Tải bản đầy đủ (.docx) (166 trang)

Tham nhũng và vấn đề phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.39 KB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI QUANG HUY
THAM NHŨNG VÀ VẤN ĐỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP
LUẬT
MÃ SỐ: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI – NĂM 2008

-1-


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………....1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm …………………………………………………………………5
1.1.1. Khái nhiệm về tham nhũng ……………………………………………..5
1.1.2. Tham nhũng nhìn từ góc độ văn hóa …………………………………...8
1.1.2.1.Văn hóa và sự cần thiết phải tiếp cận vấn đề tham nhũng từ góc độ văn


hóa…………………….…………………………………………………..……8
1.1.2.2. Đặc trưng, nguồn gốc và hậu quả của tham nhũng – nhìn từ góc độ
văn hóa…………………………………………………………………………9
1.1.2.3. Vấn đề phòng, chống tham nhũng – nhìn từ góc độ văn hóa ………..12
1.1.3. Pháp luật chống tham nhũng thời kỳ phong kiến…………………...….12
1.1.3.1. Thời kỳ nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần…………..…………....…12
1.1.3.2. Thời kỳ Hậu Lê…………………………………………………....... 13
1.1.3.3. Thời kỳ nhà Nguyễn…………………………………………………13
1.1.4. Các dấu hiệu đặc trưng, nguồn gốc và hậu quả của hành vi tham nhũngNhìn từ góc độ pháp luật………………………………………………….…..14
1.1.4.1. Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng……………………………..14
1.1.4.2. Nguồn gốc của tham nhũng………………………………………….16
1.1.4.3. Nguyên nhân của tham nhũng…………………………………….….17
1.2. Thực trạng, nguyên nhân và tác hại của tệ tham nhũng tại Việt Nam…..17
1.2.1. Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay……………………………17
1.2.1.1. Thực trạng tham nhũng và những khó khăn trong việc đánh giá thực
trạng tham nhũng hiện nay………………………………………………..….17
1


1.2.1.2. Đánh giá chung tình hình tham nhũng từ góc độ kinh tế - xã hội và
pháp luật………………………………………………………………………18
1.2.1.3. Tình hình tham nhũng ở một số lĩnh vực cụ thể ……………….……27
1.2.1.4. Đối tượng tham nhũng………………………………………...……..32
1.2.2. Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng………………………………33
1.2.2.1. Nguyên nhân khách quan………………………………………….…33
1.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan…………………………………………...…..35
1.2.3. Tác hại của nạn tham nhũng đối với công cuộc phát triển KT-XH..…. 42
1.2.3.1..Tham nhũng gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và
của nhân dân………………………………………………………………….42
1.2.3.2. Tham nhũng cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước……...……………43

1.2.3.3. Tham nhũng làm thay đổi, đảo lộn những giá trị đạo đức xã hội, làm
vẩn đục những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc…………………..…44
1.2.3.4. Tham nhũng làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước...……45
1.2.3.5. Tham nhũng xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên CNXH…………………….…45
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tham nhũng...…..46
1.3.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng……...……..46
1.3.1.1. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ Tịch về tham nhũng………...……46
1.3.1.2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ Tịch về chống tham nhũng…....50
1.3.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chống tham nhũng…….………54
1.3.3. Quan điểm của Đảng trong chỉ đạo chống tham nhũng…………..……55
1.3.3.1. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân……………………………………………………55

2


1.3.3.2. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cường đoàn kết nội bộ….56
1.3.3.3. Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí..…57
1.3.3.4. Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây, phòng và chống.
Vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng………58
1.3.3.5. Đấu tranh chống tham nhũng một cách chủ động, phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện đấu tranh chống tham
nhũng ở mọi cấp, mọi ngành……………………………………………….…59
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống tham nhũng ……………...….….59
1.4.1. Các biện pháp phòng, chống tham nhũng của các nước trên thế giới…59
1.4.1.1. Công tác giáo dục con người……………………………………...…59
1.4.1.2. Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch…………………...……60

1.4.1.3. Phòng ngừa xung đột lợi ích………………………………...……….60
1.4.1.4. Quy định về việc kê khai tài sản của công chức……...……………...61
1.4.1.5. Trả lương cao cho công chức……………………..…………………61
1.4.2. Pháp luật về phòng chống tham nhũng của các nước trên thế giới….…61
1.4.2.1. Quy định rõ tội danh và khung hình phạt đối với các tội danh về tham
nhũng……………………………………………………………………….…61

1.4.2.2. Ban hành Luật Chống tham nhũng và các văn bản pháp luật phục vụ
cho việc phòng, ngừa phát hiện và xử lý tham nhũng……………………..…62
1.4.3. Mô hình tổ chức cơ quan chống tham nhũng các nước…...………..…64
Chương 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Ở NƯỚC TA VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY
DỰNG NNPQ
2.1. Sơ lược lịch sử pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam qua các
thời kỳ………………………………………………………………….…..…65

