Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Quản lý nhà nước về môi trường thực trạng và giải pháp luận văn ths luật 60 36 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 130 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
1.1

MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC ĐẶC TÍNH CỦA MÔI TRƯỜ
9

1.2

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỐI VỚI QLNN VỀ BVMT
14

1.3

MÔ HÌNH CƠ QUAN QLMT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TR
GIỚI VÀ TRONG
20

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
MÔI TRƯỜNG
2.1

HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG
32

2.2

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG QLNN VỀ BVMT
42



2.3

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC BVMT TRONG THỜI GIAN
56

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1

SỰ CẦN THIẾT PHẢI KIỆN TOÀN CÔNG TÁC QLNN
TRƯỜNG
63

3.2

PHƯƠNG HƯỚNG HÒAN THIỆN BỘ MÁY QLNN VỀ
67

1


3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, MÔ HÌNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QLNN VỀ MÔI TRƯỜNG
81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2


2


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

PTBV
BVMT

BVMT

3


ĐTM
UBND
HĐND
TNTN
CNH – HĐH
OECD
QLNN
QLMT
Bộ TN&MT
Sở TN&MT

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoảng hai thập kỷ gần đây, PTBV được đặt ra như là một yêu cầu
không thể thiếu của quá trình phát triển trên toàn thế giới cũng như ở mỗi


4


quốc gia. Tiếp sau Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hợp quốc tại Rio De
Janeiro (Braxin) năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2002 tại
Johannesburg (Nam Phi) đã nhất trí thông qua Kế hoạch thực hiện PTBV, xác
nhận xu thế tất yếu mà cộng đồng quốc tế cần hướng tới.
Để PTBV đòi hỏi phải có cơ chế QLNN đồng bộ và linh hoạt trên cả ba
bộ phận cấu thành là kinh tế, xã hội và môi trường. Hệ thống QLNN về
BVMT ở nước ta đã được thành lập: Bộ TN&MT. Song, hiện nay, các cơ quan
QLMT cấp địa phương mới chỉ có tính chất kiêm nhiệm và phần lớn mới chỉ
được triển khai đến cấp tỉnh/thành phố mà thiếu đi các cơ quan chức năng ở
các cấp thấp hơn như quận, huyện, làng, xã…, trong khi đó, môi trường ở
cộng đồng thuộc những cấp này lại là đầu nguồn phát sinh ô nhiễm.
Hơn nữa, hệ thống chính sách, pháp luật để QLMT trong PTBV của
nước ta cho đến nay vẫn thiên về mệnh lệnh kiểm soát, theo cách tiếp cận áp
đặt các biện pháp hành chính và pháp lý theo các tiêu chuẩn môi trường. Khi
nền kinh tế "vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN" đòi hỏi
phải có một chính sách và cơ chế QLMT phù hợp với thị trường về tiêu chuẩn
môi trường, về chi phí và hạch toán môi trường, v.v…, trong đó sử dụng các
công cụ kinh tế là tuân thủ theo quy luật thương mại và trên nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền, phải đền bù thiệt hại tính theo giá cả tương ứng của
thị trường.
Thực tế này cho thấy việc hoàn thiện hệ thống QLNN về môi trường là
nội dung nghiên cứu có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu đối với sự
thành công của chiến lược PTBV quốc gia. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng
được các mô hình cơ quan chức năng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện địa lý,
kinh tế, xã hội và văn hoá của cấp địa phương. Đó cũng là nội dung nghiên
cứu của đề tài : QLNN về môi trường – Thực trạng và giải pháp” được xây


