Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.81 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ MẠNH HÀ

TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI
KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M TRONG
LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ MẠNH HÀ

TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI
KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M TRONG LUËT
H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

HỒ MẠNH HÀ


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM..........7
1.1.

Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình

sự đối với tội không tố giác tội phạm...............................................7

1.1.1.

Khái niệm tội không tố giác tội phạm................................................. 7

1.1.2.

Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. .10

1.2.

Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm....................................................................................12

1.3.

Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm....................................................................13

1.3.1.

Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm.........13

1.3.2.

Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
15

1.4.


Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1999...................................................................................15

1.4.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985...........................................................................................15

1.4.2.

Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985...........................................18

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1...............................................................................23


Chƣơng 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ
GIÁC TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN 24
2.1.

Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999

2.1.1.

Cơ sở trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999


2.1.2.

33

Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

2.2.

24

Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999

2.1.3.

24

42

Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm 44

2.3.

Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm tại Tòa án nhân dân 47

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2...............................................................................60

Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG
TỐ GIÁC TỘI PHẠM 61
3.1.

Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm

61

3.1.1.

Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa..................61

3.1.2.

Yêu cầu tổ chức, triển khai áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015........62

3.1.3.

Yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm........................................63

3.1.4.

Yêu cầu xử lý tội phạm..................................................................... 63

3.2.

Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm


64


3.2.1.

Tổ chức tập huấn, hƣớng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015...64

3.2.2.

Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trách nhiệm hình sự về tội
không tố giác tội phạm

65

3.2.3.

Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ - đạo đức nghề nghiệp............73

3.2.4.

Giải pháp về tổ chức bộ máy - cán bộ...............................................75

3.2.5.

Những giải pháp khác........................................................................78

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3...............................................................................80
KẾT LUẬN....................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCA:

Bộ công an

BCT:

Bộ tài chính

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BNN&PTNT:

Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

BQP:

Bộ quốc phòng

CTTP:


Cấu thành tội phạm

HĐXX:

Hội đồng xét xử

LHS:

Luật hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Bảng 2.1:


Bảng 2.2:


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay đất nƣớc ta đang tiến bƣớc trên con đƣờng đổi mới, đời sống
nhân dân từng bƣớc đƣợc nâng cao, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội đạt
đƣợc nhiều thành tựu, quan hệ đối ngoại đƣợc mở rộng, hợp tác quốc tế đƣợc
tiến hành chủ động và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực, nền kinh tế thị trƣờng cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong
đó có nhiều vấn đề liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm đặc biệt là những vấn đề liên quan tới công tác phòng chống tội phạm
thông qua hoạt động tố giác tội phạm của công dân.
Theo quy định của pháp luật thì công dân phải có nghĩa vụ tố giác tội
phạm với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra,
cũng nhƣ tạo điều kiện giúp các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [27, Điều 46].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Các tổ chức, công dân có
quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...” [24, Điều 25].
Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực ngày
01/07/2016 cũng đã quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát
hiện, tố giác, báo tin về tội phạm ; tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm” [29, Điều 5, Khoản 2].


1


Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, bên cạnh một bộ phận
ngƣời dân thực hiện tốt nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan có thẩm quyền
góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội còn có một bộ phận không nhỏ đã
không thực hiện tròn nghĩa vụ tố giác tội phạm của mình, dẫn đến hậu quả
khó lƣờng.
Vấn đề này càng trở nên nhức nhối khi thời gian vừa qua liên tục xảy ra
những vụ trọng án gây chấn động dƣ luận có liên quan đến tội danh này, điển
hình là: vụ án Lê Văn Luyện giết ngƣời cƣớp tài sản tại Bắc Giang, vụ án
Dƣơng Chí Dũng tham nhũng tại Vinalines, hay gần đây là vụ giết lái xe CRV
– Kiều Hồng Thành tại Hà Nội… Trong các vụ án đó có cả những cá nhân có
chức vụ, quyền hạn trong Bộ máy Nhà nƣớc, am hiểu pháp luật song vẫn vi
phạm quyền, nghĩa vụ của mình- không tố giác tội phạm với các cơ quan có
thẩm quyền.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu xuất phát từ việc thiếu hiểu biết
pháp luật của công dân, hoặc do xuất phát từ quan hệ tình cảm, do nể nang, lo sợ
bị trả thù...Trong khi đó, những quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm còn nhiều điểm cẩn phải tiếp tục nghiên cứu,
làm rõ. Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng
liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm trong thời điểm này càng có ý nghĩa quan trọng đối với thực
tiễn, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc xác định trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Trách nhiệm hình sự đối với
tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" là đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình và đƣợc cơ sở đào tạo chấp thuận.


