Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.11 KB, 32 trang )

Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
I. Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thập
kỉ 90.
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.việc đổi mới
cải cách hoạt động Ngân hàng là khâu rất cơ bản, đợc coi là mũi Đột phá khẩu
tạo những bớc tiến vững chắc đa nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trờng. Đặc
biệt, điều đợc quan tâm nhất trong qúa trình đổi mới là làm thế nào để xây dựng
và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả nhất.
Chính sách tiền tệ là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, đóng góp
vai trò quan trọng trong điều tiết, quản lí nền kinh tế thị trờng. Việc đề ra chính
sách tiền tệ là chức năng của ngân hàng Nhà nớc, tuy vậy, chính sách tiền tệ là
một bộ phận trong chính sách kinh tế Nhà nớc nên cần phải gắn liền với việc phảt
triển kinh tếvà chính sách kinh tế của Nhà nớc. Việc thực thi chính sách tiền tệ
hiệu quả có nhiều đóng góp to lớn trong kiềm chế lạm phát, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển và tăng trởng. Nền kinh tế Việt Nam ta những năm 90 có 2 giai đoạn
chủ yếu. Với bớc đột phá của đờng lối đổi mới, giai đoạn thứ nhất 90-95 đợc coi
là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, thoát qua cơn thử thách khó khăn của chặng
đờng đầu của quá trình đổi mới sang kinh tế thị trờng. Giai đoạn 1996 -2000 là
giai đoạn đầu t phát triển kinh tế cao, tạo tiền đề vật chất và nền tảng cho bớc phát
triển lâu bền của nền kinh tế sang thềm thế kỉ 21. Vậy ta thử xem tác động trong
từng giai đoạn nh thế nào?
1. Nhận định chung.
Vợt qua cơn thử thách khắc nghiệt của những năm cuối thập kỉ 80, Nền
kinh tế Việt Nam đã và đang bớc sang giai doạn tạo đà phát triểnvới tốc độ cao.
Đó là nhờ hàng loạt chính sách đổi mới theo cơ chế thị trờng có tác dụng to lớn
thu hút lòng tin đối với đầu t nớc ngoài. Liên tục từ năm 1988 đến vay, mọi nỗ lực
của chính phủ Việt Nam là làm thế nào để kiềm chế lạm phát ở mức từ 3 con
xuống còn một con số. Thành công đáng nói là trong khi lạm phát đợc kéo xuống
nhng nền kinh tế vẫn tăng trởng cao, khá ổn định. Tỷ lệ tăng trởng kinh tế bình
quân tăng hàng năm từ 7 - 8%. Thêm vào đó, lòng tin của nhân dân đối với đồng
tiền Việt Nam từng bớc đợc khôi phục, tiền tệ ổn định ngày một khuyến khích đầu


t trong nớc và nớc ngoài. Tỷ lệ tích luỹ đầu t cả nớc năm 1993 tăng đáng kể so với
tỷ lệ tích luỹ 11- 12% của những năm trớc đây. Có thể nói, chúng ta đã đạt đợc
những thành quả trên là nhờ những nhân tố sau:
Thứ nhất, pháp lệnh ngân hàng Nhà nớc và pháp lệnh ngân hàng thơng mại
qui định cơ sở cho việc thiết lập ngân hàng hai cấp, tạo nền tảng pháp lí cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả.
Th hai, Ngân hàng Nhà nớc thực sự đã tập trung vào điều hành chính sách
tiền tệ, nới lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hoá tiến trình đa ra các
quyết định kinh tế , thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ,
khuyến khích xuất khẩu, đồng thời thi hành chính sách lãi suất thực dơng, kết
hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ơng. Các giải pháp tình thế mạnh
dạn khởi đầu cùng với việc sử dụng từng bớc có hiệu quả các công cụ tài chính đã
đem lại những thành quả đáng khích lệ trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở
Việt Nam.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nớc thực hiện chính sách mở cửa hoà nhập với
cộng đồng tài chính quốc tế, đổi mới hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nớc
và 4 ngân hàng thơng mại quốc doanh, cho phép mở các chi nhánh và đại diện
ngân hàng nớc ngoài tại Việt Nam, thúc đẩy hoạt động ngân hàng ngày càng đa
dạng và mang tính hội nhập hơn.
Thứ t, các ngân hàng thơng mại đã đổi nới hình thức hoạt động huy động
vốn và cho vay vốn theo hớng cơ chế thị trờng và kể từ năm 93 trở đi đã có lãi.
đem lại hiệu quả cho hoạt động ngân hàng.
Thứ năm, chính phủ luôn chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm
đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp.
Các nhân tố trên là những động lực cơ bản tạo ra một hệ thống ngân hàng
tuy cha phát triển hoàn hảo nhng tơng đối ổn định.
Tuy nhiên, sự ổn định này cũng cha thật vững chắc, vẫn còn một số hạn chế
sau đây.
Về phơng diện kiểm soát lạm phát, tuy tỷ lệ lạm phát dao động xung quanh
4 - 12%, nhng ngân hàng Nhà nớc cha có khả năng kiểm soát theo mong muốn.

