Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thực trạng và những tác động của nạn buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.72 KB, 19 trang )

Thực trạng và những tác động của nạn buôn
lậu và gian lận thơng mại ở Việt Nam.
I. Thực trạng về buôn lậu và gian lận thơng mại ở Việt
Nam
Hiện nay hoạt động buôn lậu và gian lận thơng mại diễn ra ngày càng tinh vi,
số vụ gian lận ngày càng tăng, đặc biệt là trong khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia
tăng (GTGT). Các đối tợng buôn lậu thờng lợi dụng danh nghĩa, t cách pháp nhân
của các doanh nghiệp Nhà nớc hoặc các công ty TNHH để làm thủ tục nhập khẩu
hoặc xuất khẩu khống, khai báo sai tên hàng, số lợng chủng loại, xuất xứ của
hàng hoá để hởng thuế suất thấp hoặc thuế suất bằng không để trốn thuế. Lợi
dụng hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt thuế hoặc cất giấu những hàng nhập lậu,
hàng cấm nhập trong lô hàng đợc nhập, giấu hàng có giá trị thuế suất cao trong lô
hàng cồng kềnh.
Đặc biệt là trong thời gian qua hành vi gian lận thơng mại trong hoàn thuế
GTGT sau gần 4 năm thực hiện luật thuế GTGT đã liên tục xay ra với chiều hớng
ngày càng ra tăng và đến mức báo động. Lợi dụng sự thông thoáng của luật doanh
nghiệp, hàng loạt các công ty ma ra đời chủ yếu để mua bán hoá đơn tài chính rồi
đem bán lại, tiếp sức cho những đối tợng hoạt động kinh doang trốn thuế hoặc lập
hồ sơ xin hoàn thuế GTGT rút tiền Nhà nớc với giá trị hàng trăm tỷ đồng.
Kết quả kiểm tra hoàn thuế ở 1.302 doanh nghiệp trong nớc năm 2001 của
ngành thuế cho thấy cứ hoàn 14 tỷ đồng thuế GTGT, Nhà nớc bị DN ăn không
400 triệu đồng. Trong 3 năm, từ năm 1999 đến năm 2001số doanh nghiệp sai
phạm trong hoàn thuế GTGT chiếm tới 38% tổng số doanh nghiệp đợc kiểm tra
( 933/ 2.533 đơn vị ). Theo thống kê cha đầy đủ, đến hết tháng 4/2002, lực lợng
cảnh sát kinh tế đã phát hiện 203 vụ vi phạm hoàn thuế GTGT với tổng số tiền
chiếm đoạt trên 300 tỷ đồng.
Lợi dụng những kẽ hở trong chính sách thuế, hiện nay tình trạng buôn lậu và
gian lận thơng mại trong các lĩnh vực đang diễn ra phổ biến và rất phức tạp đặc
biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Theo thống kê của công ty Sony Việt Nam: Hiện nay mặt hàng bị nhập lậu và
gian lận thơng mại nóng nhất là sản phẩm kỹ thuật số (KTS). Do có đặc tính nhỏ,


gọn nên KTS tràn vào thị trờng nội địa chủ yếu là xách tay qua đờng hàng không,
do rất khó phát hiện. Tại thị trờng Việt Nam, hàng nhập lậu, hàng trốn thuế,
không có hoá đơn chứng từ... chiếm thị phần rất lớn. Lý do khiến cho mặt hàng
KTS nhập lậu mạnh vào thị trơng nội địa là thuế nhập khẩu cao: Từ 20% ( máy
chụp hình, máy quay) đến 40% ( máy nghe nhạc MP3) và 10 % thuế giá trị gia
tăng.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hải quan Cảng Sài Gòn khu vực 1 đã lập biên
bản vi phạm đối với công ty TNHH cung cấp dịch vụ Toàn cầu, về hành vi gian
lận xuất xứ. Thủ đoạn gian lận của đơn vị này là sử dụng nhãn giấy có in chữ
made in China dán đè lên board mạch có in chữ made in Taiwan để hợp thức
hoá C/O, và gian lận tiền thuế hơn 20 triệu đồng. Tại Cảng Sài Gòn khu vực 3, Hải
quan cũng đã lập biên bản xử lý vi phạm hành chính đối với công ty Kim Tín về
hành vi nhập khẩu hàng không khai báo số lợng, trị giá hàng vi phạm là
193.593,60 USD...