2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề câpp̣ trƣcp̣ tiếp hoăcp̣
gián tiếp trong các công trình nghiên cứu khác nhau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu dƣới dạng tài liệu chuyên khảo,
tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học nhƣ:
Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật
Hình sự của GS. TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ
biên), tái bản 2007; Trách nhiệm hình sự và hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa, Nxb Công an nhân dân 2004; Sách chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm
hình sự - TS.Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia 2013; Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (phần chung) của Trƣờng đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân năm 2010, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa luật- Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005...
Thứ hai, các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết đăng trên các
tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo nhƣ:

“Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tội không tố giác tội phạm” của
TS.Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiếm sát số 23 tháng 12 năm 2005:
"Mấy ý kiến về Điều 314 Bộ luật hình sự về tội không tố giác tội phạm” của
tác giả Vũ Thành Long đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 10-2005;
"Một số vấn đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
người bị hại trong các vụ án hình sự" của ThS. Trần Đại Thắng đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 24, tháng 12- 2005; "Một số bất hợp lý trong các quy định về
tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm" của tác giả Thái Văn
Đoàn đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19 tháng 10-2005...

Tuy các công trình nghiên cứu đều có đề cập đ ế n c á c v ấn đ ề li ên

3


q u an đ ế n tội không tố giác tội phạm ở các khía cạnh khác nhau, nhƣng
chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích khoa h ọc để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm. Tƣƣ̀ đó, luâṇ văn đƣa ra các gi ải pháp bảo đảm áp
dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội danh này, đặc biệt trong bối cảnh
Bộ luật hình sự 2015 sắp có hiệu lực thi hành, góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự từ phía cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền.
3.2. Nhiêṃ vu ̣nghiên cứu
Tƣƣ̀ mucp̣ đich́ nghiên cƣ́u nêu trên,luâṇ văn cónhƣƣ̃ng nhiêṃ vu p̣chủyếu sau:

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm.
Nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo
quy định BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân.
Từ đó luận văn đƣa ra những yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đƣợc triển khai nghiên cứu trên đối tƣợng là trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.


4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luâṇ văn nghiên cƣ́u vàgiải quyết nhƣƣ̃ng vấn đềxung quanh trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo pháp luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn xét xử sơ thẩm, trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
tại Tòa án nhân dân. Từ kết quả nghiên cứu những vấn đề này luận văn đƣa ra
các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lƣợng hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
5.

Phƣơng pháp luâṇ và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vềnhànƣớc vàpháp luâṭ; quan điểm, định
hƣớng của Đảng vàNhànƣớc ta vềxây dƣngp̣ nhànƣớc pháp quyền , về chính
sách hình sự , đƣờng lối đấu tranh phòng chống tôịphaṃ đƣơcp̣ thểhiêṇ trong
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII , IX, X vàcác Ngh ị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/T ngày 26/05/2005 vềchiến lƣơcp̣ cải cách
tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng phƣơng
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ phƣơng pháp phân tích
và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp diễn dịch, quy
nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng
đƣợc nghiên cứu trong luận văn; phƣơng pháp khảo sát thực tiễn để minh họa
cho từng vấn đề cần thiết.

