Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tội phạm , pháp luật phong kiến, Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.3 KB, 5 trang )

Những giá trị của cách phân loại trong tội phạm trong pháp luật phong kiến không chỉ có ý
nghĩa trong xã hội phong kiến mà phần nào đã được các nhà làm luật hiện nay kế thừa, phát
triển và vận dụng một cách triệt để vào hoàn cảnh mới của thời đại. Cùng tôi đi giải quyết các
vấn đề sau các bản sẽ hiểu thêm về: “ Các cách phân loại tội phạm trong các bộ luật phong kiến
Việt Nam và ý nghĩa của việc phân loại tội phạm đó’’
1. Quan niệm về tội phạm trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Các nhà làm luật thời phong kiến đã nhận biết và thấy được các quan niệm về tội phạm
nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ là những quan điểm chứ chưa đưa ra được các khái niệm và
định nghĩa rõ ràng. Tuy không có những định nghĩa cụ thể về tội phạm là gì nhưng trong Bộ Quốc
Triều Hình Luật (QTHL) thời Lê đã có những quan niệm về tội phạm là việc xâm hại đến sự an
toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà trước hết là sự an toàn của nhà vua và
hoàng cung (nhóm tội Thập ác), xâm phạm trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan điểm Nho
giáo, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. Đến thời nhà Nguyễn,
trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) cũng không có những định nghĩa chung về tội phạm mà chỉ
đi thẳng vào các qui định cụ thể đối với từng loại tội.
Nhà làm luật phong kiến quan niệm về tội phạm theo hướng thiên về dấu hiệu của hình thức
phạm tội, những dấu hiệu đó phải được quy định trong luật mới bị coi là phạm tội. Đó là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội ở những mức độ khác nhau như xâm phạm sự an toàn của nhà vua,
hoàng cung, xâm phạm trật tự an ninh xã hội, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác,...
Tất cả những hành vi đó đều bị coi là tội phạm không phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của xã
hôi của hành vi phạm tội.
Nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam cho thấy pháp luật hình sự lúc đó mang
tính phổ biến, có phạm vi trừng trị hay tác động rất rộng dựa trên một quan niệm rất rộng về tội
phạm. Biện pháp trừng trị hình sự được áp dụng không những đối với các tội phạm hiểu theo khái
niệm của luật hình sự hiện đại thuộc đối tượng xử lý của luật hình sự, mà còn đối với cả những
hành vi vi phạm những quy định về các quan hệ trong lĩnh vực sinh hoạt hành chính, lễ nghi, gia
đình, dân sư, ruộng đất, thuế…mà trong xã hội hiện đại đối với những hành vi đó thường được áp
dụng những chế tài hành chính, dân sự hoặc những chế tài khác không mang tính chất hình sự.
2. Các cách phân loại tội phạm trong các Bộ luật phong kiến Việt Nam
Qua việc tham khảo một số tài liệu tôi thấy có nhiều cách phân loại tội phạm khác nhau
khá hợp lí thể hiện được sự bao quát về các cách phân loại tội phạm trong các bộ luật phong


kiến. Để nhìn nhận một cách tổng quát nhất tôi xin khái quát thành các cách phân loại sau
đây:
2.1. Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt (chế tài)
Đây là cách phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt được quy định cho tội đó. Hệ thống
hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được chia làm hai loại là ngũ hình: xuy hình
(đánh bằng roi); trượng hình(đánh bằng gậy); đồ hình(tù khổ sai); lưu hình(đi đày); tử hình (giết
chết) và các hình phạt ngoài ngũ hình, trong đó các hình phạt thuộc về ngũ hình đóng vai trò chủ
đạo, và các hình phạt ngoài ngũ hình thường được coi là phụ hình kèm với chính hình trong ngũ
hình. Năm loai tội phạm đó, xét về mặt nội dung có sự phong kiến Việt Nam khác nhau về mức
độ của tính nguy hiểm xã hội, chính vì thế nó trở thành một tiêu chí để phân loại tội phạm.