5


dựng dựa trên khuôn khổ những kiến thức tiếp thu thông qua khoá đào tạo
Cao học Luật 2003 – 2006 tại Khoa Luật - Đại hội Quốc gia Hà Nội và những
kinh nghiệm trong thời gian công tác trong lĩnh vực BVMT của tác giả.
Đã có nhiều nghiên cứu đơn lẻ trong lĩnh vực QLNN về BVMT thể
hiện qua các bài viết: QLNN về môi trường và PTBV- GS.TS. Lê Văn Khoa ĐHKHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội; Một số vấn đề cấp bách trong quản lý
môi trường ở địa phương - T.S Nguyễn Ngọc Sinh, T.S Nguyễn Đắc Hy, T.S
Nguyễn Văn Tài – Cục Môi trường; QLMT cho sự phát triển bền vững - Lưu
Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, 2000; QLMT địa phương trong thời kỳ CNHHĐH đất nước – TS. Trần Thanh Lâm, 2005; Tăng cường công tác QLNN về
BVMT trong thời kỳ CNH-HĐH – T.S Phạm Khôi Nguyên, Bộ TN&MT 2005...
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào về thực trạng và
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về môi trường
sau thời điểm đã thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường (năm 2002). Vì vậy,
đề tài : QLNN về môi trường – Thực trạng và giải pháp” là đề tài mang tính
thời sự, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và đầy đủ về thực
trạng chính sách, bộ máy và những bất cập trong công tác QLNN về môi
trường trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu, đối tƣợng, phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Nhằm bổ trợ cho công tác xây dựng cơ quan QLNN về BVMT, thực thi
chức năng QLMT theo từng cấp từ Trung ương đến địa phương, tác giả chọn
đề tài: Quản lý Nhà nước về môi trường – Thực trạng và giải pháp . Trong
phần nghiên cứu của mình, tác giả không có tham vọng giải quyết tất cả các
vấn đề thuộc nội dung công tác QLNN về BVMT mà chỉ tập trung nghiên
cứu, đánh giá, đề xuất những giải pháp cụ thể để hòan thiện chức năng, nâng
cao hiệu quả của công tác QLMT của các cơ quan được trao quyền quản lý.
6



Đề tài nghiên cứu các giải pháp nhằm tìm ra cách thức phát huy tối đa hiệu
quả công tác QLNN về BVMT đồng thời đảm bảo thực hiện công tác xã hội
hóa về BVMT, biến công tác BVMT thành nhiệm vụ không chỉ của cơ quan
Nhà nước mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi tổ chức, cá nhân trong xã
hội.
Vấn đề nghiên cứu
Xuất phát điểm của lựa chọn đề tài trên là những suy nghĩ, trăn trở của
tác giả trong công tác QLMT. Đó là :
- Tại sao công tác QLNN về BVMT chưa được thực sự trở thành vấn đề
quan tâm hàng đầu của các cơ quan QLNN từ Trung ương đến địa phương ?
-

Mô hình cơ quan QLNN về môi trường hiện nay đã thực sự phát huy

hiệu quả ?
-

Có những giải pháp nào để nâng cao chất lượng môi trường thông qua

các hình thức QLNN ?
Đối tượng nghiên cứu
Các nội dung, mô hình qua từng giai đoạn lịch sử của bộ máy Nhà nước
; hiệu quả thực tế của những cơ quan có chức năng QLNN về BVMT ; một số
kết quả nghiên cứu hệ thống QLMT của một số nước trên thế giới và việc áp
dụng những biện pháp đây mạnh công tác QLNN về môi trường tại Việt Nam.

Khách thể nghiên cứu
Trên cơ sở bộ máy QLNN về môi trường hiện hành, đề tài thực hiện
nghiên cứu tại một số cơ quan QLMT từ Trung ương đến địa phương với 5
trường hợp của các nước trên thế giới.

7


Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện với các phương pháp :
-

Kế thừa, nghiên cứu các tài liệu có liên quan về bộ máy, cơ chế, chính

sách của hệ thống QLNN về môi trường gồm :
+

Luật pháp và chính sách về xây dựng bộ máy QLMT

+

Luật pháp, chính sách về thực hiện công tác QLNN về BVMT

+
Kinh nghiệm xây dựng bộ máy QLMT của các quốc gia trên
thế giới
+

Các báo cáo nghiên cứu trong nước về các mô hình xây dựng bộ máy

QLNN về BVMT
-

Thu thập, kiểm nghiệm thông tin khảo sát thực tế tại Bộ TN&MT ;