Cũng lợi dụng chính sách ân hạn thuế ( cho phép doanh nghiệp chậm nộp
thuế đối với những mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu nhập khẩu, các
loại hàng nhập khẩu dạng gia công...) nhiều doanh nghiệp áp dụng phơng thức
chiếm đoạt tiền thuế bằng cách trốn khỏi địa chỉ kinh doanh, hoặc cố tình nợ chây
ỳ không chịu nộp thuế.
Ngoài ra, cũng có những trờng hợp lợi dụng chíng sách cho phép doanh
nghiệp tự xây dựng và tự quyết toán định mức, nhiều doanh nghiệp đã hạch toán
không bằng cách sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp ma hoặc không khai đúng
doanh thu để trốn thuế, gây khó khăn cho cơ quan chức năng. Tính từ đầu năm
đến nay, Chi cục quản lý thị trờng Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp các ngành
chức năng đã kiểm tra các đơn vị sau đăng ký kinh doanh, phát hiện hơn 400 công
ty TNHH, doanh nghiệp t nhân không có trụ sở hoạt động nh đăng ký... trong 6
tháng đầu năm ngành Hải quan phát hiện và bắt giữ 4.353 vụ vi phạm( buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, gian lận thơng mại, vi phạm thủ tục
hải quan...) trị giá ớc tính hơn 338 tỷ đồng. Xử lý hàng hoá vi phạm và thu nộp
ngân sách hơn 22,5 tỷ. Trên thực tế, do chính sách thuế còn nhiều kẽ hở nên việc

áp dụng và quản lý giữa các ngành thuế, Hải quan với doanh nghiệp còn nhiều bất
cập. Đó cũng là điều kiện để một số doanh nghiệp lợi dụng khe hở này chiếm
dụng tiền thuế, gây thất thoát ngân sách nhà nớc.
1. Những phơng thức và thủ đoạn trong buôn lậu
Thủ đoạn và phơng thức hoạt động của bọn buôn lậu hiện nay ngày càng tinh
vi và nguy hiểm hơn, trên rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nh quay vòng hoá đơn
chứng từ, quay vòng tem hàng xuất khẩu, tờ khai thuế quan, chuyển đổi phơng
thức tử thuê cửu vạn sang cho cửu vạn vay vốn rồi thu mua lại để ràng buộc với
hàng. Mà những ngời phải làm cửu vạn này thờng xuất thân từ những tầng lớp ng-
ời nghèo trong xã hội.
Bọn buôn lậu còn lợi dụng vận chuyển hàng hoá vào thời gian và địa điểm ở
những nơi mà các lực lợng thanh tra kiểm soát gặp khó khăn hoặc không thể quản
lý đợc. Mặt khác từ hoạt động theo nhóm, bọn buôn lậu lại chuyển sang ban ngày
nhỏ lẻ nên rất khó cho công tác chống buôn lậu, bọn buôn lậu còn lợi dụng những
hôm trời có gió mạnh, đêm tối hoặc ma to để hoạt động. Bọn buôn lậu còn lợi
dụng nhiều hình thức chẻ nhỏ hàng hoá từ để vận chuyển sâu vào nội địa bằng
mọi phơng tiện, sử dụng các thông tin liên lạc hiện đại để chỉ đạo, điều hành các
hành động buôn bán và vận chuyển hàng nhập lậu. Hàng lậu đợc chuyển về thành
phố cũng bằng sổ sách. Nếu nh cán bộ kiểm tra hàng ở các bến xe, trạm ga thì các
tay buôn lậu lớn đã có hẳn một đờng dây . bọn chúng gửi hàng trớc ở những điểm
ven tuýên đờng này, sau khi đợc trạm kiểm tra lái xe nh đợc chuẩn bị trớc đỗ
lại ở một điểm ,thế là hàng lậu đợc khuân lên xe chuyển về xuôi không mấy khó
khăn. hàng lậu đợc nguỵ trang bằng nhiều kiểu để vận chuyển.