Trong các bộ luật, tội phạm nhiều chỗ cũng được gọi bằng các tội danh như: tội xuy, tội trượng, tội đồ,
tội lưu, tội tử. Cụ thể theo điều 1 chương Danh lệ của Quốc triều hình luật (QTHL) cũng như Hoàng Việt
luật lệ (HVLL) thì: Tội xuy: có 5 bậc, từ 10 đến 50 roi gồm 10, 20, 30, 40, 50 roi. Tội trượng: có 5 bậc từ 60
đến 100 trượng gồm 60, 70, 80, 90, 100 trượng. Tội đồ:Theo QTHL: 3 bậc, phân biệt giữa công việc của
đàn ông và đàn bà. Đối với đàn ông: 3 bậc bao gồm dịch đinh, tượng phường binh, chung điền binh. Đối với
1
đàn bà: 3 bậc bao gồm dịch phu, xuy thất tỳ, thung thất tỳ. Theo HVLL: có 5 bậc đồ: 1 năm với 60 trượng;
1,5 năm với 70 trượng; 2 năm với 80 trượng; 2,5 năm với 90 trượng; 3 năm với 100 trượng. Tội lưu: 3 bậc
lưu. Theo QTHL: gồm có lưu cận châu, lưu ngoại châu, lưu viễn châu. Theo HVLL: gồm 2000 dặm với 100
trượng; 2500 dặm với 100 trượng; 3000 dặm với 100 trượng. Tội tử: Theo QTHL: có 3 bậc giảo (thắt cổ),
trảm (chém đầu); trảm kiêu (chém bêu đầu); lăng trì (tùng xẻo). Theo HVLL: có 2 bậc giảo (thắt cổ), trảm
(chém). Ngoài ra còn quy định nhuận tử(chết 2 lần) bao gồm lăng trì (xẻo chậm), trảm kiêu (chém bêu đầu);
lục thi (chặt xác chết). Bên cạnh ngũ hình còn có hình phạt ngoài ngũ hình như biếm, phạt tiền, thích chữ,
tịch thu tài sản, sung vợ con làm nô tỳ… nhưng chủ yếu là hình phạt đi kèm.
Nhiều quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam được xây dựng dựa trên cách phân loại tội
phạm này. Điều 4 QTHL quy định: " Phàm những người thuộc vào tám điều bát nghị xét giảm tội trên này,
mà phạm vào tử tội, thì các quan nghị án phải khai rõ tội trạng và hình phạt nên sử thế nào, làm thành bản tâu,
dâng lên để vua xác định… từ tội lưu trở xuống thì được giảm một bậc". Điều 17 HVLL có quy định:
"Người phạm tội không được ân xá theo bình thường mà ông nội, cha mẹ già trên 70 tuổi… mà gia đình y
không có ai lớn từ 16 tuổi trở lên … thì pháp quan phải điều tra kỹ lưỡng… tâu vua quyết định. Nếu phạm tội

đồ, tội lưu mà cha mẹ già yếu không ai nuôi dưỡng thì xử 100 trượng, tội còn thừa thì nhận giá chuộc, cho ở
nhà nuôi đưỡng cha mẹ".
Theo nhận định, đây là cách phân loại quan trọng nhất, tôi cho sự phân hóa trách nhiệm hình
sự qua các loại hình phạt từ đó có thể biết đâu là tội nặng, đâu là tội nhẹ và là cơ sở cho chúng ta
biết tội đó thuộc thẩm quyền của cấp xét xử nào.
2.2. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm (khách thể)
Tội phạm được chia làm hai loại tội theo tính chất nghiêm trọng là tội thập ác và tội thường
đây thực ra không phải là cách phân loại trực tiếp tội phạm mà đây chỉ là kết quả gián tiếp của
việc liệt kê mười loại tội được coi là nguy hiểm nhất đối với chế độ quân chủ như đối với trật tự,
kỉ cương, đạo đức xã hội. Loại tội thập ác bao gồm mười nhóm tội khác nhau, đó là nhóm mưu
phản, nhóm mưu đại nghịch, nhóm mưu chống đối (mưu phiến), nhóm ác nghịch, nhóm bất đạo,
nhóm đại bất kính, nhóm bất hiếu, nhóm bất mục, nhóm bất nghĩa và nhóm nội loạn. Đối với các
tội thường khác, các nhà làm luật đã căn cứ vào tính chất, mức độ của các hành vi để tạo thành
những nhóm, những chương tương đối hợp lý ốtrừ những điều luật liên quan đến tội thập ác).