Vụ thẩm định và đánh giá tác động môi trường; Vụ môi trường ; Cục Môi
trường ; Tập đoàn công nghiệp than, khoáng sản Việt Nam ; Bộ Kế hoạch và
đầu tư ; Bộ Công nghiệp ; Sở TN&MT các tỉnh : Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
-

Tổng hợp thông tin

3. Kết cấu của luận văn
Đề tài "Quản lý nhà nước về bẩo vệ môi trường - thực trạng và giải
pháp" có các kết quả nghiên cứu được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về môi trường:
Chương 2. Thực trạng tình hình quản lý nhà nước về môi trường
Chương 3. Phương hướng hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về môi
trường ở việt nam

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ MÔI TRƢỜNG

1.1 Môi trƣờng và các đặc tính của môi trƣờng
Trên thế giới có khá nhiều các khái niệm khác nhau về môi trường. Lý
do chủ yếu là: Thứ nhất, khoa học về môi trường là bộ môn khoa học còn hết
sức non trẻ so với các bộ môn khoa học truyền thống khác; cùng với thời gian
phát triển, khái niệm về môi trường càng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện
và chính xác hoá dần. Thứ hai, với các mục đích nghiên cứu hoặc ứng dụng
khác nhau người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về môi trường cho phù
hợp.



Việt Nam cũng vậy, chúng ta đã từng thấy có sự tồn tại của những

khái niệm khác nhau về môi trường trong các tài liệu khác nhau. Ở hầu hết
các vùng khảo sát, người dân địa phương có xu hướng định nghĩa môi trường
là những vấn đề liên quan đến tài nguyên thiên nhiên mà có ảnh hưởng đến
cuộc sống hàng ngày của họ. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đưa ra khái
niệm rằng, môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân
tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
Theo quan điểm truyền thống, Trái đất trong hệ mặt trời có sự
của các quyển tự nhiên như: Thạch quyển (Lithosphere), Thổ

tồn tại
quyển

(Pedosphere), Sinh quyển (Biosphere), Thuỷ quyển (Hydrosphere), Khí quyển
(atmosphere)... Về thành phần vật chất, Thổ quyển được phát sinh từ

Thạch

quyển do kết quả phong hoá của các đá dưới tác động của các yếu tố

vật lý,

9


hoá học, sinh học... do vậy, khi nghiên cứu môi trường có thể gọi gộp Thạch

quyển và Thổ quyển với nhau với tên gọi chung là Địa quyển (Geosphere).
Tất cả các quyển tự nhiên đã nêu trên đều có mối liên kết với nhau, ràng buộc
lẫn nhau và tác động qua lại lẫn nhau rất chặt chẽ. Đó chính là bản chất của
vấn đề môi trường.
Con người được xếp vào các thành tố thuộc Sinh quyển. Trừ con người
ra, tất cả các thành tố, các quá trình khác thuộc các quyển môi trường đều có
mối liên kết, tác động qua lại lẫn nhau một cách vô thức và khách quan; mối
quan hệ nhân - quả giữa các thành tố và quá trình đó là mối quan hệ khách
quan. Còn con người thì lại khác, mọi hành vi và hoạt tác động đến các thành
tố và các quá trình thuộc các quyển môi trường nói chung đều được thực hiện
một cách chủ quan và có ý thức.
1.1.1 Định nghĩa môi trƣờng
Theo Luật BVMT năm 2005 (Điều 3):
"Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên."
Với những lý giải và mục đích nghiên cứu khoa học như nói ở trên, xin
đưa ra khái niệm và định nghĩa về môi trường như sau: Môi trường bao gồm
tất cả các nhân tố, các thành phần vật chất tự nhiên và nhân tạo, các quá
trình vật lý, hoá học, cơ học, sinh học và các quá trình khác được phát sinh,
tồn tại và phát triển trong các quyển môi trường (Địa quyển, Thuỷ quyển, Khí
quyển, Sinh quyển và Nhân sinh quyển), và có quan hệ mật thiết với nhau, có
mối tác động qua lại lẫn nhau, trong đó con người và các hoạt động của con
người giữ vai trò quyết định.