6.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

Kết quảnghiên cƣ́u của luâṇ văn ở một mức độ nhất định cóýnghiã

5


quan trongp̣ vềphƣơng diêṇ lýluâṇ vàthƣcp̣ tiêñ , vì đây là công trìn h nghiên
cƣ́u chuyên sâu ởcấp đô m
p̣ ôṭluâṇ văn thacp̣ si ƣ̃luâṭhocp̣ vềtrách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm , mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề về lý
luâṇ vàthƣcp̣ tiêñ liên quan tới đề tài trên . Những nội dung của luận văn góp
phần làm phong phú thêm lý luận về trách nhiệm hình sự nói chung và trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm nói riêng.
Từ một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với
tội không tố giác tội phạm, luận văn góp phần đƣa những quy định của Bộ
luật hình sự về tội không tố giác tội phạm vào trong thực tế , đảm bảo áp dụng
đúng trách nhiệm hình sự , mở ra những phƣơng hƣớng nghiên cứu mới
trong tƣơng lai , đồng thời tạo thuâṇ lơị cho hoaṭđôngp̣ áp dungp̣ pháp luâṭcủ a
cơ quan cóthẩm quyền;
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn đặc biệt đội ngũ thẩm
phán trong ngành tòa án nhân dân các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội

không tố giác tội phạm.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm
1.1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm tới các khách thể do luật hình sự bảo vệ.
Thông tƣ liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNTVKSNDTC quy định: “Tố giác về tội phạm là thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết” [2, Điều 3, Khoản 1].
Không tố giác nghĩa là không báo cho các cơ quan có thẩm quyền về
những tin tức về tội phạm mà mình biết rõ [6, tr. 667].
Không tố giác tội phạm là hành vi không báo với cơ quan, tổ chức biết
về tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực
hiện mà mình biết rõ, đồng thời họ có khả năng tố giác, không gặp bất kì một
trở ngại khách quan nào.
Hành vi không tố giác tội phạm đã đƣợc BLHS của nhiều quốc gia trên
thế giới điều chỉnh. Trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam thì hành vi

này cũng đã đƣợc tội phạm hóa từ rất lâu, đến BLHS năm 2015 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/07/2016 tiếp tục quy định hành vi này là tội phạm với một
số điểm mới quan trọng. Sở dĩ nhà làm luật quy định hành vi này là tội phạm
xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội đáng kể của hành vi này.

7


Hành vi này đã xâm phạm tới một trong những khách thể quan trọng
của luật hình sự đó là hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Hành vi này không những gây khó khăn, cản trở cho cơ
quan chức năng trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, mà còn lảm ảnh hƣởng tới hiệu quả, tính kịp
thời, nhanh chóng của công tác điều tra, truy tố, xét xử,thi hành án của cơ
quan chức năng, làm giảm hiệu lực-chức năng của bộ máy nhà nƣớc.
Đề cấu thành tội này đòi hỏi ngƣời phạm tội phải nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc phát hiện điều tra, xử lý tội phạm nhƣng vẫn thực hiện –
không tố giác, tức là ngƣời phạm tội luôn thực hiện hành vi không tố giác
dƣới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Đồng thời ngƣời đó phải biết rõ tội phạm
mà mình không tố giác là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện
hoặc đã đƣợc thực hiện.
Biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã
đƣợc thực hiện tức là ngƣời đó phải biết hành vi của ngƣời phạm tội, nhận
thức đƣợc hành vi đó là hành vi cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, cần phân biệt hành vi không tố giác tội phạm với hành vi
đồng phạm của chính tội không tố giác đó. Trong đồng phạm, nếu tất cả
những ngƣời liên quan cùng thực hiện một tội phạm (bất kỳ ngƣời nào tham
gia đều nhằm thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy thực hiện tội phạm), nếu họ
tham gia một trong các hành vi nhƣ: Hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm

(ngƣời thực hành), hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (ngƣời tổ chức), hành
vi

xúi giục ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời xúi giục), hành vi giúp sức

ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời giúp sức). Và tất cả hành vi của những
ngƣời tham gia phải có sự liên kết thống nhất với nhau hành vi của ngƣời này
phải là tiền đề cho hành vi của ngƣời khác, hành vi của mỗi ngƣời phải có