Đối với QTHL phân ra như sau: Nhóm tội xâm phạm về an toàn thân thể của vua, xâm phạm sự an
toàn,yên tĩnh, nghi lễ cung phủ. (Chương 2 – Vệ cấm: từ điều 50 đến 96). Nhóm tội xâm phạm lễ nghi, quan
hệ vua tôi, và chê độ quân chủ. (Chương 3 – Vi chế: từ điều 97 đến 240). Nhóm tội phạm về quân sự
(Chương 4 – Quân chính: từ điều 241 đến 283). Nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình, chế độ quản
lý nhân khẩu. (Chương 5 – Hôn nhân: từ điều 284 đến 341). Nhóm tội xâm phạm chế độ quân điền.
(Chương 6-Điền sản: từ điều 342 đến 400). Nhóm tội thông gian. (Chương 7 – Thông gian: từ điều 401 đến
410). Nhóm tội đạo tặc. (Chương 8 – Đạo tặc: từ điều 411 đến 464). Nhóm tội đấu tụng. (Chương 9 – Đấu
tụng: từ điều 465 đến 514). Nhóm tội trá nguỵ. (Chương 10 – Trá nguỵ: từ điều 515 đến 552). Nhóm tội
xâm phạm an toàn nơi đông người. (Chương 11 – Tạp phạm: từ điều 553 đến 644). Nhóm tội bộ vong.
(Chương 12 – Bộ vong: từ điều 645 đến 656). Nhóm tội đoán ngục. (Chương 13 – Đoán ngục: từ điều 658
đến 772). Đối với HVLL: Đạo tặc (giặc cướp): từ điều 223 đến 250 . Nhân mạng (giết người): từ điều 251
đến 270. Đấu ẩu (đánh nhau): từ điều 271 đến 292. Lăng mạ (chửi mắng): từ điều 293 đến 300. Hối lộ (nhận
của đút lót): từ điều 312 đến 320. Trá nguỵ (man trá, giả mạo): từ điều 321 đến 331. Phạm gian (gian dâm):
từ điều 332 đến 340. Tạp phạm (nhóm tội cho phép chuộc bằng tiền): từ điều 341 đến 351.
Các nhóm tội khác như:Vi phạm chế độ quan chức. Vi phạm về dân sự, ruộng đất, nhà ở, cưới gả. Vi phạm
về trật tự nghi chế, lăng tẩm các thời vua. Vi phạm về thương khố, chính sách thuế. Tội phạm về quân sự

lưu thông. Vi phạm về tư pháp xét xử. Vi phạm về xây dựng, đê điều.
Do tính chất nguy hiểm đặc biệt của tôi thập ác nên cả QTHL và HVLL đều thể hiện thái độ
trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước đối với loại tội này. Một trong những biểu hiện đó là các bộ
luật có các quy định loại trừ không cho người phạm tội thập ác được hưởng các chế độ miễn giảm
trách nhiệm hình sự như các tội phạm thường (điều 4 QTHL). Ngoài ra những quy định miễn
giảm cho những trường hợp cụ thể cũng loại trừ trường hợp phạm tội thập ác (Điều 11 QTHL)
Cùng với các quy định chung như vậy, các quy định về các tội cụ thể của tội thập ác cũng thể hiện
thái độ trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước phong kiến đối với tội thập ác.
2.3. Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội
Phân biệt tội phạm dựa theo ý chí của người phạm tội nói đơn giản là sự phân biệt giữa vô ý
phạm tội và cố ý phạm tội. Ngay từ thời Lê, trong bộ luật Hồng Đức đã có những qui định thể
hiện điều này, cụ thể trong Điều 47: " Những người phạm tội, tuy tên gọi tội giống nhau, nhưng phải phân
2
biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý ... không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa xét xử hình án " Tha người lầm lỡ
không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ". Qui định này tuy còn rất chung chung nhưng đã
thể hiện được quan niệm của nhà làm luật thời Lê. Đến thời nhà Nguyễn, quan điểm này đã được
thể hiện rõ nét hơn khi được qui định rõ ràng trong các điều luật. Ví dụ như các điều luật về tội
giết ngừơi thuộc tình tiết giảm nhẹ: Ngộ sát, lầm lẫn xử trượng, đồ, lưu (điều 262); Chồng giết
chết gian phu, gian phụ miễn tội (điều 254)...
