Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Giao an bai 16 lớp sơ cấp lý luận chính trị chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.85 KB, 28 trang )

Bài 16:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Người soạn
: Dương Văn Mưu
Đối tượng giảng: Học viên lớp Sơ cấp lý luận chính trị
Số tiết lên lớp : 05 tiết

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
+ Giúp học viên hiểu và thấy được hoàn cảnh và ý nghĩa của sự ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam.
+ Học viên hiểu được quá trình Đảng lãnh đạo các phong trào cách mạng 19301939; Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa giành chính quyền
(1939-1945).
2. Yêu cầu:
+ Sau khi nghiên cứu chuyên đề, học viên hiểu được giá trị to lớn của việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân giành
chính quyền.
+ Liên hệ với sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở Phú Bình và các phong
trào đấu tranh cách mạng trên địa bàn huyện giai đoạn 1930-1945.
B. KẾT CẤU NỘI DUNG, PHÂN CHIA THỜI GIAN
* Bài giảng được kết cấu nội dung và phân chia thời gian như sau:
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. (65 phút)
1. Tình hình thế giới và Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
2. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đó chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối giải phóng dân tộc.
II. Đảng lãnh đạo các phong trào cách mạng 1930-1939. (70 phút)
1. Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930 - 1935


2. Đảng lãnh đạo Phong trào dân chủ 1936 - 1939
III- Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa giành
chính quyền 1939 – 1945 (70 phút)
1. Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc 1939 – 1941
2. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền 1941 – 1945
3. Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời (2/9/1945).
1


C. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY, ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
1. Phương pháp: Thuyết trình, phân tích, nêu vấn đề, hỏi đáp.
2. Đồ dùng: Máy tính, máy chiếu …
D. TÀI LIỆU PHỤC VỤ SOẠN GIẢNG
- Tài liệu chương trình Sơ cấp lý luận chính trị.
- Tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới.
- Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình 1930-2005
- Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình 1943-2018
E. NỘI DUNG CÁC BƯỚC LÊN LỚP VÀ PHÂN CHIA THỜI GIAN
Bước 1: Ổn định lớp (03 phút)
Giáo viên giới thiệu làm quen với lớp, tạo không khí cởi mở, vui vẻ đối
với học viên của lớp học.
Bước 2: Kiểm tra bài cũ (07 phút)
Đồng chí hãy nêu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
(Học viên phát biểu - giảng viên bổ sung, dẫn vào bài mới)
Bước 3: Giảng bài mới (205 phút)
* Đặt vấn đề:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ
kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất

sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận
dân tộc thống nhất Việt Nam, và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay
là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn cách mạng Việt
Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội .
* Bài mới
Nội dung
Phương pháp
I. SỰ RA ĐỜI CỦA
Phần này giảng viên sử dụng phương pháp nêu vấn
ĐẢNG CỘNG SẢN đề, thuyết trình, phân tích; sử dụng đồ dùng: máy chiếu.
GV dẫn vào mục I: Trong mỗi chặng đường phát
VIỆT NAM.
triển của cách mạng Việt Nam đều in dấu ấn quan trọng của
chủ tịch Hồ Chí Minh. Nội dung bài học tập trung 3 nội
dung chính: (trình chiếu)
*/ Thế giới:
Nguyên nhân CNTB đi GV thuyết trình: Bước sang thế kỷ 19 các nước tư bản
xâm lược các nước phương Tây có các phát minh khoa học kỹ thuật phát triển
mạnh, khi mà khoa học kỹ thuật phát triển mạnh thì sẽ làm
khác ?
- Chủ nghĩa tư bản cho sản lượng công nghiệp tăng nhanh và để thu được lợi
phương Tây chuyển từ nhuận thì các nước Tư bản phương Tây ráo riết tìm kiếm thị
2


giai đoạn tự do cạnh trường, Châu Á và Châu Phi trở thành hai đối tượng xâm
tranh sang giai đoạn độc lược chủ yếu của bọn chúng. Có thể nói là hầu hết các nước

quyền.
nghèo, chậm phát triển đều trở thành thuộc địa hoặc nửa
thuộc địa của CNĐQ.
* Việt Nam:
Giảng viên thuyết trình:
- Ngày 01 tháng 9
Ngày 01 tháng 9 năm 1858 Thực dân Pháp nổ phát
năm 1858 Thực dân súng đầu tiên vào bán đảo Sơn Trà của tỉnh Đà Nẵng mở
Pháp nổ súng tân công đầu quá trình xâm lược nước ta.
Việt Nam, mở đầu quá
(Quan sát hình ảnh......)
trình xâm lược nước ta.
Đứng trước tình thế đó bất chấp sự phản kháng cùng
với các phong trào kháng chiến chống Thực dân Pháp của
nhân dân cả nước, triều đình nhà Nguyễn có thể nói là nhu
nhược, yếu kém, không đủ sức chống đỡ, từng bước thoả
hiệp và lần lượt lý với Pháp các bản Hiệp ước dâng toàn bộ
nước ta cho thực dân Pháp.
Cụ thể là Hiệp ước Nhâm Tuất 1862, Hiệp ước Giáp
Tuất 1874, Hiệp ước Hacmang 1883, Hiệp ước Patenotre
1884. Vậy là chỉ trong gang tấc đất nước ta đã bị rơi vào tay
thực dân Pháp.
Đến cuối thế kỷ 19, công cuộc xâm chiếm, bình định Việt
Nam căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu xác lập
chế độ cai trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Để thực
hiện được mưu đồ của mình thực dân Pháp đã áp đặt chính
sách cai trị chuyên chế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội.
* Về chính trị:
* Về chính trị:

GV: Trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
- Áp đặt chế độ trực trị máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến
trên đất nước ta
giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực. Người Pháp trực tiếp nắm quyền cai trị đến cấp tỉnh.
Đối với cấp Phủ, huyện, châu, xã thực dân Pháp sử dụng
người bản địa để cai trị.
GV: Thực dân Pháp chia Việt Nam ra thành ba kỳ:
- Thực hiện chính sách Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau
chia rẽ dân tộc, chia rẽ (Bắc kỳ và Trung kỳ là chế độ bảo hộ, Nam kỳ là chế độ
tôn giáo:
thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm). Mục đích chủ yếu của
chính sách này là nhằm xóa bỏ tên Việt Nam trên bản đồ thế
giới và phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia, dân tộc ta.
=> Thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã
3


* Về kinh tế:
- Thực hiện chính sách
độc quyền.
- Đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý và vô nhân
đạo. VD: Thuế muối,
thuế thân, thuế thuốc
phiện, thuế rượu...