Trên tuyến biển buôn lậu vẫn diễn ra sôi động, bọn buôn lậu sang mạn hàng,
dùng tàu đánh cá để chuyển hàng. chúng còn dùng cả tàu gỗ nhỏ trực tiếp sang
cảng nớc ngoài nhận hàng hoặc sao mạn từ các tàu lớn ở ngoài khơi để vận
chuyển hàng lậu. Sau đó theo các luồng lạch, bãi ngang và lợi dụng đa hàng lên
bờ và vận chuyển sâu vào nôị địa.
Trên tuyến hàng không, tình hình buôn lậu cũng rất phức tạp. Phơng thức chủ
yếu mà bọn buôn lậu sử dụng là cất giấu và mua chuộc cán bộ, lợi dụng chế độ

hành lý đợc miễn thuế, đi lại nhiều lần để hoạt động.
Buôn lậu dới hình thức xuất khẩu uỷ thác là hiện tợng khá phổ biến. Theo
hình thức này, bọn buôn lậu thờng tìm cách lợi dụng các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu của nhà nớc uỷ thác cho một số mặt hàng. sau khi làm song thủ tục hải quan,
trong quá trình vận chuyển hàng đến cảng, các đối tợng tiến hành phá kẹp chì,
làm giả chì hải quan, thay vào container, gia cố ốc vít bắt tại các chốt liên kết, có
trờng hợp còn tháo cả cụm khoá có kẹp chì, thay hàng lậu rồi lắp lại nh cũ. Với
thủ đoạn này mặt hàng dới danh nghĩa hợp đồng uỷ thác đã bị thay thế bằng các
mặt hàng khác.
Ngoài ra còn có rất nhiều thủ đoạn buôn lậu tinh vi phức tạp, bằng nhiều
cách thức để bọn buôn lậu sử dụng trong hoạt động phi pháp nhằm thu lợi bất
chính cho bản thân.
2. Một số hình thức gian lận thơng mại phổ biến ở Việt Nam hiện nay
2.1. Gian lận thơng mại qua lợi dụng chính sách thuế của nhà nớc
Trong các hoạt động gian lận thơng mại có lẽ hành vi gian lận qua lợi dụng
chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt Nam. Vì
thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam bao gồm nhiều sắc thuế gộp lại là thuế quan,
thuế doanh thu, thuế phụ thu, thuế thu điều chỉnh bình ồn giá. Nên thuế xuất nhập
khẩu của chúng ta thờng cao nh ô tô du lịch, xe máy, rợi bia hàng điện tử...do thuế
suất cao nên sự chênh lêch giữa giá phải trả cho việc khai báo đầy đủ, chính xác
và xuất trình trung thực cho các cơ quan kiểm tra kiểm soát nhà nớc với lợi nhuận
kiếm đợc do gian lận thơng mại là rất lớn. Thuế suất là một trong những lĩnh vực
hấp dẫn gian thơng, điể hình là trong thời gian gần đây việc khai thác sơ hở của
luật thuế xuất nhập khẩu, các gian thơng đã tìm mọi cách để biến tớng, gây nhầm
lẫn trong khai báo mã hàng để gian lận thơng mại trốn thuế.
2.2. Gian lận thơng mại qua giá hàng hoá xuất nhập khẩu
Theo tính toán của chính phủ thất thu thuế qua giá là rất lớn, ớc tính thất thu
thuế là khoảng 25% trong tổng số thu thuế xuất nhập khẩu. Chống gian lận thơng
mại qua giá ở nớc ta cũng nh trên thế giới đang là vấn đề đợc hải quan các nớc
đặc biệt quan tâm, vì đây là hoạt động gian lận thơng mại tinh vi nhất, khó phát

hiện nhất.
