Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp - Lý thuyết và thực trạng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.82 KB, 39 trang )

ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN

ĐỀ ÁN QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG
NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO – LÝ THUYẾT VÀ
THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA
DOANH NGHIỆP............................................................................................ 5
1.1 Khái quát về đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp....................................5
1.1.1 Khái niệm đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.................................
5
1.1.2 Các loại hình đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp…........................ 5
1.1.3. Vai trò của đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của doanh nghiệp
và xã hội …................................................................................................
7
1.2 Năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp .........................................
8
1.2.1 Khái niệm năng lực đổi mới sáng tạo …...........................................
8
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo ............................ 9
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực đổi mới sáng tạo ....................
11
1.3 Kinh nghiệm nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp
của
Hàn
Quốc ................................................................................................... 14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................17
2.1 Thực trạng năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam......17
2.2 Hình thức đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam......................19


2.3 Đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam ........
20
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.............................................................
26


3.1. Phương hướng và mục tiêu nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của các
doanh nghiệp Việt Nam ..............................................................................
26
3.2 Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của các
doanh nghiệp Việt Nam...............................................................................
28
3.3. Thiết kế khung năng lực đổi mới sáng tạo cho doanh nghiệp VN....... 34
KẾT LUẬN...................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................37


3

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng của đề tài
Đổi mới sáng tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển bền vững và nhanh
chóng của nền kinh tế cũng như toàn xã hội. Nghiên cứu về sự phát triển mạnh mẽ của
các quốc gia mới nổi như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia... có một điểm
chung lớn đó là sự đầu tư lớn vào năng lực đổi mới sáng tạo. Nâng cao năng lực đổi
mới sáng tạo là một yêu cầu quan trọng cho các doanh nghiệp để nâng cao năng lực
cạnh tranh. Năng lực đổi mới sáng tạo là giá trị cốt lõi và là chìa khóa để doanh nghiệp
vươn đến thành công trong tương lai. Năng lực đổi mới sáng tạo thấp sẽ cản trở sự
phát triển của nền kinh tế, cũng như doanh nghiệp. Do vậy, nâng cao năng lực đổi mới

sáng tạo đã trở thành yếu tố ưu tiên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định việc nâng cao
năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, tạo nền tảng để
tăng cường lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nâng cao năng lực đổi
mới sáng tạo trong doanh nghiệp là một trong những nội dung được.
Chính phủ đã quan tâm, gắn đổi mới sáng tạo với tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này được thể hiện ở Nghị quyết 19/NQCP ngày 18/3/2014, Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015, Nghị quyết 19/NQ-CP
ngày 28/4/2016, Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016, Quyết định 844/QĐ-TTg về
phê duyệt đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025,
v.v. Những chính sách này đã, đang và sẽ tạo động lực cho đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, xã hội.
Năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao
năng suất và chất lượng (Nguyễn Hữu Xuyên, Trịnh Minh Tâm, 2017), điều này được
thể hiện ở các khía cạnh sau: Doanh nghiệp tạo ra sản phẩm/dịch vụ hoàn toàn mới
hoặc sản phẩm được cải tiến về mẫu mã, công dụng, chất lượng, kiểu dáng sản phẩm;
doanh nghiệp cải tiến được qui trình, phương pháp, công cụ/phương tiện sản xuất;
doanh nghiệp tìm kiếm và phát triển được thị trường/khách hàng mới, đáp ứng được
các nhu cầu của khách hàng, đổi mới chính sách phân phối, giá cả, xúc tiến bán hàng
và nhận diện thương hiệu; doanh nghiệp áp dụng mô hình tổ chức mới, đổi mới
phương thức, cách thức quản lý, áp dụng các hệ thống quản lý, đổi mới phong cách
điều hành, lãnh đạo nhằm tạo động lực và phát huy tính sáng tạo cho người lao động


4
trong tổ chức. Tuy nhiên, năng đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp còn nhiều mặt
hạn chế. Vì vậy, việc chọn đề tài nghiên cứu về thực trạng năng lực đổi mới sáng tạo
của các doanh nghiệp Việt Nam để từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phục dưới góc
độ của Chính phủ là thật sự cần thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1

Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp Việt
Nam trên cơ sở kinh nghiệm của 1 số quốc gia và cơ sở đánh giá thực trạng năng lực
đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp hiện nay.