Một khi có những cơn sốc về phía cung, nền kinh tế sẽ vấp phải những vấn đề khó
khăn khó tránh khỏi.
Chẳng hạn nh năm 1993 ngân hàng Nhà nớc dự kiến lạm phát ở mức 10 -
13%, nhng thực tế chỉ có 5,2%. Sở dĩ nh vậy, bởi vì hàng mùa hè của Trung Quốc
tràn sang với giá rẻ do chính sách điều tiết tỷ giá của họ. Điều này dẫn đến giảm
phát ở nớc ta. Nếu năm 1994 chúng ta dự tính lạm phát chỉ ở mức một con số thì
tình hình lại ngợc lại. Lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu longlàm mất mùa khiến giá cả
lơng thực và thực phẩm tăng cao. Tỷ lệ lạm phát năm 1994 tăng lên. Do đó, có
thể nói, khả năng kiểm soát lạm phát của Nhà nớc ta cha đồng đều, cha hạn chế đ-
ợc những trở ngại khách quan. Hơn thế nữa, do nền kinh tế bị ảnh hởng của cuộc
khủng hoảng tiền tệ của khu vực, chính phủ đã cắt giảm chi tiêu, đa ra các qui
định hạn chế nhập khẩu tạm thời. Tiến hành phá giá đồng tiền Việt Nam khoảng
17% và hạn chế tăng trởng tiền tệ. Chính vì vậy, nhịp độ tăng trởng kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây giảm sút nghiêm trọng. Tốc độ tăng trởng kinh tế
đã giảm từ 8% năm 1990 xuống còn 5,85% năm 1998. Thêm vào đó, tình hình
kinh tế hiện nay đang có dấu hiệu mau chóng dần đến thiểu phát khiến cho sự
phục hồi kinh tế càng trở nên khó khăn. Hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng hoạt
động không hiệu quả, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế kém. ở các doanh
nghiệp sản suất , hàng tồn kho quá nhiều, một bộ phận dân c còn bị thiếu đói do
ảnh hởng của hạn hán, gây ảnh hởng xấu đến các vấn đề xã hội.
Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và
có xuất phát điểm rất thấp so với các nớc ngoài. Do đó để tránh tụt hậu, chúng ta
phải đề ra những chính sách tiền tệ phù hợp, góp phần ổn định và phát triển kinh
tế.
2. Nội dung của chính sách tiền tệ.
2.1 Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nớc là chính sách mà ngân hàng nhà
nớc thực hiện cung ứng tiền cho nền kinh tế ở mức kiểm soát đợc lạm phát, thực
hiện một chính sách lãi suất thực dơng do ngân hàng nhà nớc qui định, giữ một tỷ
giá ổn định nhằm kiểm soát đợc tỷ giá. Trên thực tế thì tỷ giá danh nghĩa ( tỷ giá