Cách phân loại theo ý chí người phạm tội cho ta biết được mức độ trách nhiệm hình sự mà
người phạm tội phải chịu và xác định cách xử lý đối với các loại tội vô ý và cố ý. Tức là, áp dụng
các hình phạt theo hướng giảm nhẹ cho người phạm tội vô ý và tăng nặng với tội cố ý, để thể hiện
được sự nhân đạo của pháp luật.
2.4. Căn cứ theo lỗi của người phạm tội (chủ thể)
Quan điểm này được quán triệt ngay khi xây dựng các điều luật về tội phạm cụ thể, đó là tội
do vô ý sẽ được xử phạt nhẹ hơn. VÍ Dụ: Điều 498 quy định : “vì chơi đùa mà mà làm người khác bị
thương hay chết thì bị xử tội nhẹ hơn tội đánh bị người hay chết người hai bậc...”. Ngoài ra, quan điểm này
cũng chỉ đạo các quan xét xử trong áp dụng luật, đặc biệt khi xét xử các tội phạm mà luật chưa
phân hoá hình phạt trường hợp cố ý và trường hợp vô ý. Đây không phai là trường hợp vi phạm
nguyên tắc pháp chế(vô luật bất hình, pháp căn, luật định) mà theo quan niệm của các nhà làm

luật lúc bấy giờ thì: “Việc người ta phạm không có ghi trong luật lệ đều không thể buộc tội. Nhưng lường đo
tình lý không thể gọi là không có tội nên xử theo bất ưng vi”.
Theo căn cứ này tội phạm được chia thành hai loại là tội do cố ý và tội do vô ý. Pháp luật
phong kiến Việt Nam không quy định nội dung của lỗi cố ý và lỗi vô ý, tức là không có định
nghĩa thống nhất, đồng thời không quy định tội cố ý và tội vô ý riêng rẽ khi quy định tội phạm cụ
thể. Nhưng quy định nguyên tắc chung, các nhà làm luật lại khẳng định rõ quan điểm xử phạt
phân biệt giữa tội cố ý và tội vô ý.
2.5. Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm
Cổ luật chia thành nhiều giai đoạn khác nhau căn cứ theo các giai đoạn thực hiện tội phạm
như: đã hành động, chưa hành động, đã thành, chưa thành... Đặc biệt, cổ luật còn quy định tội
phạm cho các hành vi mới xuất hiện trên phương diện là mưu đồ hoặc là có nguy cơ cao, nhằm
ngăn ngừa hậu quả thiệt hại gây ra cho xã hội, nhưng đặc biệt vẫn là để ngăn chặn các hành vi
nguy hại tới vương quyền của nhà vua, như bộ QTHL có quy định: "những người vào trong cung điện
làm việc hết giờ mà không ra khỏi khu vực ngoại điện thì xử tội lưu, ở trong cung bị xử tội giảo, ở lại nơi vua
nằm thì xử tội chém" (Điều 55).
Ngoài ra, các tội phạm về mưu đồ cũng được qui định rõ ở từng điều lệ trong bộ HVLl như ở
tội Nhân Mạng chia làm 3 hạng mưu sát nhân đã thực hiện nhưng chưa thành, không gây thương
tích; đã làm bị thương hoặc đã thành. Tùy theo giai đoạn mà mức hình phạt khác nhau. Đối với
một số trọng tội ( nhóm tội nguy hại đến vương quyền như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn)
dù chưa có hành vi phạm tội chỉ là âm mưu phạm tội cũng được coi là tội phạm và là tội phạm đã
hoàn thành.
2.6. Phân loại tội phạm đồng phạm
Pháp luật thời Lê đã có những qui định về phạm tội đồng phạm nhưng lại không có những
định nghĩa rõ ràng về đồng phạm và những người đồng phạm. Điều 469- QTHL: " đồng mưu đánh
người bị thương, thì kẻ nào đánh nhiều đòn nặng là thủ phạm, kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội,còn người
tòng phạm thì được giảm một bậc”.