3


2.1.1. Pháp luật chống tham nhũng từ sau cách mạng tháng 8-1945đến nay...65
2.1.1.1. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp……...………………..…65
2.1.1.2. Thời kỳ kháng chiến chiến chống Mỹ cho đến trước khi có Pháp lệnh
chống tham nhũng năm 1998………………….…………………….………..65
2.1.1.3. Thời kỳ từ khi có Pháp lệnh chống tham nhũng 1998 đến nay ......…66
2.2. Hệ thống hóa văn bản pháp luật phòng, chống tham nhũng ………...….67
2.2.1. Pháp luật phòng, chống tham nhũng trước khi có Luật phòng, chống
tham nhũng……....……………………………………………………………67
2.2.2.Hệ thống pháp luật hiện hành về phòng chống tham nhũng……………68
2.2.3. Các hành vi và tội tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành.69
2.2.4. Các biện pháp phòng ngừa và phát hiện tham nhũng theo quy định của

pháp luật hiện hành……………………………………………………...……71
2.2.4.1. Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng theo quy định của pháp luật.71
2.2.4.2. Các biện pháp phát hiện tham nhũng theo quy định của pháp luật….73
2.2.5. Các quy định của pháp luật liên quan đến xử lý tham nhũng……….…76
2.2.5.1. Xử lý người có hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật
khác…………………………………………………………………………..77
2.2.5.2. Xử lý tài sản tham nhũng ……………………………………………78
2.3. Xây dựng hệ thống pháp luật phòng, chống tham nhũng với yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền………………………………………………….78
2.3.1. Những tiêu chuẩn cơ bản của một nhà nước pháp quyền……………...79
2.3.1.1. Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa lập hiến…....79
2.3.1.2. Pháp luật giữ vị trí chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong xã
hội, Nhà nước cũng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật………..…….……80
2.3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư

4


pháp………………………………………………………………….………..82
2.3.1.4. Pháp luật phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải đảm bảo tính
công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời………………………83
2.3.1.5. Tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền con người…...…...…84
2.3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam và vấn đề đấu tranh chống tham nhũng…………………...87
2.3.2.1. Những yêu cầu chung………………………………...……..……….87
2.3.2.2. Các yêu cầu về nguyên tắc của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta - cơ sở của việc xác định giải pháp phòng, chống tham nhũng…...…89
2.3.2.3. Giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là điều kiện cần thiết để
phòng, chống tham nhũng trong một nhà nước pháp quyền………..……….102
2.3.2.4. Giám sát của xã hội dân sự đối với các hoạt động của bộ máy nhà nước

và cán bộ, công chức là một yếu tố quan trọng góp phần đấu tranh chống tham
nhũng…………………………………………………………….…….108
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG CHỐNG
THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Mục tiêu, quan điểm phòng, chống tham nhũng……...…..…………….112
3.1.1. Mục tiêu……………………………………………………...…….…112
3.1.2. Quan điểm và những định hướng lớn trong phòng chống tham nhũng113
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng……….…..113
3.2.1. Những giải pháp quản lý kinh tế xã hội………...……….……………115
3.2.2.1. Thực hiện nghiêm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai….....116
3.2.1.2. Chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua
sắm công………………………………………………………………….…117
3.2.1.3. Đẩy mạnh cải cách nền tài chính công, kiểm soát tốt hơn nữa công tác
thu, chi ngân sách……………………………………………………………119

5


3.2.1.4. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; tăng cường
quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp…………………..……..122
3.2.2. Những giải pháp về chính trị tư tưởng…………………………..……123
3.2.3. Những giải pháp về tổ chức, cán bộ và quản lý………….………...…125
3.2.3.1. Sửa đổi bổ sung các quy định về công tác cán bộ, đảm bảo công khai
dân chủ………………………………………………………………………125
3.2.3.2. Tăng cường minh bạch tài sản thu thập của cán bộ, công chức, đề cao
tính tự giác và trách nhiệm của cán bộ đảng viên nhất là những người có chức
danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã
hội…………………………………………………………………..……….127
3.2.3.3. Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong
cơ quan, tổ chức hoặc ngành lĩnh vực, địa phương mà mình phụ trách…….129

3.2.3.4. Cải cách chế độ tiền lương nhằm phòng ngừa tham nhũng…...……130
3.2.4. Những giải pháp về kiểm tra, giám sát hoạt động công quyền…..…..132
3.2.4.1. Các giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động công vụ của cơ
quan, tổ chức và kiểm soát cán bộ công chức………………………….……133

3.2.4.2. Xây dựng và bảo đảm thực hiện qui tắc ứng xử của cán bộ công
chức………………………………………………………………………….136
3.2.5. Những giải pháp về nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của xã hội
dân sự………………………………………………………..………………139
3.2.5.1. Các giải pháp tăng cường giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức của xã
hội đối với tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng……………..….….140
3.2.5.2. Phát huy vai trò của xã hội công dân trong đấu tranh chống tham
nhũng….………………………………………………………..……………142
KẾT LUẬN …………………………………………………………………146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………...…..148

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm của Nhà nước, của xã hội nó hiện
diện ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nó tồn tại và phát triển không
ngừng, hàng ngày hàng giờ len lỏi vào mọi mặt của đời sống, nó làm phương
hại đến lợi ích của hầu hết công dân, cản trở sự phát triển bền vững của Nhà
nước, nguy hiểm hơn nó có thể làm sụp đổ cả một chế độ. Không chỉ đối với
Việt Nam mà đối với các nước trên thế giới, tham nhũng luôn là mối đe dọa
đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội làm suy giảm lòng tin của nhân dân
vào chính quyền vào pháp luật. “

Nhận rõ sự tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, Đại hội đại biểu lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “nạn tham nhũng đang là
một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị” bên
cạnh đó cũng xác định rõ nhiệm vụ “phải tiến hành đấu tranh kiên quyết,
thường xuyên và có hiệu quả chống nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước,
trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở”. Trong nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe dọa sự
sống còn của chế độ ta”. Qua thực tiễn đấu tranh chống tệ tham nhũng tại nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Tích cực
phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng lãng phí là đòi hỏi bức xúc của
xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh
đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ
lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”.
Khi nghiên cứu vấn đề tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng một
vấn đề dễ nhận thấy đó là liên quan đến quá trình vận hành của bộ máy nhà
nước. Một bộ máy nhà nước vững mạnh, được tổ chức chặt chẽ, hợp lý sẽ ít
cơ hội để tham nhũng phát triển. Một nhà nước mạnh khi nó được tổ chức
một cách hợp lý dựa trên nguyên tắc phân công quyền lực rõ ràng, hợp lý

7


giữa quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Đó cũng chính là một đặc điểm,
yêu cầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Như vậy, vấn đề phòng chống tham nhũng có mối liên hệ chặt chẽ với
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đây là hai vấn đề lớn, nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết trong công cuộc xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Tham nhũng và vấn đề phòng,

chống tham nhũng trong điều kiện kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay” nhằm góp phần nghiên cứu về vấn đề nêu trên ở nước ta
hiện nay.
2.