2.2

Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, làm rõ cơ sở lý luận về năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp Việt
Nam dưới góc độ nhà nước.
Hai là, phân tích được thực trạng năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay.
Ba là, đưa ra phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo cho các
doanh nghiệp

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới sáng tạo, năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh
nghiệp Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn toàn quốc có hoạt động đổi mới
sáng tạo (đổi mới về sản phẩm, qui trình, tiếp thị và đổi mới về tổ chức), các số liệu
được thu thập, xử lý từ ...

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề án sử dụng số liệu thứ cấp. Đối với số liệu thứ
cấp, đề tài tiến hành tìm kiếm, đánh giá và sử dụng tài liệu đã công bố có liên quan tới
đổi mới sáng tạo, năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp và các chính sách

của nhà nước về thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Ngoài ra, đề án này sử dụng phương pháp thống kê, mô tả.

5. Cấu trúc bài viết


5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề án này được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Lý thuyết về năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt
Nam

6. Lời cảm ơn
Trong thời gian từ khi bắt đầu làm đề án đến nay, em đã nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo, giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Với tấm lòng biết ơn, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến cô Đỗ Thị Đông của khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Kinh tế
quốc dân đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo cho em. Nhờ đó, đề án này của em đã được
hoàn thành đúng tiến độ.
Xin gửi lời cảm ơn đến tác giả của những công trình nghiên cứu, bài báo đã cung cấp
những thông tin có giá trị cho việc phân tích của đề án. Mặc dù đã có nhiều cố gắng,
tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của cô và các bạn học cùng lớp để đề án này của em được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thị Thủy


6


CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA
DOANH NGHIỆP
I.1 Khái quát về đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
I.1.1 Khái niệm đổi mới sáng tạo
Đổi mới sáng tạo đã trở thành động lực chính của sự vững mạnh kinh tế và khả năng
cạnh tranh quốc gia. Hầu hết mọi người đều cho rằng đổi mới chỉ mang khía cạnh
công nghệ tạo ra các sản phẩm mới nổi bật. Một số khác cho rằng đổi mới chỉ gắn liền
với các hoạt động R&D được tiến hành tại các trường đại học, các phòng thí nghiệm
trọng điểm quốc gia hay các doanh nghiệp.
Quan niệm trên còn có những hạn chế bởi đổi mới sáng tạo bao hàm ý nghĩa rộng
hơn nhiều. Theo định nghĩa của OCED (2005), đổi mới sáng tạo là thực hiện một sản
phẩm mới hay một sự cải tiến đáng kể (đối với một loại hàng hóa hay dịch vụ cụ thể),
một quy trình, phương pháp marketing mới, hay một phương pháp tổ chức mới trong
thực tiễn kinh doanh, tổ chức nơi làm việc hay các mối quan hệ đối ngoại.

I.1.2 Các loại hình đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Đổi mới sáng tạo được tiến hành thông qua nhiều hình thức, đó là các sản phẩm, dịch
vụ, các quy trình sản xuất hay kinh doanh (đối với hàng hóa hay dịch vụ), các mô hình
tổ chức, mô hình kinh doanh và đổi mới xã hội (đổi mới được định hướng trực tiếp vào
những lợi ích xã hội cụ thể). Bên trong những khía cạnh này, đổi mới có thể xuất hiện
tại các điểm khác nhau trong quá trình, bao gồm các giai đoạn như khái niệm, nghiên
cứu và phát triển, chuyển giao (sự chuyển hướng của công nghệ đến tổ chức sản xuất),
sản xuất và triển khai, hay sử dụng thị trường.
Có bốn loại sáng kiến được phân biệt: đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới
tiếp thị và đổi mới tổ chức. Đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình liên quan chặt chẽ
đến khái niệm về đổi mới sản phẩm công nghệ và đổi mới quy trình công nghệ. Đổi