Đến triều Nguyễn, những qui định về đồng phạm cũng đã rõ ràng hơn. Nhà làm luật đã đưa ra
các khái niệm: Đồng phạm là cùng phạm tội gồm chính phạm và tòng phạm. Chính phạm xử nặng
hơn tòng phạm một bậc. Chính phạm là kẻ chủ mưu, tác giả tinh thần, ý đồ, tạo ý, đầu nậu, khởi
3

xướng . Tòng phạm là những người tham gia, thừa hành, hành động hoặc không hành động chia
của, che giấu, xúi giục, giúp đỡ hoặc là cùng thực hiện ( Điều 29- HVLL). Các tội phạm về đồng
phạm cũng được qui định rõ trong các điều luật cụ thể về tội phạm: Ví dụ như tội Nhân Mạng
(giết người) hạng nhẹ nhất là " thực hiện chưa thành , không gây thương tích , chủ mưu xử 100
trượng đồ 3 năm, a tùng cùng mưu xử 100 trượng."
2.7. Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm
Khách thể của quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội bị hành vi xâm hại. Việc căn cứ theo
khách thể của tội phạm để phân loại này có tử thời Nguyễn, bộ Hoàng Việt luật lệ chia tội phạm
ra thành 6 nhóm, tương ứng với 6 quyển trong bộ luật:lại luật gồm 27 điều (quyển 4 - 5); hộ luật
gồm 66 điều (quyển 6, 7, 8); lễ luật gồm 26 điều (quyển 9); binh luật gồm 58 điều(quyển 10 và
11); hình luật gồm 166 điều (quyển 12 - 20); công luật gồm 10 điều (quyển 21). Cách phân loại
này còn được thể hiện gián tiếp thông qua các chế định về Tội thập ác và tội ngoài thập ác, khách
thể trong mối quan hệ này chính là nguyên tắc Tam Cương của Nho giáo( Tam Cương là ba mối
quan hệ cơ bản trong xã hội phong kiến: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng
vợ). Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ. Phụ
tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già
thì phải phụng dưỡng. Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ,
vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng).
2.8. Một số căn cứ được bổ sung
Ngoài các cách phân loại nói trên, từ lý luận hay thực tiễn nghiên cứu, so sánh với pháp luật
lúc bấy giờ và bây giờ, chúng ta còn có thể phân loại theo một số căn cứ sau: Phân loại theo
chương của bộ luật, là mầm mống phân chia thành các ngành luật. Các bộ luật, trừ phần chung
(Danh lệ) ra, các phần riêng còn lại là các nhóm tội khác nhau. Phân loại theo nhân thân người
phạm tội. Ví dụ: phân loại theo tuổi tác, giới tính, phạm tội lần đầu hay tái phạm…Phân loại theo
vai trò của người phạm tội trong việc thực hiện tội phạm: chủ mưu, thủ phạm, a tòng… Ngoài ra
còn có thể dựa vào kết quả của việc thực hiện tội phạm để phân loại ra tội phạm hoàn thành và tội
phạm chưa hoàn thành… Hay cũng có một số tài liệu phân loại theo tuổi tác và tàn tật: Phân loại
theo giớí tính, phân loại theo tiền án (án tích). Mặc dù vậy các cách phân loại trên đây theo tôi
nghĩ khái quát và tổng thể nhất.
3. Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm trong pháp luật phong kiến Việt Nam

Phân loại tội phạm là đòi hỏi cần cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật cũng như
trong áp dụng luật, chính vì vậy, phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong cả ba lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tôi cho rằng nó có những ý nghĩa thiết yếu sau:
Trước tiên, phân loại tội phạm giúp cho các nhà làm luật có thể sắp xếp theo hệ thống các
chương nhóm điều luật dựa trên sự đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Tôi ví dụ: Những tội phạm xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con người được xếp vào
nhóm tội Lăng mạ. Trong nhóm tội Lăng mạ, lại có những hình phạt theo các mức độ khác nhau,
có cả trường hợp cơ bản, tăng nặng lẫn giảm nhẹ. Ngoài ra, việc phân loại còn thể hiện sự phân
hoá trách nhiệm hình sự trong luật, ví dụ: Người già và trẻ em được miễn giảm hình phạt. Người
phạm tội do vô ý được miễn hay giảm nhẹ hình phạt. Người chủ mưu, cầm đầu, tái phạm thì phải
chịu hình phạt nặng hơn…
Hai là, pháp luật phong kiến có rất nhiều tiêu chí để phân loại tội phạm, trong đó có những
cách phân loại có ý nghĩa rất lớn cho việc xây dựng bộ luật hình sự hiện nay, giúp cho các cơ
quan xét xử định tội lượng hình cho chính xác, bởi pháp luật phong kiến có một nguyên tắc quan
4
trọng là: “vô luật, bất hình”. Nó vừa giúp trừng phạt người phạm tội một cách khách quan, chính
xác nhằm bảo vệ những người không có tội và bảo vệ những giá trị của nhà nước phong kiến.