10


Môi trường cũng có thể được hiểu như là một thể thống nhất của tất cả
5 quyển môi trường khác nhau thuộc Trái đất đang tồn tại và phát triển trong

hệ mặt trời mà chúng ta đã biết được cho đến nay. Đó là: Địa quyển, Thuỷ
quyển, Khí quyển, Sinh quyển và Nhân sinh quyển. Thể thống nhất này được
gọi là Hệ thống môi trường.
1.1.2 Đặc điểm của môi trƣờng:
vật.

Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh

Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống
và hoạt
động sản xuất của con người.
-

Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra

trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
-

Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới

con người và sinh vật trên trái đất.
1.1.3 Phân loại môi trƣờng
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các
loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu
tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí,
động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất
để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại
tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng

hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con
người thêm phong phú.


11


Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... Ở các cấp khác nhau
như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng
xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất
định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống
của con người khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao
gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong
cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên
nhân tạo...
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ,
tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm
cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất
xã hội
1.1.4 Mối quan hệ giữa môi trƣờng và PTBV
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp
nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu
cực tới môi trường. Do đó, năm 1987 Uỷ ban Môi trường và Phát triển của
Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm PTBV:
"PTBV là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con
người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương

lai".

12


Tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung (trong đó có cả
tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế - xã
hội (KT-XH) ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn
chứa đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên,
nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức
lao động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất
trên không phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.
Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để
thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí,
học tập nâng cao hiểu biết,... Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi
trường.
Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa
“đầu ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá
trình sản xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải,
chất thải rắn). Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người cũng thải ra
môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu không được xử lý tốt
cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát
triển KT-XH.
Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ
xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá
nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự


13


phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự
phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát
triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên - đối tượng của
sự phát triển KT-XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động
KT-XH trong khu vực.
1.2 Những vấn đề chung đối với QLNN về BVMT
1.2.1 QLNN về môi trƣờng
QLNN là hoạt động của Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước,
các cán bộ công chức trong các cơ quan đó trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước.
Hoạt động QLNN được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước, các cán
bộ công chức Nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động này tạo nên mối quan hệ
quản lý giữa một bên là các chủ thể quản lý Nhà nước với một bên là các đối
tượng bị quản lý bao gồm các quan hệ xã hội, các hành vi xử xự của con
người. Sự tác động, điều chỉnh của chủ thể QLNN lên đối tượng quản lý phải
căn cứ vào quy định của pháp luật nhằm thiết lập, củng cố và duy trì các trật
tự QLNN. Muốn đảm bảo hiệu lực, hiệu quả QLNN đòi hỏi phải xây dựng, tổ
chức sao cho các chủ thẻ quản lý hội đủ các yếu tố cần và đủ như thể chế,
quyền lực và các biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
QLNN về môi trường là quá trình mà Nhà nước bằng các cách thức,
công cụ, phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con người
nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa môi trường và phát triển sao cho vừa
thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người, vừa đảm bảo được chất lượng
của môi trường sống.


14


QLNN về BVMT là một nội dung cụ thể của QLNN. Đó là việc sử
dụng các công cụ quản lý trên cơ sở khoa học, kinh tế, luật pháp để tổ chức
các hoạt động nhằm đảm bảo giữ cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội và
BVMT.
Chủ thể của QLNN về môi trường
Chủ thể của QLNN về môi trường là các cơ quan, cá nhân, tổ chức
được Chính phủ trao chức năng quản lý hành chính Nhà nước về lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
Khách thể QLNN về môi trường
Khách thể QLNN về môi trường chính là trật tự quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
1.2.2 Đặc điểm của QLNN về môi trƣờng
Đặc điểm chung của QLNN về MT hay QLMT chính là đảm bảo quyền
được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự PTBV của đất nước, góp
phần gìn giữ môi trường chung của loài người trên Trái đất. QLMT có các đặc
điểm chính yếu sau:
-