7
mới tiếp thị và đổi mới tổ chức mở rộng phạm vi của sự đổi mới so với những định

nghĩa trước của Oslo Manual.
Đổi mới sản phẩm
Đổi mới sản phẩm là việc giới thiệu một hàng hóa hoặc dịch vụ mới hay có sự cải
thiện đáng kể liên quan đến đặc điểm hoặc mục đích sử dụng của nó. Điều này bao
gồm những cải tiến đáng kể trong thông số kỹ thuật, thành phần và vật liệu, phần mềm
tích hợp, sự thân thiện với người dùng hoặc các đặc tính chức năng khác. Đổi mới sản
phẩm có thể sử dụng kiến thức, công nghệ mới, hoặc có thể được dựa trên việc sử
dụng mới hoặc kết hợp của kiến thức hoặc các công nghệ hiện có. Đổi mới sản phẩm
bao gồm cả việc giới thiệu hàng hóa và dịch vụ mới và cải tiến đáng kể trong các đặc
điểm chức năng hoặc mục đích sử dụng hiện có của hàng hóa và dịch vụ. Các sản
phẩm mới là hàng hoá và dịch vụ có sự khác biệt rõ rệt về đặc điểm hoặc mục đích sử
dụng so với các sản phẩm trước đây được sản xuất bởi cùng một hãng. Sự phát triển
của một công dụng mới của một sản phẩm chỉ với những thay đổi nhỏ trong yêu cầu
kỹ thuật của nó cũng là một sự đổi mới sản phẩm.
Đổi mới quy trình
Đổi mới quy trình là việc thực hiện mới hoặc cải thiện đáng kể hoạt động sản xuất,
phương thức giao hàng. Điều này bao gồm những thay đổi đáng kể về kỹ thuật, thiết
bị/hoặc phần mềm. Đổi mới quy trình có thể được dùng để làm giảm chi phí sản xuất,
phân phối, nâng cao chất lượng, hoặc để sản xuất hoặc cung cấp mới hoặc cải thiện
đáng kể các sản phẩm.
Đổi mới quy trình gồm các phương pháp mới hoặc cải tiến đáng kể cho việc hình
thành và cung cấp dịch vụ. Đó có thể là sự thay đổi đáng kể trong các thiết bị, phần
mềm, kỹ thuật được sử dụng hay thủ tục để cung cấp dịch vụ. Đổi mới quy trình còn
bao gồm cả những điểm mới hoặc được cải tiến đáng kể trong kỹ thuật, trang thiết bị
và phần mềm trong hoạt động hỗ trợ phụ trợ như mua bán, kế toán và bảo trì.
Đổi mới tiếp thị
Đổi mới tiếp thị là việc thực hiện một phương pháp tiếp thị mới như thay đổi đáng kể
trong thiết kế sản phẩm hoặc bao bì, quảng cáo sản phẩm, phát triển sản phẩm hay giá
thành. Đổi mới tiếp thị bao gồm thay đổi đáng kể trong thiết kế sản phẩm là một phần
của định hướng tiếp thị mới. Thay đổi thiết kế sản phẩm ở đây muốn nói đến là sự thay

đổi về kiểu dáng và hình thức sản phẩm mà không làm thay đổi sản chức năng hoặc
đặc điểm sử dụng. Mở rộng hơn, những đổi mới trong thiết kế sản phẩm có thể bao


8
gồm sự thay đổi trong hình thức hoặc hương vị của sản phẩm thực phẩm hoặc đồ
uống, như sự ra đời của các hương vị mới cho một sản phẩm thực phẩm để nhắm đến
phân khúc khách hàng mới. Một ví dụ về sự đổi mới tiếp thị trong bao bì là sử dụng
một thiết kế chai mới cho một loại kem dưỡng da để cung cấp cho sản phẩm một vẻ
ngoài khác biệt và hấp dẫn đối với một phân khúc thị trường mới.
Đổi mới tổ chức
Đổi mới về tổ chức là việc thực hiện của một phương pháp tổ chức mới trong hoạt
động kinh doanh, tổ chức nơi làm việc hoặc quan hệ đối ngoại của doanh nghiệp.
Điểm phân biệt của một sự đổi mới tổ chức với những thay đổi khác về mặt tổ chức là
việc thực hiện của phương pháp tổ chức mới (trong hoạt động kinh doanh, tổ chức nơi
làm việc hoặc quan hệ bên ngoài) chưa từng áp dụng trước đó trong công ty và là kết
quả của các quyết định chiến lược thực hiện bởi quản lý.
Đổi mới tổ chức trong hoạt động kinh doanh liên quan đến thực hiện các phương
pháp mới cho tổ chức hoạt động và quy trình thực hiện công việc. Những đổi mới
trong tổ chức nơi làm việc liên quan đến việc thực hiện phương pháp mới để phân bổ
trách nhiệm và ra quyết định giữa các bộ phận chuyên môn trong công ty (và đơn vị tổ
chức) cũng như các mô hình cơ cấu hoạt động mới. Tuy nhiên, đổi mới tổ chức cũng
có thể bao gồm cả việc tập trung hóa các hoạt động và tăng cường trách nhiệm cho
việc ra quyết định.
1.1.3. Vai trò của đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội
Thứ nhất, cải tiến sản phẩm, dịch vụ là để tránh đi vào lối mòn. Đổi mới sản phẩm có
thể giúp doanh nghiệp biến những gì sẵn có thành những sản phẩm tốt hơn, đáp ứng
cao hơn nhu cầu của khách hàng đồng nghĩa với nâng cao doanh số và doanh thu.
Doanh nghiệp cũng có thể là người mở hướng đi tiên phong và dẫn đầu thị trường đối
với dòng sản phẩm mới. Trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt và vòng đời sản phẩm