Mục đích của đề tài

Nêu ra vấn đề mối quan hệ giữa pháp luật phòng chống tham nhũng
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền tìm ra những phương hướng
hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa tạo ra bộ máy
nhà nước vững mạnh để loại trừ tận gốc nạn tham nhũng.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của luận văn là:
Khái niệm, nhận diện hành vi tham nhũng từ góc độ văn hóa và góc độ
pháp luật. Pháp luật về phòng chống tham nhũng qua các thời kỳ.
Phân tích những quan tư tưởng, điểm của chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng. Đặt cuộc
chiến chống tham nhũng trong mối quan hệ với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền từ đó rút ra mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề mà Đảng và Nhà
nước ta đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện.
Đưa ra một số kiến nghị về các giải pháp phòng, chống tham nhũng
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay phù hợp
với tình hình chính trị, kinh tế và xã hội ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử
dụng là phương pháp tổng hợp, thống kê, nghiên cứu và phân tích các văn

8


kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm điểm

của Đảng trong việc phòng, chống tham nhũng đặt nó trong mối quan hệ với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm, bài viết, nói chuyện của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và
ngoài nước về phòng, chống tham nhũng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, phương pháp logic và phương pháp so sánh để làm sáng tỏ một số
vấn đề, nội dung của Luận văn.
4.

Tình hình nghiên cứu đề tài.

Trong những năm gần đây, nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước, nhiều bài viết, phát biểu của đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại
các diễn đàn, hội nghị đã thể hiện quan điểm về nạn tham nhũng và vấn đề
phòng chống tham nhũng cũng như vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Đây là định hướng cơ bản và quan trọng để xây dựng một bộ máy nhà nước
khoa học, hợp lý để đẩy lùi, tiến tới loại trừ nạn tham nhũng ra khỏi đời sống
xã hội.
Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học, bài
viết liên quan đến vấn đề này song mỗi công trình, mỗi bài viết đề cập ở
những khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó cũng có thể thấy mỗi một giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội khác nhau thì mục tiêu, biện pháp … để phòng,
chống tham nhũng cũng có những điểm khác biệt nhất định. Một số công trình
nghiên cứu đề cập vấn đề tham nhũng và các biện pháp phòng, chống tham
nhũng như: Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống tham nhũng, NXB.
Tư pháp năm 2004; Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung
cơ bản của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 NXB. Chính trị Quốc
gia nam 2006; Tệ quan liêu, lãng phí và một số giải pháp phòng, chống NXB.
Chính trị Quốc gia nam 2006; Tham nhũng nhận diện từ các khía cạnh pháp

lý và cơ sở pháp lý mới. GS,TS. Đào Trí Úc Viện trưởng Viện Nhà nước và
pháp luật. Tạp chí Cộng sản số 2 -1997; Tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng GS.TS.Nguyễn Thị Doan

9


Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng.
Tạp chí Cộng sản số 12 - 2002.; Kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu
và đẩy lùi nạn tham nhũng trong Bộ máy Đảng, Nhà nước ta. Võ Chí Công
nguyên ủy viên Bộ Chính trị. Tạp chí Cộng sản số 16- 2002; Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với cải
cách hành chính nhà nước, đẩy lùi một bước tình trạng tham nhũng, lãng phí,
tệ nạn xã hội. Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bế mạc Hội
nghị lần thứ 4 BCH Trưng ương Đảng khóa IX.Tạp chí Cộng sản số 23 –
2001; Một số nguyên nhân trực tiếp của tệ tham nhũng. Tạ Xuân Đại Phó
trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng. Tạp chí Xây dựng Đảng số 9 – 2003;
Chống tham nhũng – thước đo phẩm chất người cán bộ, đảng viên; Quách Lê
Thanh ủy viên trưng ương Đảng – Tổng thanh tra Nhà nước; Phòng, chống
tham nhũng trong tình hình hiện nay, Tiến sỹ Nguyễn Minh Đoan Đại học
Luật Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 – 2004…
5.

Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương
được bố cục như sau:
Chương 1. Một số vấn đề về tham nhũng
Chương 2. Pháp luật về phòng chống tham nhũng trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng
ở nước ta hiện nay.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Khái nhiệm về tham nhũng.
Tham nhũng là một khái niệm không mới, nó gắn bó chặt chẽ với sự tồn
tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Xét về mặt lý luận thì không thể có nạn
tham nhũng tách dời khỏi bộ máy nhà nước, khỏi bộ máy cai trị, quản lý.
Tham nhũng được xem như là căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi nhà
nước, nó được xem như khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là căn bệnh khó
thể tránh khỏi của các chế độ. Hình thức, tính chất, mức độ và phương thức
tham nhũng khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội.
Tham nhũng là hiện tượng mà không ai có thể phủ nhận về sự tồn tại
cũng như tác hại của nó đối với nhà nước, đối với xã hội. Tuy nhiên khi
nghiên cứu về vấn đề tham nhũng vẫn chưa có một định nghĩa chung nhất và
cụ thể về tham nhũng . Những hình thức, hành vi tham nhũng phụ thuộc vào
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia cũng như sự phát triển của
nó ở từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Sau đây xin nêu ra một số khái
niệm về tham nhũng ở một số nước trên thế giới.
Tại Đức, theo từ điển bách khoa của Đức thì “tham nhũng là hiện tượng
mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền
hành”.
Tại Áo: tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột.
Tại Thụy sỹ, theo từ điển bách khoa của Thụy sỹ thì “tham nhũng là hậu
quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy

nhà nước. Đó là hành vi vi phạm để phục vụ lợi ích cá nhân” Cũng tại Thụy
sỹ, người ta chia tham nhũng thành tham nhũng lớn và tham nhũng nhỏ.Tham
nhũng lớn thường xuất phát từ các chính sách, quyết định quan

11


trọng của cơ quan nhà nước trong việc sử dụng công quỹ nhà nước, những
loại tham nhũng này về số lượng không nhiều nhưng thường gây thiệt hại lớn
về kinh tế. Tham nhũng nhỏ là những hành vi của công chức có chức vụ
không cao trong bộ máy chính quyền với lợi ích thu được không lớn. Tuy tác
hại của nó không lớn về mặt kinh tế nhưng xét về số lượng thì nó xảy ra khá
phổ biến, thường xuyên ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tầng lớp dân cư từ đó
làm méo mó, mất lòng tin của nhân dân vào cơ quan nhà nước, vào chế độ.
Tổ chức Minh bạch quốc tế (IE) một tổ chức phi chính phủ đi tiên phong
trong công cuộc phòng chống tham nhũng trên toàn cầu định nghĩa “tham
nhũng là bao gồm hành vi vi phạm của công chức trong khu vực công, dù là
chính trị gia hay công chức dân sự, trong đó họ làm giàu một cách không
đúng đắn hoặc bất hợp pháp cho bản thân hay cho người thân của mình bằng
cách lạm dụng quyền lực công đã giao cho họ” Theo Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB) “tham nhũng là sự lạm dụng chức vụ công hoặc tư để tư lợi”.

Tham nhũng là một thuật ngữ rất quen thuộc thường được đề cập đến
trên các phương tiện thông tin đại chúng và được sử dụng rộng rãi trong nhân
dân nhưng vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về tham nhũng. Theo từ điển
tiếng việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân để
lấy của” hoặc theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh
quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng được định nghĩa đơn
giản, theo một phạm vi hẹp, đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi
riêng”v.v... Tuy có nhiều khái niệm khác nhau, tuy nhiên nhìn chung có hai

loại khái niệm phổ biến nhất về tham nhũng như sau:
Theo nghĩa rộng: bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ,
quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền
hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ
thể của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người
khác thuộc khu vực nhà nước (cơ quan nhà nước, công ty nhà nước, tổ chức
12


chính trị…) nhưng không phải là cán bộ, công chức, viên chức; chủ thể của
hành vi tham nhũng có thể là người thuộc khu vực tư nhân.
Theo nghĩa hẹp: và cũng là theo khái niệm của pháp luật Việt Nam được
quy định (Luật phòng, chống tham nhũng), thì tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi;
người có chức vụ, quyền hạn ở những người trong khu vực nhà nước, tức là
ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị hay nói cách khác là
cơ quan, tổ chức đơn vị, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, tài sản của
Nhà nước.
Việc phân loại như vậy là nhằm đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tham
nhũng trong một giai đoạn nhất định tập trung vào nhứng hành vi tham nhũng
xảy ra phổ biến nhất, bảo đảm tính trọng tâm, trọng điểm, góp phần nâng cao
hiệu quả trong đấu tranh chống tham nhũng. Đồng thời, việc giới hạn như vậy
cũng nhằm đảm bảo để các biện pháp phòng, chống tham nhũng như kê khai
tài sản, công khai, minh bạch… chỉ áp dụng đối với các đối tượng công chức
khu vực nhà nước, chứ không áp dụng đối với các đối tượng khác thuộc khu
vực ngoài nhà nước. Nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vì việc áp
dụng các biện pháp trên có thể xâm phạm tới quyền tài sản của công dân,
quyền bí mật trong kinh doanh, quyền cạnh tranh…dẫn đến hạn chế các
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với khu vực kinh
tế ngoài nhà nước, khi có vụ việc xảy ra thì đã có đủ pháp luật để điều chỉnh

như Bộ luật hình sự về một số tội xâm phạm về sở hữu. Bên cạnh đó, cũng có
trường hợp người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp
thuộc khu vực ngoài nhà nước câu kết, móc nối với những người thoái hóa,
biến chất trong khu vực nhà nước hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những người
này để trục lợi; nhưng trong những trường hợp đó, họ đã trở thành đồng phạm
khi những người có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do
vậy, Luật phòng, chống tham nhũng đã không mở rộng khái niệm này.