* Về văn hoá - xã hội
- Thi hành chính sách
ngu dân, khuyến khích

văn hoá nô dịch, sùng
Pháp.

man, tàn bạo, làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền
tự do dân chủ.
* Về kinh tế:
- Thực dân Pháp mua hàng hoá của ta với giá rẻ mạt,
trong khi đó hàng hoá dư thừa của Pháp được nhập vào Việt
Nam. Hàng hoá Pháp thống trị thị trường Việt Nam vì được
miễn thuế. Tất cả các lợi nhuận đều lọt vào tay các công ty
của Pháp… chúng đánh thuế cao để không chế hàng hoá
của các nước khác muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam.
- Khai thác mỏ được tập trung chủ yếu ở Bắc kỳ như
mỏ than, mỏ vàng... số lượng mỏ tăng lên nhanh chóng,
cướp đất lập đồng điền trồng cao su, mía…
- Về giao thông vận tải: các công trình được đầu tư
xây dựng chỉ để phục vụ cho công cuộc khai thác. Chỉ mở
đường ở những nơi có đồn điền, mỏ than, mỏ vàng….
* Về văn hoá - xã hội
GV: Mục đích của việc thực hiện chính sách ngu dân là
làm cho dân ta không biết chữ thì không biết thông tin. Theo
thống kê lúc bấy giờ thì dân số nước ta có tới 90% mù chữ.
Ngoài ra thực dân pháp ra sức ngăn chặn ảnh hưởng của
văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam, khuyến khích
các hoạt động mê tín dị đoan, đồi bại phong tục, xuyên tạc
lịch sử và giá trị văn hóa Việt Nam đầu độc thanh niên Việt
Nam bằng rượu cồn, thuốc phiện, tuyên truyền tư tưởng
khai hóa văn minh, nước mẹ đại Pháp nhằm mục đích tạo
nên tâm lý phục Pháp, sợ Pháp để thực dân Pháp dễ bề cai
trị nhân dân ta.

GV liên hệ với huyện Phú Bình trong những năm dưới sự
cai trị của thực dân Pháp (Phụ lục 1- Tài liệu Lịch sử
Đảng bộ huyện)
Chuyển ý: Chúng ta vừa tìm hiểu khái quát về tình
hình thế giới và Việt Nam trước khi ĐCSVN ra đời, từ đó
chúng ta thấy rõ được sự xâm lược trắng trợn, chính sách
cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, thấy
được sự thống khổ của người dân Việt Nam dưới ách áp bức
bóc lột của thực dân Pháp và những mâu thuẫn cơ bản cần
phải được giải quyết trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước tình hình xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu
sắc như thế thì tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam
4


2. Các phong trào yêu
nước ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX.

- Phong trào yêu nước
của nông dân và sĩ phu
yêu nước.

- Các phong trào yêu
nước theo hệ tư sản

được thể hiện như thế nào? Chúng ta sang phần 2.
2. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX.

Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những
nǎm hai mươi của thế kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc
đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc
Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được
thắng lợi vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.
Giảng viên thuyết trình:
Trong quá trình dựng nước và giữ nước dài lâu và gian
khổ, dân tộc ta sớm hình thành tuyền thống yêu nước nồng
nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy ngay từ
khi thực dân Pháp xâm lược nhân dân ta liên tiếp đứng lên
chống lại bọn chúng. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ở Việt
Nam đã dấy lên nhiều phong trào yêu nước theo nhiều
khuynh hướng khác nhau. Tiêu biểu là phong trào yêu nước
của nông dân, sỹ phu yêu nước và phong trào yêu nước theo
hệ tư tưởng tư sản.
+ Phong trào Cần Vương diễn ra ở Trung kỳ và Bắc Kỳ
(1885-1896). Đây là phong trào do giai cấp phong kiến lãnh
đạo với mục đích là phò Vua giúp nước;
+ Khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo diễn ra ở Bắc Kỳ (1883-1913). Đây là cuộc
khởi nghĩa nông dân tiêu biểu nhất của Nông dân Việt Nam
thời kỳ này. Huyện Yên thế là địa phương nằm ngay bên
cạnh chúng ta, có rất nhiều nông dân ở Phú Bình cũng tham
gia vào cuộc khởi nghĩa này.
(GV liên hệ các phong trào đấu tranh ở huyện Phú Bình
thời kỳ này- Phụ lục 2)
Chuyển ý: Sau khi phong trào Cần Vương thất bại thì
nhiều sĩ phu yêu nước hướng ra nước ngoài tìm con đường
cứu nước mới.
- Các phong trào yêu nước theo hệ tư sản có:

+ Phong trào Đông Du (1906-1908)
Do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, ông chủ trương dựa
vào sự giúp đỡ từ bên ngoài mà cụ thể là dựa vào Nhật Bản,
ông đưa gần 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật học khoa
học kỹ thuật và quân sự, nhưng ông không hình dung ra
được đây lại là cách "Cõng rắn cắn gà nhà"; vì năm 1908
5


=> Các phong trào này
đều liên tiếp bị thất bại.

Nguyên nhân thất bại :
+ Do chưa tìm ra được
con đường cứu nước
đúng đắn
+ Thiếu một tổ chức tiên
phong lãnh đạo cách
mạng

* Nguyễn Ái Quốc và
quá trình tìm đường
cứu nước ở Việt Nam:

Nhật cấu kết với Pháp.
+ Phong trào Đông Kinh nghĩa Thục (1907)
Do Lương Văn Can lãnh đạo diễn ra dưới hình thức
tuyên truyền cải cách, cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân;
+ Phong Trào Duy Tân (1906-1908)
Do cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc

Kháng lãnh đạo với chủ trương bất bạo động tiến hành cải
cách văn hóa, mở mang dân trí làm cho dân giàu nước
mạnh nhưng các ông lại chủ trương dựa vào Pháp để tiến
hành cải cách cho nên không lâu sau đó phong trào đã bị
thực dân Pháp đàn áp dã man, các trường học và hội buôn
đều bị đóng cửa.
Các phong trào yêu nước đó là những cuộc biểu dương
tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam nhưng
hầu hết đã thất bại.
Giảng viên nêu câu hỏi và gợi ý trả lời :
?Nguyên nhân thất bại của những phong trào yêu
nước trong thời kỳ này là gì?
Trả lời: Do hai nguyên nhân cơ bản:
+ Thứ nhất là do chưa tìm ra được con đường cứu nước
đúng đắn
+ Thứ hai là thiếu một tổ chức tiên phong lãnh đạo cách mạng
Giảng viên thuyết trình:
Các cuộc khởi nghĩa thất bại đã dìm nhân dân ta trong
một bể máu, cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắc, khủng
hoảng. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn và phù
hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là
yêu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. Nguyễn
Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc
tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh … nhưng
Người không tán thành con đường mà các vị đã chọn vì nó
không còn phù hợp.
* Nguyễn Ái Quốc và quá trình tìm đường cứu
nước ở Việt Nam:
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh thời thơ ấu tên là Nguyễn
Sinh Cung, khi đi học tên Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm

hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí
danh, bút danh khác) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 ở làng
Hoàng Trù xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
6