ngày càng có xu hường ngắn lại thì đổi mới sản phẩm là vô cùng cần thiết và tất yếu.
Thứ hai, khi đổi mới sản phẩm, ngoài viêc nâng cao doanh số, doanh thu, doanh
nghiệp còn có thể tìm ra những nhóm khách hàng mới hay có tiềm năng mà chưa được
khai thác trên thị trường. Nhu cầu của con người là vô hạn và ngày càng cao, do đó bất
cứ thị trường nào cũng có thể tìm ra nhiều thị phần đang bị lãng quên.
Thứ ba, về đổi mới quy trình, nó được dùng để làm giảm chi phí sản xuất, phân phối,
nâng cao chất lượng, hoặc để sản xuất hoặc cung cấp mới hoặc cải thiện đáng kể các
sản phẩm. Trong đổi mới quy trình, dễ thấy nhất chính là việc đổi mới công nghệ. Tiến


9
bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm
tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao
động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu. Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh,
mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Trong hướng đổi mới này, dịch vụ chăm sóc khách hàng cũng đóng vai trò rất
quan trọng vì chính nó tạo ra sự khác biệt cho doanh nghiệp.
Thứ tư, đổi mới sáng tạo về tiếp thị. Mục đích của đổi mới tiếp thị là đáp ứng tốt hơn
nhu cầu khách hàng, mở ra những thị trường mới, hoặc định vị lại sản phẩm của công
ty trên thị trường,với mục tiêu tăng doanh số bán hàng của công ty. Đây là một hướng
quan trọng để cải tiến vì giỏi sản xuất nhưng lại yếu kém trong khâu phân phối tiếp thị
thì cũng khó mà phát triển.
Tóm lại, đổi mới sáng tạo sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất
lượng sản phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu
mã sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao
mức độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc
biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được
nâng lên rõ rệt.

I.2 Năng lực đổi mới sáng tạo

1.2.1 Khái niệm năng lực đổi mới sáng tạo
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu ở nước ngoài về năng lực đổi
mới sáng của doanh nghiệp. Các nghiên cứu đã khái quát được các quan điểm và cách
tiếp cận khác nhau năng lực đổi mới sáng tạo, cụ thể là:
Theo Romijn và Albaladejo (2002), năng lực đổi mới sáng tạo là những kiến thức cần
thiết để tiếp thu, làm chủ và cải tiến các công nghệ hiện có và tạo ra các công nghệ
mới, các công nghệ mới được tạo góp phần nâng cao năng suất và chất lượng của sản
phẩm. Còn theo cách tiếp cận công nghệ của Sharif (1986), năng lực đổi mới sáng tạo
gồm năng lực thích nghi, đồng hóa, làm chủ, cải tiến, sao chép và khả năng ra sản
phẩm mới, quy trình mới. Theo cách tiếp cận từ doanh nghiệp, năng lực đổi mới sáng
tạo là năng lực bắt nguồn từ quy trình, hệ thống và các nguồn lực có thể huy động
được vào các hoạt động đổi mới quy trình hay đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp,
qua đó góp phần nâng cao năng suất và chất lượng (Chen, 2009). Lawson và Samson
(2001) đã định nghĩa năng lực đổi mới sáng tạo là sự áp dụng các nguồn lực để liên tục
chuyển đổi kiến thức và ý tưởng thành những sản phẩm mới, quy trình và hệ thống có