13


Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, cùng với việc nước ta trở thành thành
viên chính thức của WTO từ tháng 11 năm 2006 và cùng với sự tồn tại của
nhiều hình thức sở hữu, nhất là trong quá trình sản xuất kinh doanh, các quan
niệm về “khu vực công” và “khu vực tư” ngày càng trở nên khó phân biệt.
Thêm vào đó việc xã hội hóa một số ngành, việc chuyển giao một số công
việc trước kia thuộc về nhà nước cho các khu vực không phải của nhà nước,
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước… đã khiến cho quan niệm về
“công” và “tư” lại càng trở nên khó xác định. Xét cho cùng thì tham nhũng là
sử dụng quyền lực “công” để phục vụ cho lợi ích “tư” nhưng khái niệm
“công” cần phải được mở rộng hơn trước. Nếu như trước đây khái niệm “của
công” đồng nghĩa với “của nhà nước” thì nay khái niệm này phải được hiểu là
“của chung”. Chính vì vậy mà chúng ta cần nghiên cứu và đưa ra một cơ chế
phù hợp với yêu cầu mới của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Có thể hiện
nay vấn đề này còn chưa gay gắt nhưng chắc chắn trong thời gian tới với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường thì vấn đề chống tham nhũng trong các
khu vực ngoài nhà nước sẽ là tất yếu.
1.1.2. Tham nhũng nhìn từ góc độ văn hóa.
Tham nhũng từ trước đến nay phần nhiều được nghiên cứu với tính cách
là một hiện tượng pháp lý. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tham nhũng

ngày càng có tính chất phổ biến và tràn lan, không chỉ còn là một căn bệnh
của bộ máy nhà nước mà đã lây sang cả quan niệm và cung cách ứng xử của
của xã hội. Chính vì vậy nó cần được nghiên cứu dưới khía cạnh văn hóa để
tìm thấy sự tác động cần thiết, nhất là để đưa ra các giải pháp phòng ngừa
tham nhũng có hiệu quả.
1.1.2.1. Văn hóa và sự cần thiết phải tiếp cận vấn đề tham nhũng từ góc
độ văn hóa.
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rộng và được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì văn hóa vẫn
được nhìn nhận với ý nghĩa cơ bản của nó, đó là “sự giáo hóa qua vẻ đẹp của

14


những giá trị, sự vun trồng tinh thần theo chuẩn mực thẩm mỹ chân – thiện –
mỹ”. Văn hóa chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, trở thành chuẩn mực cái đẹp
và là nguồn nuôi dưỡng, phát triển, hoàn thiện con người, nâng cao chất lượng
cuộc sống của con người.
Văn hóa (dưới tư cách văn hóa của mỗi cá nhân hay văn hóa của một
cộng động, dân tộc – môi trường văn hóa) có tác động mạnh mẽ đến sự hình
thành nhân cách, tâm hồn, phẩm chất của mỗi con người và nâng cao hiệu quả
hoạt động của họ, cả trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực tinh thần. Sự
tác động đó không mang tính trực tiếp, tức thời mà là một quá trình lâu dài
nhưng bền vững. Sự hấp thụ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa có thể ví như
mảnh đất tốt để nuôi dưỡng tình thương , tinh thần trách nhiệm, ý thức vì
cộng đồng, là cơ sở vững chắc để con người có hành vi xử sự đúng đắn, tránh
xa mọi biểu hiện tiêu cực, trong đó có tham nhũng. Ngược lại, sự nhận thức
lệch lạc về các giá trị chuẩn mực, sự tha hóa trong lối sống…sẽ là những
nguyên nhân mang tính tất yếu của tham nhũng, hối lộ và nhiều hiện tượng
tiêu cực khác. Vì vậy, việc nghiên cứu về tệ nạn tham nhũng rất cần phải được

nhìn nhận dưới góc độ văn hóa, để có thể tìm hiểu một cách sâu sắc những
nguyên nhân của nó, lý giải sự tác động của yếu tố con người và những vấn
đề về môi trường, đạo đức, lối sống…với tư cách là những yếu tố giữ vai trò
quyết định trong việc hình thành và phát triển của các hành vi tham nhũng,
tìm ra những cơ chế hiệu quả và lâu dài hơn nhằm phòng, chống sự phát triển
của nó trong thực tế đời sống.
1.1.2.2. Đặc trưng, nguồn gốc và hậu quả của tham nhũng – nhìn từ góc
độ văn hóa.
Đặc trưng của tham nhũng nhìn từ góc độ văn hóa.
Nghiên cứu tham nhũng từ góc độ kinh tế, nhiều tác giả đã đề cập đến
các đặc trưng của nó như: tinh vi, kín đáo, khó phát hiện, phạm vi hoạt động
đa ngành, đa lĩnh vực, tính chất quốc tế hóa … Dưới góc độ văn hóa, tham
nhũng được nhận biết với một số đặc trưng quan trọng đó là tính lịch sử, tính
hệ thống và tính phi văn hóa.
15


– Thứ nhất, về tính lịch sử, tham nhũng là hiện tượng xã hội thuộc phạm
trù lịch sử, gắn liền với sự ra đời, phát triển của nhà nước và quyền lực nhà
nước, tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau.
– Thứ hai, về tính lịch sử, tham nhũng thường không bao giờ là một hành
vi mang tính nhất thời mà thường được thực hiện nhiều lần, trong nhiều thời
điểm với nhiều hình thức khác nhau.
– Thứ ba, về tính phi văn hóa, tham nhũng là hành vi vụ lợi cá nhân, hậu
quả trực tiếp mà tham nhũng gây nên là hậu quả về mặt kinh tế. Tuy nhiên,
xét dưới góc độ văn hóa, có thể coi đây là một hành vi phi văn hóa, bởi lẽ nó
đi ngược lại với những quy tắc, chuẩn mực về đạo đức, trách nhiệm công vụ,
những giá trị văn hóa đã được mọi người thừa nhận.
Nguồn gốc của tham nhũng
Từ góc độ văn hóa, có thể nhận thấy một số vấn đề sau đây thuộc về

nguồn gốc của tham nhũng:
– Chủ nghĩa cá nhân, lối sống coi trọng vật chất và tệ nạn tham nhũng
Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh giao lưu văn hóa
với các quốc gia trên thế giới đã làm cho tư tưởng, văn hóa và lối sống
phương tây xâm nhập vào Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực thì kèm
theo đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ,
thực dụng. Tâm lý hưởng thụ vật chất chế ngự ý thức quan tâm đến các giá trị
tinh thần như lương tâm, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng…, do đó, đã
chi phối hành vi của con người, trở thành căn nguyên làm nảy sinh những
hành vi nhũng nhiễu để thỏa mãn lợi ích cho cá nhân, biến tài sản công thành
tài sản cá nhân mà không quan tâm đến những tác hại do hành vi của mình
gây ra đối với lợi ích chung.
– Sự tha hóa, biến chất và tham nhũng
Cùng với những ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng còn bắt
nguồn từ chính sự tha hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức, những người giữ vị trí lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp…
16