- Quá trình tìm đường
cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc được chia làm hai
giai đoạn:
+ Giai đoạn 1911 - 1920

Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn
lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống
giặc ngoại xâm. Sống trong cảnh nước mất, nhân dân bị đày đoạ
trong đau khổ. Người thanh niên giàu lòng yêu nước đó đã sớm
có trí đánh đuổi thực dân Pháp và giải phóng đồng bào.
Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862, mất
năm 1929, ông thi đỗ Phó bảng và sống bằng nghề dạy học.
Đối với các con, cụ Phó bảng hết lòng yêu thương, giáo dục ý
thức lao động và học tập để hiểu đạo lý làm người.
Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, mất
năm 1901 là một người phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu
sống bằng nghề dệt vải, hết lòng thương yêu và chăm lo cho
chồng con.
Người có ba anh chị em. Chị của Người là Nguyễn Thị
Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884,
mất năm 1954. Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm (1888
- 1950). Người em út là Nguyễn Sinh Nhuận, sinh năm 1900,
đã mất lúc còn nhỏ vì ốm yếu.

Bác Hồ của chúng ta là người chỉ vì dân vì nước mà
Bác không có đời sống riêng tư, các đ/c biết rằng 10 tuổi
Bác đã mồ côi mẹ, mẹ Bác bà Hoàng Thị Loan chỉ sống 1
cuộc đời rất ngắn ngủi, 33 tuổi bà đã qua đời rồi, mà trong
những ngày giáp tết ở Huế chỉ có mẹ Bác, Bác và 1 cậu em
mới sinh, trong lúc mà Bác sang hàng xóm để xin thuốc cho
mẹ và xin sữa cho em, khi quay về thì bà đã chết từ lúc nào
rồi; trong khi đó người em vẫn còn rất bé, sau khi mẹ Bác
mất, khi mà em khóc vì khát sữa thì Bác ngắt nhụy hoa dâm
bụt để đặt vào miệng em vì có vị ngọt để cho em nín khóc, và
sau này đi đến đâu Bác cũng trồng hoa dâm bụt, ở trên ATK
cũng có, vì thứ nhất là để Bác đỡ nhớ quê và thứ 2 để nhắc
lại 1 kỷ niệm đau buồn tuổi thơ của Bác
Vượt qua những khó khăn của gia đình, Bác Hồ của
chúng ta quyết tâm tìm đường cứu nước. Quá trình tìm
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc được chia làm hai
giai đoạn:
+ Giai đoạn 1911 - 1920
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của
các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu
nước của các cụ. Vượt qua tầm hạn chế của những sỹ phu
7


yêu nước đương thời
- Ngày 05 tháng 6 năm 1911 Người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành (Tức Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh) từ bến cảng Nhà Rồng đã ra nước ngoài bắt đầu cuộc
hành trình tìm đường cứu nước.
(Tích hợp thơ Chế Lan Viên- Phụ lục 3)

Với tên gọi Văn Ba người đã xin làm phụ bếp trên tàu Đô
đốc Latút Tơlơ vin một tàu lớn vừa chở hàng, vừa chở khách
của hãng Năm Sao rời cảng Sài Gòn đi Mác xây (Pháp). Người
qua nhiều nước trên thế giới nhất là các nước tư bản phát triển
như Anh, Pháp, Mỹ với mục đích tìm hiểu thực chất đằng sau tư
tưởng Tự do - bình đẳng - bác ái là gì và tìm hiểu rõ hơn về
nước pháp, nước đang thống trị mình.
Người không dừng lại ở Pháp, năm 1912 Nguyễn Tất
Thành làm thuê cho 1 chiếc tàu của hãng sác giơ đi vòng
quanh Châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của
một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Đến đâu
Người cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự
áp bức của bọn thống trị. Tiếp tục theo con tàu Người có dịp
dừng chân ở nước Mỹ vào cuối năm 1912 và người có dịp
tìm hiểu về cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ
với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử.
Năm 1913 Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ đến nước
Anh. Để kiếm tiền sinh sống, Người đã nhận làm cào tuyết cho
một trường học rồi làm thợ đốt lò...công việc rất vất vả nhưng
ngày ngày Người vẫn dành thời gian học tiếng Anh.
(Tích hợp thơ Chế Lan Viên- Phụ lục 3)
Trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, thâm nhập
vào đời sống thực tế của nhân dân lao động trên thế giới,
vừa nghiên cứu lý luận, vừa khảo sát thực tiễn tại các nước
mà Người đi qua Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan
trọng: ở đâu bọn thực dân đế quốc cũng tàn bạo, độc ác, ở
đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man, ở đâu cũng có
hai loại người: Người giàu và người nghèo, người áp bức và
người bị áp bức.
- 1917 Cách mạng tháng 10 Nga thành công đã ảnh

hưởng rất lớn đến xu hướng hoạt động của Người
Người ngưỡng mộ và tìm hiểu cuộc cách mạng này.
Khác với cuộc cách mạng tư sản Pháp, đây là cuộc cách
8


mạng đến nơi, đây là cuộc cách mạng đã đưa nhân dân lao
động từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ. Người quyết tâm
phải tìm hiểu về cuộc cách mạng tháng 10 Nga.
- Năm 1919 Người tham gia Đảng xã hội Pháp
- T6/1919 Sau khi chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết
thúc các nước Đế quốc thắng trận họp Hội Nghị Vecxay để
phân chia quyền lợi.
Tại hội nghị này, Người đã thay mặt những người Việt
Nam yêu nước sống ở Pháp gửi tới hội nghị bản yêu sách
đòi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt
nam. Tuy bản yêu sách đó không được HN đáp ứng nhưng
đã gây được tiếng vang lớn và từ đó giúp Người càng hiểu
rõ "Những lời tuyên bố của nhà chính trị tư sản trong lúc
chiến tranh chỉ là lừa bịp".
- T7/1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin.
Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà
Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở và chính từ đây Người đã tìm
ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản" mà cách mạng vô sản là do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
(Tích hợp thơ Chế Lan Viên- Phụ lục 3)

- T12/1920, Tại ĐH Đảng xã hội Pháp họp ở Tours,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của
dân tộc Việt Nam (Quốc tế III - Quốc tế cộng sản do Lênin sáng
lập).
Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc
đời hoạt động của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở
thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế.