Hướng tới sự PTBV

Kết hợp các mục tiêu Quốc gia - Quốc tế - vùng lãnh thổ và
cộng
đồng dân cư trong việc QLMT
-

QLMT xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống và cần được thực


hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp.
để

Phòng ngừa tai biến, suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn

chủ động kiểm soát sự cố, ô nhiễm môi trường.
-

Người gây ô nhiễm phải trả tiền: người nào gây ô nhiễm, tổn hại đến

môi trường phải trả kinh phí cho công tác phục hồi chất lượng môi trường.


15


1.2.3 Cơ sở triết học và pháp lý của QLNN về môi trƣờng
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người
và xã hội thành một hệ thống rộng lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong
đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng và chính là cơ sở triết học của
QLNN về môi trường.
Cơ sở pháp lý của QLNN về môi trường là các văn bản về luật quốc tế
và luật quốc gia về lĩnh vực môi trường.
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc
tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế
trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc
gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế
về môi trường được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế
kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về
"Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển và sau Hội nghị

thượng đỉnh Rio 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký
kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường,
trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ
luật, trong đó Luật BVMT được Quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày
29/11/2005 là văn bản quan trọng nhất. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông
tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện Luật BVMT
đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và
thông qua. Nhiều khía cạnh BVMT được đề cập trong các văn bản khác như
Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai,
Luật Phát triển và Bảo vệ rừng...Các văn bản trên cùng với các văn bản về

16


luật quốc tế mà Việt Nam tham gia là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác
QLNN về BVMT.
1.2.4 Mục tiêu cơ bản của QLMT
Tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục
tiêu phát triển ưu tiên của từng địa phương mà mục tiêu QLMT thay đổi theo
thời gian và có những ưu tiên riêng.
Mục tiêu cơ bản của BVMT ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước hiện nay là: 'Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi
và cải thiện môi trường ở những nơi, những vùng đã bị suy thoái, từng bước
nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị, nông thôn,
góp phần phát triển kinh tế, xã hội bền vững, nâng cao chất lượng đời sống
của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1.2.5 Nội dung QLNN về môi trƣờng
Nội dung QLNN về môi trường bao gồm :

-

Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách và pháp luật

môi trường. Định kỳ đánh giá về hiện trạng môi trường với cơ quan cấp trên
các chiến lược, chính sách và pháp luật môi trường ; chủ động tìm ra các giải
pháp tích cực để giải quyết các vấn đề môi trường đang và sẽ đặt ra.
Xây dựng và quản lý các công trình có liên quan tới môi
trường.
-

Thẩm định báo cáo ĐTM, kết luận về thẩm định cùng với các kết luận

khác là cơ sở để cơ quan thẩm quyền nhà nước có thẩm quyền xét duyệt dự
án, hoặc cho phép thực hiện dự án, quyết định tiếp tục cho phép hoạt động
hay có những biện pháp xử lý khác, thậm chí phải đình chỉ hoạt động
-

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Cấp, thu hồi giấy chứng

nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
17


-

Giám sát, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp,

khiếu nại, tố cáo có liên quan tới môi trường.
-


Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, trình độ pháp

lỹ trong lĩnh vực môi trường, thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực môi
trường, việc hợp tác quốc tế về BVMT sẽ giúp cho hoạt động QLNN về MT
đạt kết quả cao hơn, thông qua việc trao đổi thông tin, đào tạo cán bộ quản lý,
hỗ trợ về tài chính, ký kết các thoả thuận quốc tế,...
1.2.6 Công cụ QLMT
QLMT bằng pháp luật
Nhà nước ta đang sẽ tiếp tục thực hiện việc quản lý mọi mặt đời sống
xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật. Đây cũng là một trong những yêu cầu
cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc
QLNN về BVMT không phải là trường hợp ngoại lệ của hoạt động quản lý
của nhà nước ta. Nói cách khác, hoạt động BVMT cũng được Nhà nước ta
quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật.
Pháp luật về BVMT của Nhà nước là tổng hợp các quy tắc xử sự do các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực thi bằng nhiều
biện pháp như giáo dục, thuyết phục và cả cưỡng chế đối với những tổ chức,
cá nhân không tuân thủ hay làm trái với các quy định của pháp luật.
Với tính chất đó, pháp luật về BVMT là công cụ trong tay Nhà nước để
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm BVMT. Vai trò của công cụ này thể hiện
như sau:
-