10
lợi cho doanh nghiệp và các bên liên quan. Assink (2006) đã định nghĩa năng lực đổi
mới sáng tạo là sự áp dụng năng lượng bên trong để khám phá và tạo ra những ý tưởng
và khái niệm mới, để thử nghiệm các giải pháp phát hiện các cơ hội tiềm năng trên thị
trường và để chúng trở thành sự đổi mới hiệu quả.
Trên thực tế, năng lực đổi mới sáng tạo của một doanh nghiệp bắt nguồn từ những kỹ
xảo và khả năng sử dụng các nguồn lực và phản ảnh “khả năng liên tục chuyển đổi
kiến thức và ý tưởng thành các sản phẩm, quy trình, hệ thống mới mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp và các chủ thể liên quan. Theo cách tiếp cận công nghệ, năng lực đổi
mới sáng tạo được coi như một làn sóng mới trong quá trình nhận thức về con đường
phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển. Trước đó các công trình nghiên cứu
tập trung chủ yếu vào lựa chọn kỹ thuật và nhập thiết bị kỹ thuật sau đó lựa chọn và
nhập công nghệ. Hậu quả tiêu cực của nhận thức đó là sự trả giá quá đắt cho công

nghệ mua do khả năng nhận biết, nắm vững và triển khai sử dụng còn quá yếu, công
nghệ được sử dụng không thích ứng với nguồn lực, điều kiện, nơi áp dụng và dẫn đến
hiệu quả quá thấp.
Như vậy, năng lực đổi mới sáng tạo đề cập đến các yếu tố về khả năng nguồn lực
hoặc các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả đổi mới sáng tạo. Theo đó, năng lực đổi mới
sáng tạo là những kiến thức và kỹ năng cần thiết để tiếp thu, tinh thông và cải tiến các
công nghệ hiện có và tạo ra các công nghệ mới. Năng lực đổi mới sáng tạo là năng lực
của doanh nghiệp bắt nguồn từ các quy trình, hệ thống, cơ cấu tổ chức, mà có thể được
huy động vào các hoạt động đổi mới sản phẩm, quy trình, marketing và tổ chức.

1.2.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Năng lực đổi mới sáng tạo được thể hiện thông qua các hoạt động đổi mới sản phẩm,
đổi mới quy trình, đổi mới marketing và đổi mới tổ chức.

a. Về đổi mới sản phẩm
Theo OECD (2005), đổi mới sản phẩm được đánh giá theo các tiêu chí sau (Bảng
1.1): Mức độ thường xuyên cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, công cụ sản phẩm; Mức độ
thường xuyên giới thiệu sản phẩm hoàn toàn mới ra thị trường; Mức độ thường xuyên
cải tiến chất lượng sản phẩm; Mức độ thường xuyên sử dụng các nguyên vật liệu mới
trong thiết kế sản phẩm; Mức độ thường xuyên ứng dụng công nghệ mới trong thiết
kế sản phẩm.
Bảng 1.1 Đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp


11
STT

Tiêu chí phản ánh đổi mới sáng tạo về sản phẩm

1


Mức độ thường xuyên cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, công cụ sản phẩm

2

Mức độ thường xuyên giới thiệu sản phẩm hoàn toàn mới ra thị trường

3

Mức độ thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm

4

Mức độ thường xuyên sử dụng các nguyên vật liệu mới trong thiết kế sản phẩm

5

Mức độ thường xuyên ứng dụng công nghệ mới trong thiết kế sản phẩm
Nguồn: OECD (2005)

b. Về đổi mới quy trình
Theo (OECD 2005), đổi mới quy trình được đánh giá theo các mức tiêu chí sau
(Bảng 1.2): Mức độ thường xuyên cải tiến phương pháp sản xuất; Mức độ thường
xuyên cải tiến công cụ và thiết bị sản xuất; Mức độ thường xuyên cải tiến quy trình
sản xuất; Mức độ thường xuyên cải tiến công nghệ sản xuất; Mức độ thường xuyên
cải tiến hoạt động kiểm soát chất lượng.
Bảng 1.2 Đổi mới sáng tạo quy trình của doanh nghiệp
STT
1
2