– Vấn đề nhận thức và tệ nạn tham nhũng
Một trong những nguyên nhân gián tiếp dẫn tới việc phát sinh tham
nhũng đó là sự nhận thức phiến diện, không đầy đủ về tham nhũng cũng như
tác hại của nó. Nguyên nhân này làm cho tham nhũng ngày càng bám sâu vào
các thiết chế quyền lực và càng khó khắc phục hơn.
– Một số vấn đề văn hóa hiện nay và tệ nạn tham nhũng
Khi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là
văn hóa trong quản lý, điều hành, các nhà nghiên cứu đã phát hiện và nêu lên
một số vấn đề có liên quan đến việc hình thành và phát triển của tệ nạn tham
nhũng. Các vấn đề này được khái quát trong một số “thuật ngữ” như: chủ
nghĩa “thân quen”, tâm lý “ngại đấu tranh”, “dĩ hòa vi quý”, văn hóa “quà

biếu”…Chính những vấn đề này đã làm cho mọi mối quan hệ liên quan đến
lợi ích chung, khi tiến hành những công việc thuộc nhiệm vụ, công vụ không
được giải quyết dựa trên cơ sở pháp luật, theo đúng quy định của pháp luật;
những hành vi sai trái không bị trừng trị nghiêm khắc. Pháp luật dường như bị
vô hiệu hóa và người ta không có thói quen dung pháp luật để bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình, không đấu tranh đến cùng chống lại những biểu hiện
tiêu cực. Những yếu tố đó tạo nên một môi trường nuôi dưỡng cho các hành
tham nhũng, làm nhụt ý chí đấu tranh chống tham nhũng, khiến cho tham
nhũng càng có cơ hội hoành hành.
Hậu quả của tham nhũng đối với văn hóa.
Nhìn từ góc độ văn hóa, chúng ta có thể thấy rằng, bên cạnh việc gây ra
những thiệt hại to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của quốc gia,
tệ nạn tham nhũng còn để lại những hậu quả lâu dài về mặt xã hội. Tham
nhũng đang được coi là một trong những nguy cơ cản trở tăng trưởng kinh tế,
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất công xã hội, suy giảm lòng tin của nhân
dân…Tham nhũng làm thay đổi, thậm chí còn làm đảo lộn những giá trị
chuẩn mực đạo đức xã hội, làm vẩn đục các quan hệ xã hội. Tham nhũng là
nguyên nhân gây nên những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và sự dao

17


động trong tư tưởng của không ít cán bộ và nhân dân, làm biến đổi những
chân giá trị đã được thừa nhận trong đời sống xã hội, tác động tiêu cực đối
với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.2.3. Vấn đề phòng, chống tham nhũng – nhìn từ góc độ văn hóa.
Dưới góc độ văn hóa việc phòng, chống tham nhũng bằng những giải
pháp về văn hóa, từ góc độ văn hóa chính là sự phòng, chống tham nhũng “từ
xa”, tuy không trực tiếp và tức thời nhưng cũng không kém phần hiệu quả, do
đó, cần được quan tâm vận dụng nhiều hơn nữa trong thực tiễn. Chính vì vậy,

khi tiến hành cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng cần lưu ý một số vấn
đề mang tính quan điểm sau đây:
– Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để tăng cường sức đề kháng
của cá nhân và xã hội đối với tham nhũng, tạo dư luận lên án hành vi tham
nhũng, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng xã hội trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
– Quan tâm xây dựng văn hóa trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo Nhà nước
và doanh nghiệp; đặc biệt là quan tâm xây dựng văn hóa Đảng.
– Tiến hành cuộc điều tra về lối sống của đội ngũ lãnh đạo, trên cơ sở đó,
xây dựng bộ quy tắc đạo đức đối với người có chức vụ, quyền hạn trong bộ
máy nhà nước và doanh nghiệp.
1.1.3. Pháp luật chống tham nhũng thời kỳ phong kiến
1.1.3.1. Thời kỳ nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần
Thông qua những tài liệu ít ỏi về lịch sử thời kỳ này có thể nhận thấy,
quan niệm về tham nhũng thời kỳ này tuy mới sơ khai nhưng đã liệt kê ra
được một số hành vi cụ thể, bao gồm cả hành vi lấy tài sản công, lợi dụng
chức vụ để lấy tài sản của nhân dân, lợi dụng việc công, lợi dụng quyền thế để
mưu lợi riêng. Về việc xử lý đối với các hành vi tham nhũng cũng cho thấy rất
nghiêm khắc ai vi phạm đều bị liệt vào tội hình. Một kinh nghiệm rất hay là
quy định về định về định kỳ kiểm tra lại việc thực hiện chức trách của