8


mối quan hệ nhân quả với việc thực hiện tội phạm chung và hậu quả của tội
phạm chung đó. Đồng thời, tất cả những ngƣời tham gia đều có lỗi cố ý, tức
là mỗi ngƣời phải nhận thức đƣợc hành vi của mình và của ngƣời khác là
nguy hiểm; thấy trƣớc hậu quả hành vi của mình và của ngƣời khác gây ra,
mong muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả phát
sinh. Nếu không tố giác một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực
hiện, hoặc đã thực hiện mà mình biết rõ nhƣng thỏa mãn các dấu hiệu khách
quan và chủ quan trên thì về bản chất không còn là hành vi không tố giác tội
phạm nữa mà là hành vi đồng phạm.
Ngoài ra, nếu nhƣ một ngƣời hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác hành vi
phạm tội của ngƣời khác khi ngƣời đó chuẩn bị hoặc thực hiện hành vi phạm
tội thì hành vi này không còn là hành vi không tố giác tội phạm mà về bản
chất là hành vi đồng phạm. Bởi việc hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác tội phạm
là một dạng của hành vi giúp sức về tinh thần, có tác dụng củng cố ý chí và
quyết tâm thực hiện tội phạm của ngƣời khác, nên trƣờng hợp này cần phải
xác định là hành vi đồng phạm.
Theo đó, tác giả đƣa ra khái niệm tội không tố giác tội phạm nhƣ sau:
Tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do ngƣời

có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố
ý trực tiếp,mặc dù không có sự hứa hẹn trƣớc nhƣng khi biết rõ một tội phạm
đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã thực hiện theo quy định
của Bộ luật hình sự mà không tố giác với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền,
qua đó xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố
xét xử.

9


1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

Về khái niệm TNHS hiện nay khoa học pháp lý còn nhiều quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thống nhất hiện nay thừa nhận TNHS là một loại trách
nhiệm pháp lý.
Khái niệm trách nhiệm pháp lý vốn cũng đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa,
do vậy khái niệm TNHS cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm cho rằng, Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của ngƣời
phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình [37, tr. 80], [41, tr. 162];
Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý hình sự, phát sinh
từ khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội [40, tr. 59].
Trách nhiệm hình sự là những hậu quả pháp lý bất lợi mà ngƣời phạm
tội phải chịu trƣớc Nhà nƣớc [46, tr. 106];
Trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của một ngƣời phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi trƣớc Nhà nƣớc về hành vi phạm tội của mình thể hiện ở việc
ngƣời phạm tội bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo

quy định của pháp luật [17, tr. 316];
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội, đƣợc thể hiện ở các
biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy định, áp
dụng đối với ngƣời thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện pháp
tác động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt và đƣợc bắt
đầu từ khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một ngƣời [15, tr. 8];
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu

10


sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, biện pháp cƣỡng chế
của TNHS hình phạt, biện pháp tƣ pháp và chịu mang án tích [16, tr. 126];
Quan điểm khác cho rằng, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do luật hình sự quy định [3, tr. 122];

TNHS là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc đƣợc
áp dụng đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội [47, tr. 3];
TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ ngƣời đã
gây ra tội phải chịu TNHS về hành vi của mình trƣớc nhà nƣớc [42, tr. 41];
TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của ngƣời khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong pháp luật hình
sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện [19, tr. 14];
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, kết quả của
việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và đƣợc thể hiện trƣớc hết ở việc
kết án của Tòa án, nhân danh Nhà nƣớc, đối với ngƣời phạm tội [13 tr. 91];


Nhƣ vậy, về khái niệm TNHS còn rất nhiều quan điểm khác nhau, tuy
nhiên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm đó là những hậu quả pháp lý bất lợi
của việc thực hiện tội phạm.
Từ những quan điểm trên, tác giả có quan điểm nhƣ sau:
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, đó là trách nhiệm của
ngƣời phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm đối với nhà nƣớc và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng một hay nhiều
biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối với
ngƣời phạm tội.