Là phương thức, biện pháp chuyển tải đường lối, chính sách của Đảng

Cộng sản Việt Nam vào cuộc sống xã hội trong lĩnh vực BVMT.

18



Điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra khuôn mẫu cho các
hành
vi
hệ

của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực BVMT, bảo đảm cho các quan

xã hội phát triển theo chiều hướng có lợi cho sự PTBV đất nước.
Trong một Nhà nước pháp quyền, việc xây dựng và tổ chức hoạt động
của các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan thực hiện QLNN về môi
trường nói riêng cũng phải được thực hiện trên cơ sở và trong khuôn khổ của
các quy định pháp luật. Nếu không có quy định của pháp luật thì sẽ dễ dàng
xảy ra tình trạng tuỳ tiện, lộn xộn ngay trong nội bộ tổ chức và cả trong hoạt
động của tổ chức. Khi đã có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc với những nội
dung đáp ứng các yêu cầu nâng cao hiệu lực cũng như hiệu quả hoạt động của
hệ thống các cơ quan QLNN trong lĩnh vực BVMT thì mới có thể xây dựng
được một hệ thống các cơ quan QLNN về BVMT thực sự vững mạnh.
Xã hội hoá hoạt động BVMT
Xã hội hoá hoạt động BVMT là một trong những chủ trương lớn và
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Để triển khai việc xã hội hoá hoạt động
BVMT, tức là huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức Nhà
nước cũng như các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp và cá nhân đầu tư
vào việc BVMT, đẩy mạnh các hoạt động BVMT, biến việc BVMT thành sự
nghiệp chung của toàn dân, cần phải có hệ thống các quy định pháp luật rõ
ràng, đầy đủ, sát với yêu cầu của thực tiễn. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu
việc xã hội hoá hoạt động BVMT không thành công, dồn toàn bộ trách nhiệm
và gánh nặng BVMT lên vai cơ quan Nhà nước, để các cơ quan Nhà nước đơn
thương độc mã trong lĩnh vực này thì không thể bảo vệ có hiệu quả môi
trường.



19


Monitoring môi trường
Monitoring môi trường (hay còn gọi là Quan trắc môi trường) là các
biện pháp khoa học, công nghệ và tổ chức, bảo đảm kiểm soát một cách hệ
thống các trạng thái, khuynh hướng phát triển của quá trình tự nhiên hoặc
nhân tạo với nhiều quy mô và nhiều loại đối tượng.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM)
Mục đích của ĐTM là xác định và dự báo các tác động của hành động
phát triển (bao gồm các hoạt động kinh tế, xã hội, chính sách , luật pháp) đến
môi trường khu vực, một vùng hoặc toàn quốc. Trong khuôn khổ QLMT địa
phương thì đối tượng của ĐTM thường là các hoạt động kinh tế xã hội như
các nhà máy, xí nghiệp, các dự án nằm trên địa bàn địa phương quản lý cũng
như các chính sách, quy định của địa phương, kể cả đối với các dự án thuộc
quyền quản lý của cấp cơ sở (huyện, thị, xã, phường)
Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một loại thuế thực hiện nhiệm vụ điều tiết thu nhập
về hoạt động khai thác cũng như sử dụng TNTN của đất nước.
Thuế môi trường
Thuế môi trường là khoản thu của ngân sách nhà nước nhằm điều tiết
các hoạt động BVMT quốc gia. Khoản thu này nhằm bù đắp các chi phí mà xã
hội phải bỏ ra để giải quyết các vấn đề như: chi phí y tế, chi phí phục hồi môi
trường, chi phí phục hồi tài nguyên, chi phí xử lý và ngăn ngừa ô nhiễm...
Phí và lệ phí môi trường
Phí môi trường là khoản thu của nhà nước, sử dụng trực tiếp cho các
hoạt động BVMT tính trên thiệt hại mà chất thải ô nhiễm doanh nghiệp hoặc
người tiêu dùng đã thải vào môi trường xung quanh.