=> Như vậy từ năm 1911
- 1920 là thời kỳ Nguyễn
Ái Quốc khảo sát, nghiên
cứu để lựa chọn con
đường giải phóng dân
tộc Việt Nam khỏi ách nô
lệ của bon thực dân,
phong kiến.
+ Giai đoạn 1920-1930 + Giai đoạn 1920-1930
Từ giữa năm 1921 đến đầu năm 1930, sau khi tìm thấy
- Nguyễn Ái Quốc là con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
người Việt Nam đầu tiên vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp vừa
tiếp thu và vận dụng nghiên cứu học tập bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu
9


sáng tạo CN Mac - Lênin
và Việt Nam, tìm ra con
đường đúng đắn giải
phóng dân tộc.


3. Hội nghị thành lập
Đảng và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của
Đảng

- Từ ngày mùng 3 đến
ngày 07 tháng 3 năm
1930 Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản
được tổ chức tại bán đảo
Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc). Hội nghị
đã nhất trí hợp nhất tất cả
các tổ chức cộng sản
(Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản
Đảng, Đông Dương Cộng
sản liên đoàn) thành một
Đảng duy nhất lấy tên là

nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thành
lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
- Tháng 12/1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu
(Trung Quổc) trực tiếp tham gia chỉ đạo việc thành lập Đảng
Cộng sản.
Tại đây Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho

báo Thanh Niên, xuất bản tác phẩm Đường kách mệnh
nhằm truyền bá CN Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ
chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu của Nguyễn Ái
Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón
nhận như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang
đói mà có cơm ăn. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
- Tháng 3/1929 một số phần tử tiên tiến của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên họp tại số nhà 5D, phố Hàm
Long, Hà Nội, quyết định thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên
ở Việt Nam gồm 07 đồng chí.
- Ngày 17 tháng 6 năm 1929 Đông Dương Cộng sản
Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa thu, năm 1929 An Nam cộng sản Đảng thành lập
ở Nam kỳ
- Tháng 01 năm 1930 Đông Dương Cộng sản liên đoàn
thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã
có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập mà sự tồn
tại của ba tổ chức cộng sản trong một quốc gia là không
hợp lý, sẽ chứa đựng và dẫn tới nguy cơ bị chia rẽ lớn. Yêu
cầu bức thiết của cách mạng lúc đó là cần phải có một Đảng
thống nhất để lãnh đạo cách mạng.
Trước yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng
trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan đến Hương Cảng 10



Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Hội nghị thông qua
chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, chương
trình tóm tắt, điều lệ vắn
tắt của Đảng. Đây là
cương lĩnh cách mạng
đầu tiên của ĐCSVN.

Ý nghĩa:
=> Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời chấm
dứt tình trạng khủng
hoảng về đường lối cứu
nước và lực lượng lãnh
đạo cách mạng.

4. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã
chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối giải
phóng dân tộc.

Trung Quốc vào cuối năm 1929, triệu tập Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản đi đến thành lập một chính Đảng duy
nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói đồng chí
Nguyễn Ái Quốc là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín

đáp ứng yêu cầu đó.
+ Hội nghị thành lập Đảng
Từ ngày mùng 3 đến ngày 07 tháng 2 năm 1930, Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được tổ chức tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), dưới sự chủ trì
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - đại biểu của Quốc tế cộng
sản, Hội nghị đã nhất trí hợp nhất tất cả các tổ chức cộng sản
thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Hội nghị thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt, chương trình tóm tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng. Đây là
cương lĩnh cách mạng đầu tiên của ĐCSVN.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
năm 1960, Đảng đã ra Nghị quyết về ngày thành lập Đảng,
quyết định lấy ngày 03 tháng 02 dương lịch hàng năm làm
ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam:
- ĐCSVN được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu
của thế kỷ XX, là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là kết quả
của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và
của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng đứng đầu là đồng
chí Nguyễ Ái Quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt tình trạng
khủng hoảng về đường lối cứu nước và lực lượng lãnh đạo
cách mạng.
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.

Việc tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và
việc soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự sáng tạo của mình trong cả
hoạt động lý luận và thực tiễn. Đánh giá về sự kiện trọng đại
11


này trong lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: Có thể nói ĐCSVN ra đời là bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử CMVN. Chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chứng tỏ giai cấp vô
sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Từ đây cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, một đảng Mácxít kiên
cường, có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ
sở vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Dẫn ý: Có Đảng lãnh đạo, đất nước vượt qua bao khó khăn
gian khổ, đạt được những thành tựu to lớn. Đó là những
thành tựu nào chúng ta đi nghiên cứu sang phần II.
II. Đảng lãnh đạo các
phong trào cách mạng II. Đảng lãnh đạo các phong trào cách mạng 1930 - 1939
1930 – 1939.
Giảng viên thuyết trình:
Ngay từ khi mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu
nước đúng đắn. Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết xung quanh
mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước. Đảng ta
từng bước vận động, giáo dục quần chúng qua 3 cao trào
cách mạng:

- Cao trào Xô viết - Nghệ tĩnh 1930-1931.
- Phong trào đòi dân sinh dân chủ 1936-1939
- Phong trào giải phóng dân tộc dẫn tới cách mạng
1. Đảng lãnh đạo phong Tháng 8/1945.
trào cách mạng 1930 1. Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930 - 1935
1935
Với đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh chỉ tồn tại trong
một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa rất to lớn. Cao trào
cách mạng cùng với sự ra đời của chính quyền Xô Viết là kết
tinh của khối liên minh công - nông do giai cấp công nhân
- Xô Viết Nghệ lãnh đạo.
Tĩnh là cuộc khởi nghĩa
Xô Viết Nghệ Tĩnh là tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của
đầu tiên dưới sự lãnh đạo lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong
của Đảng Cộng sản Việt năm 1930-1931 chống lại đế quốc Pháp tại Việt Nam.
Nam kể từ khi ra đời.
Phong trào này được mở đầu bằng cuộc biểu tình
ngày 1 tháng 5 năm 1930 của công nhân khu công nghiệp
Bến Thủy và nông dân thuộc 5 xã ven thành phố Vinh. Từ
đó đến tháng 8 năm 1930, ở vùng Nghệ Tĩnh đã có đến 97
cuộc bãi công và biểu tình của công nhân và nông dân, trong
12