Thứ ba, phân loại tội phạm hỗ trợ cho việc áp dụng luật hiệu quả hơn. Rõ ràng một khi đã sắp
xếp một cách hệ thống các tội phạm cùng các hình phạt đi kèm thì việc áp dễ dàng hơn rất nhiều.
Một người phạm tội cướp, thì hành vi đó sẽ nằm ở chương Đạo tặc, căn cứ vào các tình tiết, nội
dung vụ án, nhân thân người phạm tội thì quan xét xử có thể áp dụng được nhanh và tránh được
lọt lưới tội phạm.
Hơn nữa, sự phân loại trên sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng các khung hình phạt cho các tội
phạm cụ thể cũng như xây dựng các khung hình phạt trong luật hình sự và trong các ngành luật
khác có liên quan các quy định thể hiện sự phân hóa trong đường lối xử lý tội phạm chặt chẽ,
không dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm cho việc ổn định xã hội dễ dàng hơn. Từ đó, giúp
các triều đại phong kiến duy trì và tồn tại được trong thời gian dài.
Ngoài ra, luật tách riêng nhóm tội thập ác ra khỏi các tội thường, nhấn mạnh sự nguy hiểm,
thể hiện quan điểm trừng trị nghiêm khắc đối với hành vi thuộc mười tội thập ác mà luật định.
Bên cạnh đó, một điều luật quy định nhiều tội phạm khác nhau và trong các tội này không xâm

phạm cùng một khách thể nhưng chúng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nên thuận tiện cho
việc xét xử. Như vậy việc phân loại tội phạm đã đặt một hành vi có lên hệ trực tiếp tới một hành
vi phạm tội cụ thể. Ngoài ra phân loại tội phạm thể hiện nguyên tắc luật định sâu sắc và đáp ứng
đòi hỏi áp dụng nguyên tắc nhân đạo. Luật tuy bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị nhưng bên
cạnh đó phải bảo vệ cho quyền lợi của toàn bộ thần dân. Việc miễn giảm trách nhiệm hình sự cho
các đối tượng trong xã hội cũng một phần thể hiện sự quan tâm Nhà nước đối với các đối tượng
thiệt thòi hơn các thành viên khác của xã hội.
Như vậy khái quát lại nhận thấy: Khi dựa vào việc phân loại tội phạm như vậy các nhà làm
luật có các biện pháp xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội. Ngăn chặn việc áp dụng pháp luật
một cách tuỳ tiện, lộng hành, vô pháp, thiếu công bằng trong quá trình giải quyết vụ án. Đề cao
hơn trách nhiệm của các quan, những người có nhiệm vụ xét xử và giải quyết vụ án trong pháp
luật phong kiến, buộc họ phải tôn trọng và tuân thủ những quy định của pháp luật một cách triệt
để, góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ và giữ gìn trật tự xã hội. Việc phân loại tội phạm trong
pháp luật phong kiến còn có những ý nghĩa hết sức to lớn đối với hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp trong thời kỳ hiện nay. Đối với thế hệ hậu sinh, ông cha ta đã để lại một hệ thống các
căn cứ khoa học để xây dựng những bộ luật sau này. Thiết nghĩ những bộ luật mà ta đang cầm
trên tay là thành quả của sự kế thừa và sáng tạo của các nhà làm luật hiện đại, trong đó những cái
cơ bản, tốt đẹp vẫn được gìn giữ.
* * * * *
Chúng ta đều thấy rằng, tuy chưa được xây dựng thành một điều luật như luật hiện đại,
song quan niệm về tội phạm lại rất tiến bộ trong phân loại tội phạm. Mới thấy được kỹ thuật lập
pháp tương đối hoàn thiện các nhà làm luật thời bây giờ. Tôi hi vọng bài viết giúp các bạn hiểu
thêm cách phân loại tội phạm và ý nghĩa của các cách phân loại đó. Theo tôi, những quan niệm
và cách phân loại tội phạm trong cổ luật thực sự là những tinh hoa của dân tộc mà chúng ta
phải trân trọng, giữ gìn và học hỏi.
5

×