11


Qua đó, theo tác giả TNHS đối với tội không tố giác tội phạm đƣợc
hiểu nhƣ sau:
TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là một dạng của trách nhiệm
pháp lý, đó là trách nhiệm của ngƣời biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị,
đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không tố giác, phải chịu
những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm đó đối với nhà
nƣớc và đƣợc thể hiện bằng bản việc áp dụng một hay nhiều biện pháp
cƣỡng chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối với ngƣời phạm tội.
1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác
tội phạm
TNHS đối với tội không tố giác tội phạm có các đặc điểm chung của
TNHS như
Thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
Đặc điểm này thể hiện, hậu quả pháp lý này chỉ phát sinh khi có ngƣời
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không
thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện, hay
nói cách khác không có việc thực hiện tội phạm thì cũng không xuất hiện vấn

đề TNHS.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì hậu quả pháp lý xuất hiện khi
chủ thể không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật hình sự quy định đó là nghĩa
vụ phải tố giác tội phạm khi biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc
thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện.
Thứ hai, TNHS đƣợc biểu hiện cụ thể ở việc ngƣời phạm tội phải chịu
biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt, biện pháp
tƣớc bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp khác.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì TNHS thể hiện ở việc chủ thể

12


phải chịu những biện pháp cƣỡng chế nhƣ hình phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Thứ ba, TNHS mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối
với Nhà nƣớc. Đặc điểm này thể hiện TNHS mà ngƣời thực hiện tội phạm
phải gánh chịu không phải đối với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của
họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại mà là đối với Nhà nƣớc.
Thứ tư, TNHS phải đƣợc phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.
Ngoài ra, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm còn có những đặc
điểm riêng nhƣ:
Thứ nhất, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm thông thƣờng đƣợc
xác định kèm theo TNHS đối với các tội danh mà ngƣời phạm tội không tố giác.

Đây là đặc điểm rất đặc thù, do TNHS đối với tội không tố giác tội
phạm chỉ đƣợc đặt ra khi có một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc
thục hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không đƣợc tố giác. Nói cách khác,
không có việc phạm tội cụ thể nào đó xảy ra thì cũng không có tội không tố

giác tội phạm và do đó cũng không đặt ra vấn đề TNHS đối với tội này.
Thứ hai, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm không có việc áp
dụng hình phạt bổ sung hoặc các biện pháp tƣ pháp theo quy định của pháp
luật hiện hành.
1.3. Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm
1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm
Cơ sở của TNHS đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau, trong
khoa học luật hình sự Việt Nam, các quan điểm chính của nhà hình sự học tập

13


trung chủ yếu làm rõ cơ sở vật chất của TNHS, nhƣ đó là: Sự hiện diện của
tất cả những dấu hiệu do luật quy định về tội phạm [42, tr. 43];
Là hành vi của một ngƣời khi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội
phạm đƣợc quy định trong luật hình sự [19, tr. 18];
Hoặc là “Tội phạm-hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố
cấu thành tội phạm” [12, tr. 182];
Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm của GS.TSKH.Lê Cảm khi
nghiên cứu cơ sở của TNHS cần tiếp cận trên ba bình diện: về mặt nội dung
hay vật chất khách quan; về mặt hình thức bên ngoài, về mặt quy phạm pháp
lý:
Cơ sở khách quan của TNHS: Cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm [4, tr. 631].
Theo đó, cơ sở khách quan của TNHS đối với tội không tố giác tội
phạm là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi không tố giác
tội phạm) mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Cơ sở hình thức của TNHS là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và
do luật hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nƣớc

có thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của ngƣời đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [4, tr. 632].
Theo đó, cơ sở hình thức của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm
là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà chỉ có
và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể đặt ra
vấn đề TNHS của người không tố giác tội phạm theo những trường hợp bị
luật hình sự cấm.
Cơ sở pháp lý của TNHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ

14


các dấu hiệu của CTTP cụ thể tƣơng ứng đƣợc ghi nhận trong pháp luật hình
sự [4, tr. 633].
Theo đó, thì cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội
không tố giác tội phạm quy định trong pháp luật hình sự.
1.3.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

Hình thức của TNHS là những biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc
đƣợc quy định trong luật hình sự để thực hiện TNHS và chỉ đƣợc áp dụng đối
với ngƣời bị coi là có lỗi trong việc phạm tội.
Các hình thức của TNHS đó có thể là các biện pháp cƣỡng chế về hình
sự nghiêm khắc nhất- các hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cũng có thể
là các biện pháp cƣỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn nhƣ các biện pháp
tƣ pháp, miễn hình phạt.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì các hình thức của TNHS có tình
đặc thù hơn so với các hình thức TNHS của các tội danh khác, các hình thức
TNHS này thường nhẹ hơn so với các tội khác và thường được áp dụng cùng
với các tội danh mà người phạm tội không tố giác.