đồng Việt Nam so với đồng USD) bắt đầu ổn định. Từ năm 1993 trở đi, khi ngân
hàng nhà nớc mở cửa trung tâm giao dịch tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, phản ánh sự vận động của luồng ngoại tệ vào gây nên áp lực tăng giá
cho đồng Việt Nam .
2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ.
Có thể nói, để thực thi chính sách tiền tệ một cách tốt đẹp, một trong những
công cụ mà ngân hàng nhà nớc có trong tay là:
2.2.1. Hạn mức tín dụng.
*Thực trạng:
Trong điều kiện các công cụ tín dụng cha phát huy đầy đủ hiệu lực, ngân
hàng nhà nớc thờng áp dụng công cụ trực tiếp là hạn mức tín dụng đối với các tổ
chức tín dụng. Mục đích chủ yếu của việc sử dụng công cụ này là nhằm giữ tổng
lợng tín dụng nằm trong giới hạn cho phép để có thể dễ dàng kiểm soát chặt chẽ
lạm phát, đặc biệt là trong những lúc chỉ số giá có xu hớng gia tăng. Việc áp dụng
công cụ này bắt đầu từ tháng 6/ 1994. Đối tợng áp dụng ban đầu là 4 ngân hàng
thơng mại quốc doanh, chiếm 90% tổng d nợ cho vay của cả hệ thống tổ chức tín
dụng . Bớc đầu hạn mức này đã khống chế đợc mức tăng d nợ ngắn hạnlà 24% so
với năm 1993. Tuy nhiên đến năm 1995, hạn chế của công cụ này thể hiện rõ nét
khi mức tăng d nợ tín dụng thực tế vợt hạn mức tín dụng cho phép tới 1,66 lần,
năm 1996 vợt đến 2 lần. Sang đến năm 1997, 1998, tình hình lại chuyển biến ngợc
lại. Năm 1998, cho dù tổng nguồn vốn huy động qua hệ thống ngân hàng có xu h-
ớng chậm lại, giảm từ 31,5% (1997) còn 25%(1998) nhng hạn mức tín dụng thừa
ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Vậy vì sao lại dẫn đến tình trạng hấp thụ vốn kém này?
Chúng ta biết rằng, thực trạng kinh tế - xã hội nớc ta những năm giữa thập
kỉ 90, nhất là trong điều kiện chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế bị sụt giảm nghiêm
trọng. Sự khó khăn trong việc tìm kiếm thị trờng tiêu thụ sản phẩm đã tác động
không nhỏ đến tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, hiệu quả sản suất kinh
doanh và nhu cầu đầu t của doanh nghiệp. Mặt khác, khu vực kinh tế nhà nớc -

nơi chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế lại hoạt động kém hiệu quả, quy mô vốn
nhỏ, lại đang trong quá trình tổ chức sắp xếp đã ảnh hởng lớn đến nhu cầu và điều
kiện vay vốn, đến quan hệ tín dụng trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, cùng với sự
đổi mới cơ chế quản lí việc thẩm định các dự án cho vay và việc sử dụng vốn, đến
quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng có nhiều diễn biến tích cực, chặt chẽ
hơn nhằm đảm bảo hiệu quả nguồn vốn vay. Vì vậy, các quyết định đi vay để đầu
t không dễ dàng nh trớc. Tất cả những điều này dẫn đến d nợ cho vay của các tổ
chức tín dụng có xu hớng chậm lại, khả năng hấp thụ vốn giảm đi.
Do đó, chúng ta thấy rằng việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng của
NHNN Việt Nam cha thật sự hiệu quả. Đây vẫn là công cụ cứng nhắc, làm cho hệ
thống NHTM không phát triển đợc, dẫn đến tình trạng phi trung gian hoá. Theo
đó, hệ thống huy động vốn và cho vay ngoài sự kiểm soát của NHNN đi vào quỹ
đạo hoạt động mạnh, gây cản trở chung cho hoạt động của toàn hệ thống ngân
hàng và thị trờng tài chính ở Việt Nam.
2.2.2. Chính sách tái chiết khấu
Đây là công cụ gián tiếp mà NHNN Việt Nam sử dụng để đảm bảo an toàn
cho toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng nh bảo đảm khả năng chi trả và thanh toán
của hệ thống tín dụng.
Vậy chúng ta hãy xem xét cơ chế hoạt động của nghiệp vụ này của NHNN
Việt Nam nh thế nào?
Chính sách tái chiết khấu của NHNN Việt Nam thực chất là việc cung ứng
tín dụng của NHTW thông qua: chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay chiết khấu,
hoặc chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay tái cấp vốn. Tín dụng là hoạt động truyền
thống của ngân hàng nói chung. Có ngân hàng là có tín dụng, đặc biệt là tín dụng
dới hình thức chiết khấu. Đó là việc bán hoặc vay theo giá ấn định thấp hơn giá trị
của vật bán hoặc mức vốn phải trả nợ. Có thể chia thành các trờng hợp cụ thể sau:
+ Chiết khấu các giấy tờ có giá:
Hình thức này là một kênh cung ứng tiền của NHNN có bảo đảm thực bằng
giấy tờ có giá, nhng khác với cho vay bằng giấy tờ có giá ở chỗ, chiết khấu giấy tờ
có giá là cách mua theo lãi suất chiết khấu đợc ấn định trớc hoặc lãi suất đấu thầu