18


quan lại, nếu ai không có lỗi thì sẽ được thăng tiến và quy định thưởng cho
người tố cáo hành vi làm quyền của quan lại trong việc thu thuế quá quy định.
1.1.3.2. Thời kỳ Hậu Lê.
Tiếp nối các quan niệm và kinh nghiệm chống tham nhũng của thời kỳ
trước, quan niệm về tham nhũng đã có những bước phát triển. Tuy nhiên có
thể nhận thấy rằng ở thời kỳ này quan niệm về tham nhũng vẫn chưa có sự

khái quát vẫn chỉ quy định mang tính mô tả cụ thể từng hành vi lợi dụng chức
vụ quyền hạn để mưu lợi cá nhân trong mối quan hệ với nhân dân hoặc với
công quỹ Nhà nước. Song so với thời trước quan niệm về tham nhũng thời kỳ
này đã tiếp cận đúng bản chất của hành vi tham nhũng, chúng ta có thể nhận
thấy rõ điều này qua sự điều chỉnh pháp luật với việc dành nhiều quy định
trong chương Đoán ngục (xử án) của Bộ luật Hồng Đức để điều chỉnh các
hành tham nhũng trong hoạt động tư pháp - một lĩnh vực phổ biến xảy ra các
hành vi tham nhũng. Cùng với sự phát triển của quan niệm về tham nhũng thì
các biện pháp và hình thức chống lại các hành vi này cũng được triều đại thời
kỳ này quan tâm từ việc xử phạt nghiêm minh trực tiếp các hành vi lợi dụng
chức quyền để mưu lợi cá nhân cho đến các biện pháp gián tiếp như việc giáo
dục đội ngũ quan lại.
1.1.3.3. Thời kỳ nhà Nguyễn.
Quan niệm về tham nhũng thời kỳ này ngày càng sát hơn với bản chất
của hành vi lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân. Tuy vẫn chưa có sự khái
quát hóa cao hành vi “tham nhũng”, nhưng những dạng thức cụ thể của hành
vi này so vời thời kỳ trước đã được bổ sung đầy đủ hơn.
Điều đặc biệt của thời kỳ này đã nhận thức rõ được tệ tham nhũng, hối
lộ là căn bệnh đồng hành cùng đội ngũ quan lại, thấy rõ được tác hại của vấn
đề này; từ đó tìm ra những nguyên nhân mang tính bản chất của việc phát
sinh các hành vi này và đưa ra biện pháp khắc phục. Về việc xử lý đối với các
hành vi tham nhũng, thời kỳ này vẫn tiếp tục chính sách coi đây là tội

19


hình và trừng trị rất nghiêm khắc đối với những viên quan nào có hành vi
tham nhũng.
1.1.4. Các dấu hiệu đặc trưng, nguồn gốc và nguyên nhân của hành vi
tham nhũng - nhìn từ góc độ pháp luật.

1.1.4.1. Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng.
Như phần trên đã phân tích không chỉ ở nước ta mà ngay cả trên thế giới
cũng còn có các khái niệm khác nhau về tham nhũng. Và tương ứng với mỗi
loại khái niệm thì cũng có nhứng dấu hiệu của tham nhũng cũng khác nhau.
Do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội … của mỗi quốc gia khác nhau dẫn
đến các khái niệm có khác nhau về phạm vi, mức đô, hành vi. Tuy nhiên về cơ
bản các loại khái niệm đều thống nhất với nhau về ba đặc trưng sau:
– Vị trí công tác, nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
– Sự lợi dụng vị trí đó;
– Có mục đích vụ lợi (cho mình hoặc cho ngưòi khác).
Phân tích khái niệm “tham nhũng” theo quy định của pháp luật Việt
Nam, có thể thấy tham nhũng có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn.
Đặc điểm của tham nhũng là người có hành vi này phải là người có chức
vụ quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức,
viên chức; Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ
lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3 Điều 1 Luật Phòng chống tham
nhũng)
Nhìn chung, những đối tượng này có những đặc điểm đặc thù so với các
nhóm đối tượng khác, như họ thường là những người có quá trình công tác và
20


có uy tín xã hội nhất định và thậm trí có cả thế mạnh về kinh tế. Chính những
đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn

cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
Thứ hai, chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Trong hành vi tham nhũng thì kẻ tham nhũng phải là người sử dụng
chức vụ quyền hạn của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho
mình hoặc cho gia đình mình hoặc cho người khác . Đây cũng là một yếu tố
rất cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn
nhưng không lợi dụng chức vụ quyền hạn đó thì không thể coi đó là hành vi
tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi đều được coi là hành vi tham
nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành này với hành vi phạm tội khác do vậy
cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
Thứ ba , động cơ, mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi.
Hành vi tham nhũng là hành vi có động cơ, mục đích. Mục đích của hành
vi tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi một
cách vô tình thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây
phải được hiểu là lợi ích “vật chất” lợi ích “phi vật chất” mà người có chức
vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham
nhũng. Như vậy, trong hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham
nhũng phải đạt được lợi ích rồi mà lợi ích này có thể sẽ hình thành trong
tương lai.
Liên quan đến yếu tố vụ lợi có thể thấy một trong những hạn chế của
pháp luật hiện nay là trong đa số các trường hợp chỉ nhằm vào những lợi ích
vật chất mà những kẻ tham nhũng đạt được để từ đó đánh giá tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi, trên cơ sở đó để quyết định hình phạt. Lợi ích vật
chất hiện nay trong cơ chế thị trường có con đường đi hết sức phức