20


Lệ phí môi trường là khoản thu có tổ chức bắt buộc đối với các cá nhân,
pháp nhân được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ nào đó về
môi trường. Điều này tuân theo nguyên tắc người gây ô nhiễm cũng như
người tiêu dùng phải trả tiền.
Quỹ Môi trường
Quỹ môi trường được thành lập từ các nguồn kinh phí bao gồm đóng
góp ban đầu của ngân sách nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh, đóng
góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân, nguồn đóng góp từ phí môi trường
cũng như một số loại phí khác, nguồn hỗ trợ của các chính phủ, tổ chức quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ dành cho các hoạt động về môi trường.


Việt Nam, ngày 26/6/2002 Thủ Tướng Chính phủ đã ký Quyết định

thành lập Quỹ BVMT Việt Nam (QBVMTVN). QBVMTVN là 1 tổ chức tài
chính có vai trò huy động vốn và hỗ trợ vốn cho các dự án BVMT. Quỹ được
ngân sách nhà nước cấp 200 tỷ đồng vốn điều lệ.
Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước dành cho các sản phẩm
không gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra các sản phẩm;
quá trình sử dụng các sản phẩm đó nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động
hướng tới BVMT.
1.3 Mô hình cơ quan QLMT của một số nƣớc trên thế giới và
trong khu vực
Việc Nghiên cứu chi tiết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ tập
trung vào một số nước trong khu vực và một số nước công nghiệp phát triển
giúp cho việc tham khảo, vận dụng các mô hình vào quá trình xây dựng mô

hình QLMT ở các cấp ở Việt Nam.

21


Bng 1: Tng hp cỏc mụ hỡnh t chc c quan QLNN v BVMT trờn
th gii.
Mễ HèNH T CHC
B Mụi trng
Cc Mụi trng thuc B Khoa hc cụng ngh v mụi trng
C quan QLNN v mụi trng thuc B mụi trng v ti nguyờn.
Cc mụi trng thuc B Nụng nghip hoc B Nụng nghip (Phỏt trin
nụng thụn) v mụi trng
B mụi trng v Du lch
Cc mụi trng thuc B mụi trng v cỏc chớnh quyn a phng
B mụi trng v quy hoch
Cc mụi trng quc gia trc thuc chớnh ph
U ban mụi trng quc gia
Chc nng QLNN v mụi trng thuc B Y t (hoc B Y t v mụi trng)
Khụng cú c quan chuyờn trỏch riờng v mụi trng, chc nng QLMT thuc
mt s b ngnh liờn quan
Cỏc s mụ hỡnh khỏc (B ngoi giao v mụi trng; B mụi trng v dõn
s...)

1.3.1 Mô hình của các quốc gia có cơ quan BVMT
là một bộ độc lập - Cơ quan BVMT của Xingapo
Xingapo là một quốc đảo nhỏ ở khu vực Đông
, nm gia Malaixia v Inụnờxia, cú tng din tớch t nhiờn 1.092 km2 v
193 km ng b bin. Vi cỏc chớnh sỏch v lut phỏp v mụi trng rt tin
b (luụn t ra ch tiờu ti thiu l t c cỏc tiờu chun quc t), cng vi

ngun kinh phớ dnh cho cỏc hot ng mụi trng chim ti 1,2% GDP
(khong 2 n 3 t ụla Xingapo/nm) v mt khung lut phỏp cú nhng quy
nh mụi trng rt nghiờm ngt v c th, Xingapo ó tr thnh mt trong
cỏc quc gia xanh, sch v p nht th gii.


×