làm thay đổi quyền sở hữu từ khách hàng sang NHNN. Trong khi đó cho vay bằng
thế chấp giấy tờ có giá sẽ đợc NHNN giải chấp khi hết thời hạn cho vay, cho vay
theo lãi suất cho vay ấn định trớc. Tuy nhiên, cả hai hình thức cung ứng tiền này
đều phát sinh khi có nhu cầu về vốn đầu tiên từ phía khách hàng. Điểm này khác
với nghiệp vụ thị trờng mở - cung ứng tiền phát sinh từ phía NHNN.
+ Cho vay chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn:
Có hai loại cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn là: Cho vay
chiết khấu hoặc tái cấp vốn có bảo đảm và cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn có
chỉ định. Cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn nh NHNN Việt Nam hiện nay là
việc cung ứng tiền theo mức lãi suất ấn định của NHNN. Chỉ khác là cho vay
chiết khấu tiền lãi đợc tính theo phơng pháp chiết khấu và đợc trả trớc cho
NHNN, còn cho vay cấp vốn tiền lãi đợc tính theo phơng pháp tích số và trả sau
hàng tháng. Xu hớng chung, để nhận tiền cung ứng, các tổ chức tín dụng thờng
chọn công cụ nào có lãi suất hạ mang lại lợi nhuận mà ít rủi ro. Cụ thể là:
Giả sử nếu lãi suất tiền vay hạ thấp hơn lãi suất chiết khấu thì các tổ chức
tín dụng không thích chiết khấu giấy tờ có giá. Hai điểm lợi đối với họ là chi phí
vay vốn thấp hơn và rủi ro tín dụng thuộc về NHNN, nhất là trờng hợp vay theo
chỉ định hoặc đợc đảm bảo bằng giấy tờ có giá mà chất lợng không cao, do vậy
đầu tiên để sử dụng giấy tờ có giá mới vay thì NHNN phải điều hành lãi suất theo
nguyên tắc lãi vay phải cao hơn lãi suất chiết khấu của chứng từ có giá. Khi nào
giấy tờ có giá đợc chiết khấu hết thì NHNN hạ lãi suất cho vay ngang bằng hoặc
thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá.
Nếu lãi suất tiền vay thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá còn có thể
dẫn đến tình trạng vay đầu cơ để mua giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn. Có hai
điểm lợi đối với ngời đi vay là giảm đợc chi phí nhận tiền vay, hai là mua chứng
khoán tiền lãi đợc nhận trớc.
Do đó, vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn là một đặc ân đối với tổ chức tín
dụng, nên quyền đợc vay chỉ có giới hạn và nhất thiết phải có điều kiện.
Với cơ chế hoạt động đó, ta hãy xem thực trạng của chính sách tái chiết
khấu và việc ấn định lãi suất tái chiết khấu của Việt Nam nh thế nào?

Ngoài việc phân loại các hình thức tái cấp vốn, các chứng từ có giá, NHNN
còn quy định cả lãi suất tái cấp vốn của mình đối với các tổ chức tín dụng, cả
khung lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế.
NHNN đã phát huy hiệu quả cao độ trong việc điều hoà linh hoạt công cụ tái cấp
vốn, nhằm đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế. Năm 1999, sau 4
lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng tại thời điểm đầu năm đến
nay chỉ còn 0,5% tháng. Đặc biệt là theo quyết định 238 (31/7/2000) của NHNN
về điều chỉnh hạ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 0,455, chỉ còn
0,35% tháng. Với công cụ tái cấp vốn, trong thời gian gần đây, NHNN đã giảm
dần tính bao cấp về vốn, thực hiện là ngời cho vay cuối cùng, thúc đẩy các ngân
hàng tăng cờng huy động vốn, tận dụng các nguồn vốn trên thị trờng tiền tệ trớc
khi trông cậy vào NHNN. Qua đó các NHTM quốc doanh đã chủ động, tích cực lo
nguồn vốn và khả năng thanh khoản của mình hơn, thực sự chuyển sang kinh
doanh hơn, gắn với thị trờng hơn và bắt đầu có ý thức cạnh tranh trên thị trờng.
Tuy nhiên công cụ tái cấp vốn ở Việt Nam cha phát huy đợc hiệu quả của
mình. Nếu ở Nhật, một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ tái chiết khấu đợc xem nh thay
đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ của các công ty, hộ gia đình (tác
động hiệu ứng thông báo) thì ở Việt Nam, sử ảnh hởng của công cụ này là rất nhỏ.
2.2.3. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là một công cụ đã bớc đầu áp dụng để kiểm soát chặt chẽ
khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Thông qua đó, Nhà nớc khống chế l-
ợng tín dụng và tổng phơng tiện thanh toán theo yêu cầu của chính sách tiền tệ.
Gần đây, ngân hàng Nhà nớc đã tăng cờng củng cố công cụ này bằng việc ban
hành quy chế buộc các tổ chức tín dụng phải gửi dự trữ bắt buộc vào ngân hàng
Nhà nớc và xử phạt nghiêm với các trờng hợp không đảm bảo mức quy định. Thật
vậy, Điều 20, Luật Ngân hàng đã quy định:
Thứ nhất: NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ
chức tín dụng, từng loại tiền gửi với mức từ 0 đến 20% tổng số d tiền gửi tại mỗi
tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
Thứ hai: việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ

chức tín dụng, từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định.
Trên cơ sở đó, NHNN đã quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức
tín dụng. Thời gian gần đây, NHNN đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Riêng NHNo & Phát
triển Nông thôn do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông
nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc đợc giảm xuống mức 3%.
Tuy nhiên, việc thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ dễ gây nên những thay đổi lớn trong
cung ứng tiền tệ, cho nên NHNN luôn tỏ ra thận trọng trong các quyết định của
mình. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, công cụ dự trữ bắt buộc phải đ-
ợc dùng bổ trợ bởi những công cụ điều chỉnh tinh vi hơn. Hiện nay, ở nớc ta, vì
cha có thị trờng tài chính phát triển và việc bán đấu giá tín phiếu kho bạc Nhà nớc
cũng không thể tiến hành với khối lợng nh ý muốn của NHNN, do đó NHNN nên
bắt tay vào việc bán tín phiếu của NHNN với khối lợng lớn hoặc tự tạo ra một loại
giấy tờ có giá làm công cụ của thị trờng tiền tệ. Chẳng hạn nh, trên cơ sở số nợ
khó đòi mà trách nhiệm ngân sách phải đứng ra gánh chịu hậu quả của thời kỳ
bao cấp, NHNN có thể phát hành tín phiếu kho bạc. Nếu làm đợc nh vậy, thì
NHNN có đợc công cụ bổ sung mà không phải vất vả buộc phải thực hiện các
biện pháp tình thế.
2.2.4. Nghiệp vụ thị trờng mở
Nghiệp vụ thị trờng mở là công cụ vô cùng quan trọng của chính sách tiền
tệ. Nền kinh tế của hầu hết các nớc trên thế giới hoạt động có sôi nổi hay không là
da vào hiệu quả của chính sáchnghiệp vụ thị trờng mở. Chính vì vậy, suốt năm đầu
của thập kỉ 90, ngân hàng nhà nớcta đã có nhiều cỗ gắng để tạo tiền đề cho nghiệp
vụ thị trờngmở ra đời. Vậy tại sao nghiệp vụ thị trờng mở lại cần thiết nh vậy?
Tiền đề nào là nềnmóng cho sự ra đời nghiệp vụ thị trờng mở ở Việt Nam ? Liệu
sự phát triển thị trờng mở ở Việt Nam trong tơng lai nh thế nào?
Tầm quan trọng của thị trờng mở đối với nền kinh tế Việt Nam Nghiệp vụ
thị trờng mở là nghiệp vụ mua bán nghiên cứu các giấy tờ có giá ngắn hạn do
ngân hàng Nhà nớc Việt Nam thực hiện trên thị trờng tiền tệ nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia

Qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trờng tiền tệ, ngân
hàng Nhà nớc tác động đến khả năng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Cụ
thể là khi ngân hàng trung ơng mua các giấy tờ có giá ngắn hạn sẽ làm tăng khả
năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Ngợc lại khi ngân hàng Nhà nớc bán các
giấy tờ có giá làm giảm khả năng tín dụng dẫu đến về lâu dàigiảm khả năng cung
ứng tiền đối với nền kinh tế. So với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác
nh dự trữ bắt buộc hoặc chiết khất, nghiệp vụ thị trờng mở có nhiều u điểm hơn.
Trớc hết , bằng nghiệp vụ này, ngân hàng Nhà nớc hoàn toàn giữ thế chủ động
trong khống chế khối lợng giấy tờ có giá đợc mua hoặc bán theo ý đồ định trớc.
Ngân hàng Nhà nớc có thể mua hoặc bán một khối lực lợng giấy tờ có giá rất nhỏ
hoặc rất lớn. Chính vì vậy khả năng điều tiết của ngân hàng Nhà nớc vào thị trờng
tiền tệ thông qua thị trơng này rất lớn, đảm bảo tới mọimức độ điều tiết cần thiết.
Th hai , nghiệp vụ này giúp cho ngân hàng Nhà nớc có thể dễ dàng chỉnh sửa lại
các quyết định đã đợc thực hiên trớc đó. Thứ ba, nghiệp vụ thị trờng mở hoạt
động thờng xuyên, vì vậy nó cho phép ngân hàng Nhà nớc có thể can thiệp vào thị
trờng tiền tệ bất cứ lúc nào mà không bị chậm trễ bởi các thủ tục hành chính.
Thứ t, đây là công cụ điều hành chính sách tiền tệ một cách gián tiếp. Nó tác
dụng vào thị trờng tiền tệ thông qua việc tham gia tự giác của các thành viên tham
gia trên thị trờng trên cơ sở lợi ích của họ chứ không phải bằng mệnh lệnh hành
chính. Chính vì vậy, hiệu quả điều tiết của nghiệp vụ này rất cao. Đặc biệt, nớc ta
đang trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trờng có sự quản lí của Nhà nớc. Vì
vậy, NHNNVN đang từng bớc chuyển hình thức quản lí điều hành từ trực tiếp
sang gián tiếp. Nghiệp vụ thị trờng ra đời là để thực hiện mục tiêu đó. Đây là một
trong những công cụ hữu hiệu của ngân hàng Nhà nớc để thực thi chính sách tiền
tệ thông qua việc tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó có
thể bơm hoặc hút tiền trong lu thông, phục vụ các mục tiêu của chính sách
tiền tệ. Đối với tổ chức tín dụng, nghiệp vụ thị trờng mở sẽ làm phong phú thêm
các hoạt động đặc thù của Ngân hàng, là một nghiệp vụ kinh doanh mới hấp dẫn.
Thông qua việc tham gia nghiệp vụ thị trờng mở, các tổ chức có thể sử dụng
nguồn vốn của mình linh hoạt hơn, an toàn hơn.

Việc đa nghiệp vụ thị trờng mở vào hoạt động có ý nghĩa to lớn cho sự
chuẩn bị các điều kiện để hệ thống Ngân hàng có thể hội nhập khu vực và thế
giới, làm cho các luồng tiền tệ lu thông vào ra một cách linh hoạt, theo đó
nghiệp vụ thị trờng mở sẽ là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ không phải
theo lối áp đặt mệnh lệnh mà dựa trên nền tảng của sự tự nguyện bởi một chiến l-
ợc kinh doanh của Ngân hàng thơng mại. Nghiệp vụ thị trờng mở còn cho thấy
rằng, trong chừng mực nào đấy, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nớc Việt Nam thời gian qua vẫn còn cha nhạy bén và đạt hiệu quả nh mong
muốn. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nớc còn quá chú trọng việc sử dụng các công
cụ điều hành trực tiếp mang nặng tính hành chính. Điều đó, cần thay đổi mà
nghiệp vụ thị trờng mở là một bớc ngoặt.
* Tiền đề ra đời của nghiệp vụ thị trờng mở
Thị trờng nào hoạt động cũng cần có 4 yếu tố cơ bản là: môi trờng pháp lí,
hàng hoá, ngời bán, ngời mua.
Về môi trờng pháp lí: Đến nay việc tạo dựng môi trờng pháp lí cho nghiệp
vụ thị trờng mở đã đợc hoàn tất. Từ việc thành lập ban điều hành đến việc ban
hành quy chế, quy trình của nghiệp vụ thị trờng mở, các quy định về đăng kí các
giấy tờ có giá ngắn hạn, quy chế phát hành, đấu thầu hạch toán tín phiếu Nhà nớc.
Nhất nhất, các khâu đã sẵn sàng.
Về hàng hoá: Mục đích điều tiết thị trờng của Ngân hàng Nhà nớc thông
qua nghiệp vụ thị trờng mở chỉ có thể đạt đợc khi Ngân hàng Nhà nớc thực hiện
mua hoặc bán một khối lợng hàng hoá đủ lớn. Hiện tại hàng hoá thị trờng mở
không chỉ giới hạn về khối lợng mà còn đơn điệu về chủng loại. Về chủng loại,
đến thời điểm hiện nay chỉ có hai lôại hàng hoá duy nhất đợc giao dịch trên thị tr-
ờng mở là tín phiếu kho bạc Nhà nớc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc. Theo Vụ
tín dụng - Ngân hàng Nhà nớc, tổng khối lợng của hai loại hàng hoá này đang đợc
các tổ chức tín dụng lu giữ chỉ vào khoảng 3.000 tỉ đồng, trong đó có 1.000 tỉ
đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc sẽ đến hạn thanh toán vào ngày 27/7/2000.
Mặc khác, số hàng hoá này chỉ tập trung chủ yếu vào một số tổ chức tín dụng
quốc doanh (Ngân hàng Công thơng: 1400 tỉ, Ngân hàng Ngoại thơng: 800 tỉ,