đó đáng chú ý là cuộc bãi công kéo dài của công nhân Nhà
máy Diêm đã dẫn đến cuộc tổng bãi công của toàn thể công
nhân khu công nghiệp Bến Thủy. Đứng đằng sau những vụ
việc này là sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương thông qua Xứ ủy Trung Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1930, các cuộc biểu tình vũ trang tự vệ

quy mô lớn kết hợp với các yêu sách chính trị liên tiếp nổ ra
của nông dân các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Can Lộc,
Hưng Nguyên, v.v... làm cho bộ máy chính quyền thực dân
Pháp và bộ máy chính quyền địa phương (vốn bị coi là bù
nhìn) của nhà Nguyễn lâm vào tình trạng tê liệt và tan rã. Dưới
sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, tổ chức nông
hội ở những nơi chính quyền tan rã đã kiểm soát và thành lập
chính quyền mới với hình thức giống như hệ thống Xô viết.
Chính quyền Xô viết đầu tiên được hình thành hàng
loạt tại nhiều xã thuộc các huyện, thị xã: Thanh
Chương, Nam Đàn, Anh Sơn, Nghi Lộc, Vinh - Bến
Thuỷ, Can
Lộc, Thạch
Hà, Đức
Thọ, Hưng
Nguyên, Hương Sơn...
Các chính quyền Xô viết một mặt thi hành các chính
sách mới, mặt khác phá bỏ hệ thống chính quyền cũ, trưng
thu đất, thóc gạo, tiền bạc của các địa chủ, đồng thời ra yêu
sách với các chủ xưởng, chủ tàu ở vùng này.
Tuy vậy những chính quyền kiểu này chỉ tồn tại sau
bốn, năm tháng do bị chính quyền của thực dân Pháp phối
hợp với chính quyền địa phương của triều đình nhà Nguyễn
trấn áp làm tan rã và giải thể.
Xô Viết Nghệ Tĩnh được đánh giá là đỉnh cao của
phong trào Cách mạng trong những năm 1930 – 1931 và
theo các tài liệu ở Việt Nam hiện hành thì đây là cuộc khởi
nghĩa đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam kể từ khi ra đời.
Sau phong trào Xô viết, thực dân Pháp ra sức khủng bố,

đàn áp dân ta. Hàng vạn đồng bào và chiến sỹ yêu nước bị
bắt. Hàng ngàn người bị Pháp kết án tử hình.
Từ năm 1932, Đảng ta ban hành nhiều chủ trương để
khôi phục hoạt động. Đến cuối năm 1933, nhiều tổ chức
đảng được xây dựng lại và củng cố. Đầu năm 1934, với sự
giúp đỡ của quốc tế cộng sản, Ban lãnh đạo Hải ngoại của
13


2. Đảng lãnh đạo Phong
trào dân chủ 1936 1939
+ Hoàn cảnh lịch sử
- Đầu những năm 30
(thế kỉ XX), chủ nghĩa
phát xít xuất hiện, nhiệm
vụ trước mắt của phong
trào cách mạng thế giới
là chống phát xít.

Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng
Phong đứng đầu.
Tháng 3/1935, Đảng ta tổ chức Đại hội lần thứ nhất của
Đảng (Ma Cao, Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại
biểu, thay mặt có 600 đảng viên trong cả nước (hoạt động cả
ở trong và ngoài nước). Đại hội đã nêu ra 3 nhiệm vụ trước
mắt cần thực hiện là :
- Củng cố và phát triển Đảng.
- Đẩy mạnh vận động quần chúng.
- Chống chiến tranh đế quốc.
Mặc dù chưa phải là bước đột phá, xong Đại hội cũng

đã đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi lúc bấy giờ. Đó là sự chuẩn bị
cần thiết để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Dẫn ý: Nếu như Cao trào 1930 - 1931 là cuộc diễn tập đầu
tiên thì phong trào đòi dân sinh dân chủ 1936-1939 là cuộc
diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 sau
này. Chuyển phần 2.
2. Đảng lãnh đạo Phong trào dân chủ 1936 - 1939
+ Hoàn cảnh lịch sử
– Đầu những năm 30 (thế kỉ XX), chủ nghĩa phát xít
xuất hiện và tạm thời thắng thế ở một số nơi, như Tây Ban
Nha, Đức, Italia, Nhật Bản. Nguy cơ chiến tranh thế giới
xuất hiện.
– Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (7/1935) xác định
nhiệm vụ trước mắt của phong trào cách mạng thế giới
là chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hoà bình,
thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
– Tháng 6/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở
Pháp, thi hành những cải cách tiến bộ ở thuộc địa. Chính
phủ của mặt trận nhân dân Pháp còn cử phái viên sang điều
tra và nới rộng một số quyền tự do, dân chủ tối thiểu ở các
nước thuộc địa.
– Ở Việt Nam, ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh
tế (1929 – 1933) vẫn tiếp diễn. Trong khi đó, thực dân Pháp
lại tiến hành một chiến dịch khủng bố để đàn áp phong trào
cách mạng 1930 – 1931. Đời sống chính trị và kinh tế rất
căng thẳng. Yêu cầu của của mọi tầng lớp xã hội là các
quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống.
14



+ Chủ trương của Đảng
Cộng sản Đông Dương.
– Nhiệm vụ trước mắt là
đấu tranh chống chế độ
phản động thuộc địa,
chống phát xít.
– Phương pháp đấu tranh
là kết hợp các hình thức
công khai và bí mật, hợp
pháp và bất hợp pháp.

+ Những phong trào
đấu tranh tiêu biểu
– Phong trào đấu tranh
tự do, đòi dân sinh, dân
chủ.

– Phong trào đấu tranh
nghị trường.

+ Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) để định ra đường lối
và phương pháp đấu tranh. Hội nghị xác định:
– Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ
phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự
do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
– Kẻ thù trước mắt là thực dân phản động Pháp và tay
sai.
– Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công

khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.
– Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận
Dân chủ Đông Dương.
– Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
năm 1937 và 1938 đã bổ sung và phát triển nội dung Nghị
quyết Hội nghị Trung ương tháng 7/1936.
+ Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
– Phong trào đấu tranh tự do, đòi dân sinh, dân chủ
+ Từ giữa những năm 1936 được tin Quốc hội Pháp
cử phái đoàn điều tra tình hình Đông Dương, Đảng
chủ trương vận động các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra
bản “dân nguyện” để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập
Đông Dương đại hội vào tháng 8/1936.
+ Lợi dụng sự kiện Gô-đa sang điều tra tình hình
và Brêviê nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng tổ chức
quần chúng mít-tinh, đón rước, biểu dương lực lượng, đưa
yêu sách đòi quyền dân sinh, dân chủ.
+ Trong những năm 1937 – 1939, các cuộc mít tinh,
biểu tình của nhân dân diễn ra sôi nổi. Nhiều hình thức
tổ chức quần chúng ra đời như Hội cứu tế bình dân, Hội
truyền bá Quốc ngữ. Đặc biệt là ngày 1/5/1938, lần đầu tiên
trong ngày quốc tế lao động nhiều cuộc mít tinh được tổ
chức ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, thu hút đông đảo
quần chúng tham gia.
– Phong trào đấu tranh nghị trường:
+ Đảng Cộng sản Đông Dương vận động đưa người
của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra ứng cử vào các cơ
quan: Viện Dân biểu Trung Kì (1937), Viện Dân biểu Bắc
15



– Đấu tranh trên lĩnh
vực báo chí.

=> Đây là một bước
chuẩn bị lực lượng cho
cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945.

Kì, Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương (1938) và Hội đồng
Quản hạt Nam Kì (1939).
+ Mục đích: mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân
chủ và vạch trần chính sách phản động của thực dân và tay
sai, bênh vực quyền lợi của đa số quần chúng nhân dân.
– Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí:
+ Đảng Cộng sản Đông Dương đã xuất bản nhiều
tờ báo công khai: Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Tin
tức…, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ.
+ Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán được
xuất bản: Tắt đèn, Lão hạc, Bước đường cùng…
+ Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí giúp cho quần
chúng nhân dân được giác ngộ về đường lối cách mạng.
+ Nhận xét, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
– Là một phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản
Đông Dương lãnh đạo, diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia, với những hình thức tổ
chức và đấu tranh phong phú; buộc chính quyền thực dân
phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.

– Mặc dù khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (91939), thế lực phản động thuộc địa đàn áp cách mạng. Cuộc
vận động dân chủ kết thúc, nhưng vẫn có ý nghĩa lịch sử to
lớn:
+ Quần chúng được tổ chức, giác ngộ và rèn luyện qua
thực tiễn đấu tranh, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu
của cách mạng.
+ Đội ngũ cán bộ, đảng viên có sự phát triển về số
lượng và trưởng thành.
+ Đảng thêm trưởng thành một bước về chỉ đạo chiến
lược và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm quay báu.
– Bài học kinh nghiệm: Phong trào dân chủ 1936 –
1939 để lại nhiều bài học về xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất; về kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu
trước mắt, về sử dụng các hình thức đấu tranh…
– Phong trào dân chủ 1936- 1939 là một bước chuẩn bị
lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
(GV liên hệ với huyện Phú Bình giai đoạn này - Phụ lục 4)
16


III. Đảng lãnh đạo
phong trào giải phóng
dân tộc và khởi nghĩa
giành chính quyền 1939
– 1945.
1. Thời kỳ đấu tranh
giải phóng dân tộc 1939
- 1941
+ Hoàn cảnh lịch sử
- Chiến tranh thế giới

thứ hai bùng nổ và ngày
càng lan rộng.
- Mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam
với đế quốc xâm lược và
tay sai phát triển.

+ Chủ
trương
của
Đảng:
+ Đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng
đầu.
+ Phương pháp đấu tranh
chuyển từ đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ sang
đấu tranh trực tiếp.
+ Thành lập Mặt trận
thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương.

III. Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc và khởi
nghĩa giành chính quyền 1939 - 1945
1. Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc 1939 - 1941
+ Hoàn cảnh lịch sử
- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày
càng lan rộng: ngày 1/9/1939, phát xít Đức tiến công Ba
Lan. Hai ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng
6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, chính phủ

phản động Pê tanh lên cầm quyền. Tháng 6/1941, Đức tấn
công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi. Ở Châu Á Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tién
sát biên giới Việt - Trung. Tháng 9/1940, Nhật vào Đông
Dương.
– Ở Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc
đầu dậy, thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ; thi hành chính
sách “Kinh tế chỉ huy”. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp
đầu hàng Nhật và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột
nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải
chịu hai tầng áp bức.
Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
xâm lược và tay sai phát triển vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ
giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.
+ Chủ trương của Đảng
– Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương tháng 11/1939:
+ Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất
của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô
cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công –
nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng
hòa.
+ Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền
đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp
sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
+ Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp
mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc.
+ Ý nghĩa: Đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng,

17


dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa nhân dân bước
vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước.
– Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì:
+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập
dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết
nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”,
chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng
công.
+ Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một
mặt trận riêng. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) là
mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
+ Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị
khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân;
chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải
có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng
thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.
– Ý nghĩa:
+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc
được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tháng 11/1939.
+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc đứng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương
Chính trị tháng 10 – 1930.

+ Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách
mạng cho thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945.
Dẫn ý: Trên cơ sở lực lượng cách mạng được nuôi dưỡng từ
trước, bước vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước 1939
- 1945, việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt được đẩy mạnh.
Chuyển phần 2
2. Chuẩn bị khởi nghĩa 2. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền 1941
vũ trang giành chính - 1945
quyền 1941 - 1945
- Chuẩn bị lực lượng
*/ Chuẩn bị lực lượng chính trị
chính trị
+ Gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của Việt
18


- Lực lượng chính trị
quần chúng là lực lượng
đông đảo nhất, giữ vai
trò quyết định trong tổng
khởi nghĩa giành chính
quyền.
- Việt Minh là nơi tổ
chức, giác ngộ và rèn
luyện lực lượng chính trị,
đồng thời tạo điều kiện
để xây dựng lực lượng
vũ trang và căn cứ địa
cách mạng.


– Chuẩn bị lực lượng
vũ trang

Minh (bao gồm các đoàn thể quần chúng mang tên “cứu
quốc”). Chương trình của Việt Minh đáp ứng nguyện vọng
cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh
ngày càng phát triển mạnh.
+ Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng
các hội “Cứu quốc” trong mặt trận Việt Minh. Đến năm
1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc trong
đó có 3 châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và Nguyên
Bình). Trên cơ sở đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và
Uỷ ban Việt Minh lâm thời Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng
được thành lập.
+ Bắc Sơn – Võ Nhai cũng là một trung tâm chuẩn bị
khởi nghĩa. Sự ra đời và hoạt động của lực lượng vũ trang
Bắc Sơn làm cho các tổ chức cứu quốc được xây dựng rộng
khắp.
+ Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên – Hà Nội), vạch ra kế
hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể
Việt Minh, hội Cứu quốc được xây dựng và củng cố.
+ Năm 1943 bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời.
Năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam và Hội văn hoá cứu quốc
Việt Nam được thành lập, đứng trong hàng ngũ Việt Minh.
+ Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng công tác vận động
binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều
ở Đông Dương chống phát xít.