21



tạp, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá
lợi ích mà kè tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ (trong các tội danh
được quy định trong Bộ luật Hình sự thì việc xác định giá trị tài sản tham
nhũng đều được tính ra tiền để xác định mức độ nguy hiểm và quyết định hình
phạt). Hơn nữa lợi ích vật chất và tinh thần (phi vật chất) đan xen rất khó phân
biệt. Chẳng hạn sử dụng vật chất để tạo ra những lợi ích tinh thần làm tiền đề
cho việc vụ lợi những lợi ích vật chất sau này.
1.1.4.2. Nguồn gốc của tham nhũng
Khi nghiên cứu khái niệm và đặc trưng của tham nhũng, chúng ta biểu
hiện cơ bản của vấn đề này là quyền lực và lợi ích cá nhân, hay nói cách khác
tham nhũng luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân. Qua nhiên cứu về tham
nhũng ở Việt Nam cũng như trên thế giới qua các thời kỳ lịch sử có thể nhận
thấy:
– Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự xuất hiện chế độ
tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước,
quyền lực nhà nước và các quyền lực công cộng khác.
– Cùng với sự phát triển của các hình thái Nhà nước thì kinh tế thị trường
và sự can thiệp của Nhà nước là những tiền đề khách quan quan trọng làm cho
nạn tham nhũng phát triển
– Vấn đề lợi ích cá nhân là yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi yếu
tố lợi ích kết hợp với sự tha hóa, biến chất, xuống cấp về đạo đức của
những người có chức vụ, quyền hạn..
Từ đó có thể thấy rằng tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức
độ khác nhau. Chừng nào còn nhà nước và các hình thức quyền lực chính trị
bị tha hóa bởi thói tham lam, ích kỷ thì còn xảy ra tham nhũng. Có thể co
tham nhũng là căn bệnh bẩm sinh của quyền lực. Nhận thức như vậy không
đồng nghĩa với việc coi tham nhũng là điều đương nhiên phải chấp nhận trong
bộ máy nhà nước mà để chúng ta có nhận thức rõ ràng về nguy cơ tiềm


22


tàng của nó trong hoạt động của bộ máy nhà nước từ đó có các biện pháp để
“ngăn chặn tiến tới đẩy lùi” tệ nạn này.
1.1.4.3. Nguyên nhân của tham nhũng
Nếu coi nguyên nhân là những yếu tố trực tiếp dẫn đến phát sinh hành vi
tham nhũng thì có thể coi nguyên nhân của tham nhũng gồm ba yếu tố sau:
(1)Lòng tham; (2)Quyền lực; (3) Những điều kiện về cơ chế thiếu chặt chẽ
hoặc sự kiểm soát lỏng lẻo. Có lòng tham nhưng không có quyền lực thì muốn
cũng cũng không thể tham nhũng; có quyền lực nhưng quyền lực đó được trao
cho những người có tâm và đức, hy sinh vì lợi ích chung, vì nước, vì dân thì
cũng không dẫn đến tham nhũng; có quyền lực, có lòng tham nhưng việc thực
hiện quyền lực được kiểm soát chặt chẽ thì dù muốn cũng không thể tham
nhũng. Với phương châm “bốn không” (làm cho công chức không thể, không
muốn, không muốn, không cần và không dám tham nhũng trong chiến lược
chống tham nhũng của Singapore thực ra xuất phát từ việc đánh giá các
nguyên nhân của tham nhũng như đã nêu trên). Mặc dù coi đó là ba yếu tố cơ
bản dẫn đến hành vi tham nhũng nhưng cũng phải thấy rằng các yếu tố này
cùng tồn tại và biểu hiện khác nhau trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước cụ
thể, thậm trí từng giới, từng độ tuổi cũng khác nhau. Việc nhận diện tham
nhũng và nguyên nhân tham nhũng trong từng lĩnh vực cụ thể là hết sức quan
trọng trước khi đưa ra các “phương thuốc” để điều trị căn bệnh này.
1.2. Thực trạng, nguyên nhân và tác hại của tệ tham nhũng tại Việt
Nam.
1.2.1. Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay
1.2.1.1. Thực trạng tham nhũng và những khó khăn trong việc đánh giá
thực trạng tham nhũng hiện nay.
Hiện nay, tham nhũng cùng với lãng phí gây thiệt hại lớn về tài sản của
Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm

hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, xói mòn lòng tin của nhân dân, là
một trong những nguy cơ đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ ta.

23


Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham
nhũng, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm
phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt được những
kết qủa ban đầu. Tuy nhiên, nạn tham nhũng vẫn diễn ra hết sức phổ biến, có
nguy cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp. Thậm trí tham nhũng đã ăn sâu vào tư
duy và tác phong làm việc hàng ngày của một số cán bộ, công chức, làm giảm
hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước, gây bức xúc trong nhân dân. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ
“Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, bức xúc nhất hiện nay là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm
chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn rất nghiêm
trọng, kỷ cương phép nước nhiều việc, nhiều lúc còn chưa nghiêm” [8,tr.3].
Mới đây, hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã nhận định “Tham nhũng, lãng phí vẫn
diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi
rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ ta”[7,tr.12] Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính chất,
mức độ, những tác hại và những quyết tâm chính trị thành những biện pháp cụ
thể để ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này.
1.2.1.2. Đánh giá chung tình hình tham nhũng từ góc độ kinh tế - xã hội
và pháp luật.
Trước hết có thể nói một cách khái quát rằng tình trạng tham nhũng hiện

nay đang trong chiều hướng phát triển và đã trở thành một trong bốn nguy cơ
đe doạ sự tồn vong của chế độ. Trước kia, tham nhũng chỉ dừng lại như những
hành vi tiêu cực của một số ít cán bộ đảng viên hư hỏng, thoái hóa biến chất,
những hành vi mang tính chất nhỏ lẻ của những người trực tiếp quản lý tiền,
tài sản nhà nước. Cho nên những năm trước 1990 chúng ta không mấy khi sử
dụng khái niệm “tham nhũng”, một khái niệm chỉ những
24


×