Ngân hàng Đầu t: 530 tỉ), các tổ chức tín dụng khác chỉ nắm giữ vài chục tỉ đồng.
Đồng thời, khối lợng các giấy tờ có giá ngắn hạn mà các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam đang lu giữ là quá nhỏ, cha chiếm tới 1% tổng tài sản của các tổ chức tín
dụng. Tại các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, các tổ chức tín dụng coi việc
kinh doanh giấy tờ có giá trị là một trong những nghiệp vụ quan trọng. Chính vì
thế, tỉ trọng vốn đầu t vào giấy tờ có giá so với tổng tài sản có rất cao. Tại Thái
Lan, tỉ lệ này là khoảng 30%, Hungari khoảng 15%, Mỹ khoảng 30%. Do đó, một
trong những nhiệm vụ đặt ra cho việc triển khai và vận hành có hiệu quả thị trờng
mở ở Việt Nam là phải tạo ra đợc một khối lợng hàng hoá đủ lớn cho thị trờng này
hoạt động. Để làm đợc điều này trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nớc phải phát
hành các đợt tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc. Việc này cha chắc đã đợc thoả thuận
từ nhiều phía. Chính bởi vậy, việc tạo thêm công cụ cho thị trờng mở thông qua
việc phát hành tín phiếu kho bạc đợc coi là biện pháp tối u. Để làm đợc điều này
nên chăng, Bộ tài chính dừng việc huy động vốn cho ngân sách thông qua việc
phát hành trái phiếu bán lẻ hai năm với chi phí cao để phát hành tín phiếu kho bạc
thông qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nớc với chi phí thấp hơn rất nhiều. Làm
nh vậy không những đáp ứng đợc vốn cho nhu cầu chi tiêu ngân sách mà còn
đồng thời tạo thêm công cụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
Về ngời mua, ngời bán: Tham gia nghiệp vụ thị trờng mở, Ngân hàng Nhà
nớc và các tổ chức tín dụng sẽ thuận mua vừa bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ
tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Điều quan trọng hơn, trong chiến lợc kinh doanh của mình, các tổ chức tín dụng
phải xác định một cách chính xác mua hoặc bán các loại giấy tờ có giá trị ngắn
hạn vào lúc nào và bao nhiêu. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà
nớc phải quyết định bơm vào lu thông hay thu hút ra một lợng tiền tệ tơng ứng.
Rõ ràng nó liên quan đến khả năng, trình độ phân tích và dự báo vốn khả dụng
cần duy trì của các tổ chức tín dụng cũng nh sự kiểm soát đối với loạt vốn này của
Ngân hàng Trung ơng.
* Đánh giá sự phát triển của nghiệp vụ thị trờng mở trong tơng lai:
Có thể nói, nghiệp vụ thị trờng mở là một công cụ mới mẻ của chính sách