1.4. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong
pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1999
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình
sự năm 1985
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời
của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa chính trị-lịch sử này, bên cạnh
việc hình thành một nhà nƣớc kiểu mới thì đồng thời cũng đáng dấu mốc
quan trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.

15


Trong giai đoạn đầu khi nhà nƣớc mới thành lập phải đƣơng đầu với
nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan
hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Nhà nƣớc ta đã
ban hành sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ tại
ba miền cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các
quan hệ trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân
chủ cộng hòa.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số
văn bản pháp luật hình sự quan trọng nhƣ: Sắc lệnh số 27 ngày 28/2/1946
nhằm trừng trị các tội bắt cóc tống tiền và ám sát. Sắc lệnh số 133 ngày
20/1/1953 trừng trị những tội xâm phạm đến an toàn Nhà nƣớc, đối nội và đối
ngoại; Sắc lệnh số 267 ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta về trừng trị những
âm mƣu và hành động phá hoại tài sản của nhà nƣớc, của hợp tác xã, của
nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc...nhằm
điều chỉnh một số quan hệ pháp luật hình sự nhất định. Tuy nhiên, những văn
bản pháp luật hình sự này không quy định tội không tố giác tội phạm mà chỉ
quy định một số vấn đề liên quan tới tố giác tội phạm của công dân nhƣ quy

định trách nhiệm của công dân phải tố giác ngƣời phạm tội, khen thƣởng cho
ngƣời có công tố giác tội phạm.
Ví dụ: Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta tại Điều 14
quy định:
Đối với kẻ phạm pháp, nhân dân có nhiệm vụ tố cáo, hoặc
mật báo với cơ quan có trách nhiệm và hết sức giúp đỡ việc điều
tra, xét xử, nhƣng không đƣợc vì thù riêng, lợi ích riêng mà vu cáo.
Ngƣời nào có công trong việc tố cáo, khám phá các vụ phạm pháp,
tóm bắt kẻ có tội, sẽ đƣợc khen thƣởng [5, Điều 14].

16


Trong các năm tiếp theo, nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật quan trọng khác điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự phát sinh nhƣ:
Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng
trị tội hối lội ngày 20/5/1981; Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982...tuy nhiên các văn bản pháp
luật trên cũng không quy định về tội không tố giác tội phạm mà cũng chỉ đề
cập một số vấn đề liên quan, nhƣ khen thƣởng đối với ngƣời có công tố giác
tội phạm.
Ví dụ: Pháp lệnh không số, ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách
mạng, có đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội phạm ở lời nói đầu:
"Để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân, động viên toàn
dân tích cực tham gia giữ gìn trật tự an ninh" [43, Lời nói đầu].
Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài
sản xã hội chủ nghĩa: "Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ,
công nhân, viên chức, bộ đội và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành động xâm
phạm tài sản đó" [44, Lời nói đầu].

Pháp lệnh trừng trị tối hội lố ngày 20/5/1981 quy định:
Những ngƣời không nhận hối lội và tố giác với cơ quan có
trách nhiệm ngƣời đƣa hối lộ hoặc ngƣời môi giới hối lộ thì đƣợc
khen thƣởng theo quy định chung của nhà nƣớc. Những ngƣời tố
giác và giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm trừng trị tội hối lội thì đƣợc
khen và đƣợc thƣởng bằng tiền 10% giá trị của hối lội đã bị tịch
thu [45, Điều 12].
Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép (ban hành ngày 30/6/1982) đã quy định:

17


×