+ Báo chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh đã góp
phần vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng,
hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng đông đảo
nhất, một lực lượng cơ bản, giữ vai trò quyết định trong tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Việt Minh là nơi tổ chức,
giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị, đồng thời tạo điều
kiện để xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách
mạng.
GV: Cùng với quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị,
Đảng từng bước chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang.
– Chuẩn bị lực lượng vũ trang
+ Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (11 – 1940), lực lượng
19


+ Ngày 14/2/1941, Trung
đội cứu quốc quân I ra
đời.
+ Ngày 22/12/1944, Đội
Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân được
thành lập, lúc đầu có 34
chiến sĩ, do Võ Nguyên
Giáp chỉ huy.

=> Cả lực lượng chính trị
và lực lượng vũ trang
đều là cơ sở của bạo lực
cách mạng, là điều kiện

để tổng khởi nghĩa toàn
dân, thiết lập chính
quyền cách mạng.

vũ trang Bắc Sơn được duy trì để làm vốn quân sự cho cách
mạng. Bước sang năm 1941 những đội du kích ở khu căn cứ
Bắc Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành Trung
đội cứu quốc quân I (14/2/1941). Cứu quốc quân phát động
chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng
2/1942). Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc quân II ra đời.
+ Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển
mạnh, các đội tự vệ cứu quốc ra đời. Cuối năm 1941,
Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự vệ gồm 12 chiến sĩ,
làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên
lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc. Người biên soạn nhiều tài
liệu để huấn luyện cán bộ quân sự như Cách đánh du
kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh nghiệm du kích Tàu…
+ Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái
Quốc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy. Ba ngày sau, đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai
Khắt và Nà Ngần.
+ Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc
Kì quyết định thống nhất lực lượng vũ trang, phát triển lực
lượng bán vũ trang và xây dựng 7 chiến khu trong cả nước.
+ Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân được thống nhất thành Việt Nam giải
phóng quân.
+ Lực lượng bán vũ trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở
cả nông thôn và thành thị, gồm các đội du kích, tự vệ và tự

vệ chiến đấu.
Lực lượng vũ trang tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về
trang bị, non yếu về trình độ tác chiến, nhưng có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên truyền, góp phần
phát triển lực lượng chính trị; tiến công quân sự ở một số nơi
gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng xung
kích, lực lượng nòng cốt, hỗ trợ quần chúng nổi dậy tổng
khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ
sở của bạo lực cách mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang trong tổng khởi nghĩa toàn
dân, đập tan chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập
chính quyền cách mạng.
20


– Xây dựng căn cứ địa

3. Tổng khởi nghĩa
tháng 8 năm 1945, nước
Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời (2/9/1945).
– Hoàn cảnh lịch sử
+ Đầu năm 1945, Chiến

– Xây dựng căn cứ địa
+ Để tiến hành khởi nghĩa phải xây dựng căn cứ địa. Đó
là nơi giải quyết vấn đề tiềm lực của cách mạng.
+ Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc
Sơn – Võ Nhai được xây dựng thành một trung tâm căn cứ

địa, gắn liền với sự ra đời và hoạt động của lực lượng vũ
trang Bắc Sơn.
+ Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh
đạo cách mạng. Người chọn Cao Bằng làm nơi đầu tiên để
xây dựng căn cứ địa. Từ đó, căn cứ địa cách mạng ngày
càng mở rộng, phát triển thành căn cứ Cao – Bắc – Lạng.
(GV trích đọc thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên theo sự kiện này
– Phụ lục 3)
+ Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc –
Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” để phát triển lực
lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
+ Trong những vùng căn cứ cách mạng diễn ra các
hoạt động sản xuất, xây dựng, chiến đấu, hoạt động của
các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang. Ngày
16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban
Dân tộc giải phóng các cấp.
+ Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng
về Tuyên Quang. Người chọn Tân Trào làm trung tâm
chỉ đạo cách mạng.
+ Tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính
thức được thành lập, thực hiện 10 chính sách lớn của Việt
Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, là
hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai.
Tân Trào là thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời
khu giải phóng được thành lập.
+ Công cuộc chuẩn bị lực lượng được tiến hành chu
đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ thời cơ vùng
dậy Tổng khởi nghĩa.
3. Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời (2/9/1945).

* Khởi nghĩa từng phần (tháng 3/1945 đến giữa
tháng 8/1945)
– Hoàn cảnh lịch sử
+ Từ khi Nhật vào Đông Dương (9/1940), Nhật và Pháp
21


tranh thế giới thứ hai
bước vào giai đoạn kết
thúc.
+ Ngày 9/3/1945, Nhật
đảo chính lật đổ Pháp,
tạo nên một cuộc khủng
hoảng chính trị ở Đông
Dương.
+ Ngày 12/3/1945, Ban
Thường vụ Trung ương
Đảng ra chỉ thị Nhật –
Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta, xác
định phát xít Nhật là kẻ
thù chính.

– Diễn biến
+ Ở vùng rừng núi
và trung du Bắc Kì,
chiến tranh du kích phát
triển mạnh, giải phóng

hoà hoãn với nhau, nhưng đó chỉ là sự hoà hoãn tạm thời, vì

hai tên đế quốc không thể chung một xứ thuộc địa.
+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô giải phóng các nước
Đông Âu và tiến vào nước Đức. Quân Anh – Mĩ giải phóng
nước Pháp, rồi tiếp tục tiến công vào Đức từ phía Tây. Ở
mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh phản
công, giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. Sau khi
Mĩ chiếm lại Philipin, đường biển của Nhật đi xuống các căn
cứ ở phía Nam bị cắt đứt, chỉ còn đường bộ duy nhất qua
Đông Dương. Vì thế Nhật cần độc chiếm Đông Dương bằng
mọi giá.
+ Sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi sự chiếm
đóng của Đức, lực lượng Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn
bị, chờ quân Đồng minh vào đánh Nhật, thì sẽ khôi phục lại
quyền thống trị của mình như trước tháng 9/1940.
+ Để trừ hậu hoạ bị đánh sau lưng và giữ Đông Dương
làm cầu nối đi từ Trung Quốc xuống các căn cứ phía Nam,
ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông
Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị
ở Đông Dương.
+ Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt
biện pháp nhằm củng cố quyền thống trị của chúng ở Đông
Dương.
+ Ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp ở Từ Sơn (Bắc Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ
trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính; thay khẩu
hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”; chủ trương “phát động một cao trào kháng

Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi
nghĩa”, đồng thời sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi
nghĩa khi có đủ điều kiện.
– Diễn biến
+ Ở vùng rừng núi và trung du Bắc Kì, chiến tranh du
kích phát triển mạnh. Tại Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp
với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã.
22


hàng loạt châu, huyện,
xã.
+ Đảng đề ra khẩu hiệu
“Phá kho thóc giải quyết
nạn đói”.
+Các thành phố: Hà Nội,
Huế, Sài Gòn, hoạt động
vũ trang truyên truyền,
diệt ác trừ gian được đẩy
mạnh.
+ Báo chí cách mạng đều
ra công khai và gây ảnh
hưởng chính trị vang dội.

* Ý nghĩa
– Cao trào kháng Nhật
cứu nước thể hiện tinh
thần nỗ lực đấu tranh
giành độc lập của nhân

dân Việt Nam; đồng thời
góp sức cùng Đồng minh
tiêu diệt chủ nghĩa phát
xít.
– Là một cuộc tập dượt
vĩ đại, làm cho toàn
đảng, toàn dân sẵn sàng,
chủ động tiến lên chớp
thời cơ tổng khởi nghĩa.

+ Ở Bắc Kì, Trung Kì, trước thực tế nạn đói diễn ra
trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng
đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Phong
trào thu hút hàng triệu người tham gia. Có nơi quần chúng
đã giành được chính quyền.
+ Làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên ở nhiều nơi.
Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc
Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên)…
+ Ở các thành phố, nhất là Hà Nội, Huế, Sài Gòn,
hoạt động vũ trang truyên truyền, diệt ác trừ gian được đẩy
mạnh, tạo điều kiện phát triển các đoàn thẻ cứu quốc và xây
dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
+ Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy,
lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa (3-1945), thành lập chính
quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ và xây dựng
căn cứ Ba Tơ.
+ Tù chính trị trong các nhà tù đế quốc đã đấu tranh
đòi tự do hoặc nổi dậy phá trại giam, vượt ngục ra ngoài
hoạt động.
+ Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh

nhất ở Mĩ Tho và Hậu Giang.
+ Báo chí cách mạng đều ra công khai và gây ảnh
hưởng chính trị vang dội.
* Ý nghĩa
– Cao trào kháng Nhật cứu nước thể hiện tinh thần nỗ
lực đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam; đồng
thời góp sức cùng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
– Làm cho kẻ thù ngày càng suy yếu, thúc đẩy thời cơ tổng
khởi nghĩa mau đến.
– Qua cao trào kháng Nhật, lực lượng cách mạng được
tăng cường, trận địa cách mạng được mở rộng, tạo ra đầy đủ
những điều kiện chủ quan cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
– Là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn đảng, toàn
dân sẵn sàng, chủ động tiến lên chớp thời cơ tổng khởi
nghĩa.

23


*/Tổng khởi nghĩa * Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
tháng Tám năm 1945
Điều kiện bùng nổ:
Một cuộc tổng khởi nghĩa chỉ có thể thắng lợi khi có đủ
những điều kiện chủ quan, khách quan và nổ ra đúng thời
cơ.
- Ngày 19/8/1945, hàng
– Về chủ quan:
vạn nhân dân đánh
+ Đảng đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối và
chiếm cơ quan đầu não phương pháp cách mạng, thể hiện tập trung ở Hội nghị lần

của địch như Phủ Khâm thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5 – 1941)…
sai, trại Bảo an binh, Tòa
+ Lực lượng cách mạng cũng được chuẩn bị chu đáo
Thị chính. Tối 19/8, cuộc trong 15 năm kể từ khi Đảng ra đời, được rèn luyện qua
khởi nghĩa giành chính nhiều phong trào cách mạng.
quyền ở Hà Nội thắng
Đến tháng 8/1945, toàn Đảng, toàn dân đã sẵn sàng,
lợi.
chủ động, kiên quyết hi sinh phấn đấu giành độc lập tự do.
+ Tầng lớp trung gian, khi Nhật đảo chính Pháp mới chỉ
hoang mang, dao động, nhưng đến lúc này đã thấy rõ bản
chất xâm lược của Nhật, chán ngán những chính sách của
Nhật, nên đã ngả hẳn về phía cách mạng.
– Về khách quan:
+ Sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô tuyên chiến
với Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống các
thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày
9/8/1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật họp bàn về
các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam. Ngày
14/8/1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản
thông qua quyết định đầu hàng. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng
tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở
Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang,
lo sợ đến cực điểm. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng
khởi nghĩa đã đến. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
+ Tuy nhiên, một nguy cơ mới đang dần đến. Quân đội
các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào
Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Những thế lực
phản động trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ.

Chính vì thế, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một
cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà nhân dân
Việt Nam không thể chậm trễ.
24


– Đảng kịp thời phát động khởi nghĩa:
+ Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt
Minh thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng
ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1,
chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc
của Đảng họp ở Tân Trào, thông qua kế hoạch lãnh đạo
toàn dân tổng khởi nghĩa.
+ Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội
quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa
của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ
ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ
tịch.
* Diễn biến
– Từ ngày 14/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng
khởi nghĩa, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa
phương và vận dụng chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”, một số cấp bộ Đảng và Việt Minh đã
phát động tổng khởi nghĩa và giành được thắng lợi.
– Chiều 16/8/1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa,
một đơn vị của Đội Việt Nam Giải phóng quân do Võ Nguyên
Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
– Ngày 18/8/1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương,
Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất

trong cả nước.
– Tại Hà Nội, ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân đánh
chiếm cơ quan đầu não của địch như Phủ Khâm sai, trại
Bảo an binh, Tòa Thị chính. Tối 19/8, cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
– Ngày 23/8, hàng vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy,
chiếm công sở. Chính quyền về tay nhân dân.
– Ngày 25/8, tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn.
– Khởi nghĩa thắng lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế,
Sài Gòn đã tác động đến các địa phương trong nước, quần
chúng các tỉnh còn lại nối tiếp nhau khởi nghĩa. Hà Tiên
và Đồng Nai Thượng là những nơi giành chính quyền muộn
nhất (28/8).
– Chiều 30/8 vua Bảo Đại thoái vị, triều đình phong
kiến nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ.
25


×