2.3. Gian lận thơng mại trong việc khai báo sai số lợng trọng lợng, phẩm cấp
của hàng hóa xuất nhập khẩu.
Đây cũng là hình thức gian lận thơng mại xuất nhập khẩu khá phổ biến ở
Việt Nam. Cácchủ hàng thờng lợi dụng chính sách thông thoáng, mở cửa của nhà
nớc thông qua việc cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải quan bằng các
biện pháp đơn giản hoá các thủ tục này. do đó đã tạo điều kiện cho hoạt động xuất
nhập khẩu, giải phóng hàng hoá tại cửa khẩu. Các cửa khẩu với lực lợng có hạn,
trình độ cán bộ còn hạn chế trong khi đó lợng hàng hoá luân chuyển qua cửa khẩu
ngày càng lớn, các lực lợng hải quan không thể kiểm soát chi tiết từng lô hàng đ-
ợc. đây cũng là nguyên nhân để bọn gian thơng lợi dụng bằng các thủ đoạn nh
khai một phần, khai không đúng.
2.4. Gian lận thơng mại qua việc cố ý xác định sai xuất xứ hàng hoá.
Xác định xuất xứ hàng hoá là vấn đề liên quan đến kỹ thuật phức tạp, có vị
trí quan trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia. Đây là vấn để rất mới mẻ ở
Việt Nam. Xuất xứ hàng hoá liên quan đến hai vấn đề chính là: thuế xuất nhập
khẩu và chính sách u đãi thuế giữa các nớc thành viên có quan hệ giành cho nhau.
Từ mối liên quan giữa việc xác định xuất xứ hoặc xuất trình giấy chứng nhận xuất
xứ giả, khai không đúng xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu để trốn thuế.
2.5. Gian lận thơng mại trong lĩnh vực đầu t.
Theo quy địng của luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam và Nghị định số 18/CP
ngày 14/4/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành luật đầu t nớc ngoài
tại Việt Nam, thì các xí nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đợc miễn thuế nhập khẩu
đối với trang thiết bị, máy móc phụ tùng và các phơng tiện sản xuất kinh doanh và
các nguyên liệu vật t xây dựng cơ bản hình thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố
định. Điều này có nghĩa là với những hàng hoá thuộc loại này Hải quan không cần
quan tâm đến giá trị hàng hoá (để tính thuế), và nh thế hải quan dễ dàng cho qua
các loại hàng hoá này nh vậy đã vô hình để bọn gian thơng lợi dụng kẽ hở này để
tiến hành hành vi gian lận. Qua tiến hành giám định việc khai giá nhập khẩu thiết
bị của 12 xí nghiệp liên doanh đầu t, thì đã có 6 xí nghiệp có hiện tợng nâng giá

thiết bị nhập khẩu với giá trị cao so với giá trị thực tế là 14 triệu USD.
2.6. Gian lận thơng mại trong lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu.
Hàng là vật t, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nớc ngoài rồi xuất khẩu
theo hợp đồng đã kí kết. Theo quy định của luật thuế xuất nhập khẩu, hàng thuộc
đối tợng này đợc miễn thuế. Trên cơ sở các hợp
đồng gia công và văn bản cho phép của Bộ thơng mại cấp cho các đơn vị sản xuất,
Hải quan kiểm tra định mức tiêu dùng nguyên phụ liệu đã nhập cho đến khi kết
thúc hợp đồng, phần thừa không dùng hết mới phải nộp thuế. Song trong thực tế
có những hợp đồng gia công kéo dài từ 5 dến 10 năm, nguyên phụ liệu nộp vào
sản xuất và sản phẩm gia công hoàn chỉnh đợc xuất khẩu phải thực hiện trong một
thời gian dài, bằng rất nhiều chuyến hàng, qua nhiều cửa khẩu. Đây là kẽ hở để
các chủ sản xuất lợi dụng. Thủ doạn của bọn chúng là nhập nguyên phụ liệu nhiều
nhng sử dụng để sản xuất thì không hết, đa số phần lớn là bán lại cho các cơ sở
sản xuất khác trong nớc với giá cao hơn để thu lợi.