tiên tệ. Vì vậy, trong thời kì đầu giao dịch, nghiệp vụ thị trờng mở có thể cha th-
ờng xuyên. Trong các phiên đấu thầu mua và bán, cũng có thể không đạt đợc khối
lợng mua hoặc bán các giấy tờ có giá trị. Do đó, không nên đánh giá vội nghiệp
vụ thị trờng mở cha thành công.
Đồng thời, nghiệp vụ thị trờng mở đợc coi là bớc trung gian để tiến tới việc
tự do hoá lãi suất trong tơng lai. Điều 18 của Luật Ngân hàng Nhà nớc quy định
Ngân hàng Nhà nớc xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.
Các tổ chức tín dụng sẽ căn cứ vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nớc công bố
để xác định lãi suất huy động và cho vay của mình. Khi thị trờng mở hoạt động
thờng xuyên thì việc hình thành lãi suất trên thị trờng mở sẽ là một trong những
cơ sở để Ngân hàng Nhà nớc xác định mức lãi suất cơ bản. Về cơ bản Ngân hàng
Nhà nớc đã ban hành các văn bản pháp lí cần thiết có liên quan đến hoạt động
của thị trờng mở. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nớc đang gấp rút lắp đặt thiết bị máy
móc và dự đoán các tổ chức tín dụng sẽ chuẩn bị xong và triển khai hoạt động
trong quý III/2000.
Cung ứng tiền Lãi suất Mức độ rủi ro
1. Qua nghiệp vụ TTM Là lãi suất đấu thầu Thấp nhất
2. Qua chiết khấu giấy
tờ có giá
Là lãi suất ấn định
(lãi suất chiết khấu)
Thấp hơn
3. Qua cho vay chiết
khấu hoặc cho vay tái
cấp vốn
a. Có bảo đảm
b. Mức ấn định
Lãi trả trớc
Lãi trả sau hàng tháng
Lãi suất ấn định

Lãi suất ấn định
Thấp hơn
Chấp nhận rủi ro để
đảm bảo an toàn hệ
thống
4. Qua cho vay thanh
toán bù trừ
Lãi suất ấn định cao
Không có cơ sở đảm
bảo
5. Qua mua ngoại tệ Tỉ giá ấn định An toàn
6. Dự trữ bắt buộc Không lãi suất An toàn
Ta có thể hiểu rõ các nghiệp vụ, mức lãi suất, độ rủi ro của các công cụ
chính sách tiền tệ của Việt Nam bằng bảng tóm tắt trên đây.
2.3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
2.3.1. Mục tiêu trung gian:
Chúng ta biết rằng, Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam chọn khối tiền M
2
làm
mục tiêu trung gian trong việc điều hành chính sách tiền tệ, bởi thực tế đã chỉ ra
rằng sự biến động của mức giá và sản lợng trong thập kỉ 90. Tuy nhiên, việc thực
hiện lãi suất ấn định đã làm giảm đi mục tiêu trung gian này. Vậy ta thử xem mục
tiêu trung gian M
2
đợc sử dụng nh thế nào? Chính sách trần lãi suất có đặc điểm
gì? Và tình trạng mâu thuẫn mục tiêu M
2
và việc ấn định trần lãi suất ?
a. Cung tiền:
Nhân tố quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam

trong những năm qua là cung tiền tệ. Với nỗ lực về mọi mặt, trong thập kỉ 90,
Ngân hàng Nhà nớc đã có nhiều đổi mới trong việc cung tiền tệ. Phơng pháp tính
toán và điều hành cung ứng tiền trong chính sách tiền tệ đợc phát triển và bổ sung
dần từ sơ khai đơn giản, thiếu linh hoạt tiến tới bao quát, chú ý đầy đủ hơn các
yếu tố có liên quan, cho phép chủ động nhạy bén điều chỉnh theo tình hình thay
đổi của thị trờng.
Thật vậy, trớc năm 1992 việc tính toán khối lợng tiền cần phát hành hàng
năm ở Việt Nam thực chất là tính toán khối lợng tiền mặt cần phát hành. Nhu cầu
tiền tệ của nền kinh tế đợc xác định thông qua cân đối tiền mặt của các Ngân hàng
mà không tính đến nhu cầu tiền đợc hình thành qua khâu tín dụng trên cơ sở số d
của hệ thống Ngân hàng. Cách tính này tậo nên sự khai hiếm tiền mặt và gây áp
lực đối với tiền dự trữ.
Cho đến thời ki 1994-1995 cùng với sự thay đổi căn bản quan niệm về lợng
tiền cung ứng, khối lợng tiền cần phát hành tính trên cơ sở tính toán mức tiền
cung ứng tăng thêm vào đầu kì kế hoạch dựa vào các yếu tố: Tỉ lệ tăng trởng kinh
tế dự tính, sự thay đổi tốc độ lu thông tiền tệ và các nhân tố khác. Công thức tính
đợc cụ thể hoá là:
Lợng tiền cung ứng tăng thêm trong kì = Lợng tiền lu thông đầu kì *(tỉ lệ
tăng trởng kinh tế dự kiến + tỉ lệ lạm phát dự tính).

×