD, tăng 27,7% so với năm 2006, chiếm 3%GDP; sau đó là thị
trường bảo hiểm Mexico, Chilê [47,63].
1.1.2.3. Thị trường bảo hiểm Châu Á - Thái Bình Dương:
Do trình độ phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng hoạt động kinh doanh và

môi trường pháp lý có nhiều hạn chế hơn so với Châu Âu, ngành bảo hiểm
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có lịch sử phát triển chậm hơn khu Châu
Âu. Tuy nhiên, với tốc độ tự do hoá, mở cửa thị trường trong khu vực ngày
càng tăng, thị trường bảo hiểm thời gian qua phát triển khá mạnh mẽ và có tác
động sâu sắc đến thị trường truyền thống của các nước. Sự phát triển thị
trường bảo hiểm khu vực này có thể đánh giá ở một số điểm sau:
-

Tốc độ phát triển ngành bảo hiểm những năm gần đây đạt khá cao, bình

quân hàng năm từ 10-15% với thị trường phát triển mạnh mẽ nhất là Nhật

15


Bản, Hàn Quốc, Hồngkông, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc. Riêng tổng
phí bảo hiểm của Nhật bản năm 2007 đạt 424,83 tỷ USD, chiếm 10,46% tổng
phí bảo hiểm thế giới, đứng thứ 3 sau Mỹ và Anh. Tuy nhiên, sự chênh lệch
giữa các nước phát triển trong khu vực so với các nước đang phát triển như
Việt Nam, Philippin, Inđônêxia đang còn một khoảng cách khá xa (Chi tiết
xem bảng 1.2) [77].
Bảng 1.2. Một số chỉ tiêu ngành bảo hiểm Châu Á 2004-2007 (USD)

T

Quốc gia

T

1


Nhật Bản

2

Hàn Quốc

3

Trung Quốc

4

Đài Loan

5

Hồngkông

6

Singapore

7

Malaysia

8

Thái Lan


9

Inđônêxia

10

Philippin

11

Việt Nam

(Nguồn: World Insurance report 2004-2007- website: www.Swissre.com)
-

Các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng và được cải tiện phù hợp

với chuẩn hoá của quốc tế. Đặc biệt là sản phẩm liên kết đầu tư (Unit-link)


được sự chấp nhận và ưa chuộng của khách hàng. Hiện nay, sản phẩm này
đang được coi là sản phẩm chính của thị trường Châu Á, với giá trị tài sản đầu

16


×