Ngoài ra còn rất nhiều thủ đoạn và cách thức mà bon gian lận sử dụng nh lợi
dụng chính sách và cơ chế hoạt động của thuế,qua hoạt động của văn phòng đại
diện các tổ chức kinh tế nớc ngoài tại Việt Nam, gian lận thơng mại qua hàng
kinh doanh chuyển khẩu, hàng tạm nhập tái xuất, hàng đổi hàng...
Nh vậy có thể thấy, gian lận thơng mại ở nớc ta hiện nay hết sức đa dạng và
phức tạp khó kiểm soát với xu hớng ngày càng nhiều các phơng thức gian lận tinh
vi.
II. Những tác động của nạn buôn lậu và gian lận thơng
mại đến kinh tế xã hội nớc ta
1. Tác động đến các chủ thể kinh tế
Tình trạng buôn lậu và gian lận thơng mại xâm hại đến chế độ chính sách
quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá. Nh ta đã biết: thuế quan là các mức thuế đấnh
trên hàng hoá xuất nhập khẩu nhắm mục đích làm tăng giá của hàng nhập khẩu để
làm giảm sức cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nớc hoặc kích thích sản xuất
tại nội địa. Vì vậy các hành vi buôn lậu,trốn thuế xuất nhập khẩu thông qua hoạt
động gian lận thơng mại, cạnh tranh tiêu cực phi kinh tế đã xâm haị đến chế độ

chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá.
Buôn lậu và gian lận thơng mại gây nhiều thiệt hại cho ngời sản xuất trong n-
ớc, làm điêu đứng các doanh nghiệp sản xuất cũng nh các doanh nghiệp thơng
mại. đối với các ngời sản xuất trong nớc. Việc hàng ngoại tràn ngập thị trờng với
chất luợng cao hơn giá rẻ hơn, thực sự là mối đe doạ trực tiếp đến tơng lai của
hàng nghìn công nhân trong các xí nghiệp sản xuất trong nớc, đặc biệt là đối với
những ngành công nghiệp mới còn non trẻ. Nguyên nhân là nhữmg xí nghiệp sản
xuất trong nớc vẫn còn phải nhập một số nguyên phụ liệu, nhiên liệu... và phải
nộp thuế nhập khẩu số hàng hoá này. trong quá trính sản xuất ra sản phẩm để đem
bán trên thị trờng, họ còn phải nộp thuế lợi tức, thuế doanh thu. Trong khi hàng
ngoại do trốn đợc thuế nên giá rẻ hơn, vì vậy làm cho hàng nội không tiêu thụ
đựơc, dẫn đến đọng vốn, nợ chồng chất rồi đi đến phá sản. đối với doanh nghiệp
thơng mại do giá cả hàng hoá mua vào cao hơn nên không thể cạnh tranh đợc với
hàng lậu trốn thuế. Những doanh nghiệp kinh doanh đúng luật, nộp thuế đầy đủ bị
những doanh nghiệp kinh doanh trái phép, gian lận trồn thuế cạnh tranh chèn ép
không thể phát triển đợc. Nói về vấn đề này một số doanh nghiệp, cán bộ quản lý
doanh nghiệp đã lên tiếng. Ông Đỗ Quang Chiêu Phó tổng giám đốc Tổng công ty
hoá chất Việt Nam cho rằng sản phẩm của chúng tôi phải cạnh tranh gay gắt với
hàng nhập lậu từ bên ngoài, điều này chẳng những thất thu cho ngân sách, thiệt
hại đến ngời tiêu dùng mà còn gây không ít khó khăn cho sản xuất trong nớc.
Công ty xe đạp Thống nhất dự tính mỗi năm có tới 600.000 700.000 xe đạp

×