3
4
5

Tiêu chí phán ánh đổi mới sáng tạo quy trình
Mức độ thường xuyên cải tiến phương pháp sản xuất
Mức độ thường xuyên cải tiến công cụ và thiết bị sản xuất
Mức độ thường xuyên cải tiến quy trình sản xuất
Mức độ thường xuyên cải tiến công nghệ sản xuất
Mức độ thường xuyên cải tiến hoạt động kiểm soát chất lượng
Nguồn: OECD (2005)

c. Về đổi mới marketing
Theo OECD (2005), đổi mới maketing được đánh giá theo các tiêu chí sau (Bảng
1.3): Mức độ tích cực tìm kiếm và phát triển thị trường và khách hàng mới; Mức độ
thường xuyên cập nhật và nắm bắt yêu cầu của khách hàng; Mức độ thường xuyên cập
nhật và điều chỉnh chính sách giá; Mức độ thường xuyên đổi mới các hoạt động quảng
cáo khoa trương, khuyến mại quan hệ công chúng; Mức độ thường xuyên cải tiến các
hoạt động nhận diện, phát triển thương hiệu; Mức độ thường xuyên phát triển các kênh
bán hàng truyền thống và trực tuyến.
Bảng 1.3 Đổi mới sáng tạo về marketing của doanh nghiệp
STT

Tiêu chí phán ánh đổi mới sáng tạo về marketing


12
1
2
3

4

Mức độ tích cực tìm kiếm và phát triển thị trường và khách hàng mới
Mức độ thường xuyên cập nhật và nắm bắt yêu cầu của khách hàng
Mức độ thường xuyên cập nhật và điều chỉnh chính sách giá
Mức độ thường xuyên đổi mới các hoạt động quảng cáo, khuyến mại quan hệ công
chúng
Mức độ thường xuyên cải tiến các hoạt động nhận diện, phát triển thương hiệu
Mức độ thường xuyên phát triển các kênh bán hàng truyền thống và trực tuyến
Nguồn: OECD (2005)

5
6

d. Về đổi mới tổ chức
Theo OECD (2005), đổi mới tổ chức trong doanh nghiệp được thể hiện (Bảng 1.4):
Mức độ khuyến khích phát huy sáng tạo được tạo ra từ mô hình tổ chức; Mức độ
khuyến khích phát huy sáng tạo được sinh ra từ phong các lãnh đạo; Mức độ đổi mới
phương pháp quản lý, áp dựng phương pháp quản lý theo mục tiêu; Yêu cầu đổi mới
sáng tạo được thể hiện trong sứ mệnh, mục tiêu, kế hoạch, chiến lược và chính sách;
Mức độ khuyến khích tạo động lực cho người lao động phát huy đổi mới sáng tạo;
Mức độ đổi mới và áp dụng các hệ thống quản lý (hệ thống thông tin quản lý, hệ thống
quản lý chất lượng, quản lý các mối quan hệ với khách hàng…)
Bảng 1.4 Đổi mới sáng tạo tổ chức trong doanh nghiệp
STT
1
2
3
4
5

6

Tiêu chí phán ánh đổi mới sáng tạo tổ chức trong doanh nghiệp
Mức độ khuyến khích phát huy sáng tạo được tạo ra từ mô hình tổ chức
Mức độ khuyến khích phát huy sáng tạo được sinh ra từ phong cách lãnh đạo
Mức độ đổi mới phương pháp quản lý, áp dựng phương pháp quản lý theo mục tiêu
Yêu cầu đổi mới sáng tạo được thể hiện trong sứ mệnh, mục tiêu, kế hoạch, chiến lược,
chính sách
Mức độ khuyến khích tạo động lực cho người lao động phát huy đổi mới sáng tạo
Mức độ đổi mới và áp dụng các hệ thống quản lý (hệ thống thông tin quản lý, hệ thống
quản lý chất lượng, quản lý các mối quan hệ với khách hàng…)
Nguồn: OECD, 2005

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực đổi mới sáng tạo của DN
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đổi mới sáng tạo gồm các nhóm nhân tố như
đặc điểm nguồn lực, chiến lược kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, phong cách lãnh
đạo, mức độ sẵn có của nguồn nhân lực, các mối liên kết trong chuỗi giá trị, mô hình
kinh doanh, cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin, đặc điểm cạnh tranh ngành. Như
vậy, có thể chia các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực đổi mới sáng tạo gồm các yếu tố
bên trong và các yếu tố bên ngoài.

a. Các yếu tố bên trong


13
Nhân lực, đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công của mọi hoạt động. Đối với
hoạt động đổi mới sáng tạo thì nhân lực là yếu tố quyết định quan trọng cao nhất vì
mọi sự cải tiến về sản phẩm, quy trình, công nghệ hay quản lý đều phải bắt nguồn từ
những ý tưởng mới của con người. Nhóm nhân tố nhân lực tác động đến năng lực đổi
mới sáng tạo của doanh nghiệp bao gồm: tố chất sáng tạo và linh hoạt của nhà quản lý,

sẵn sàng chấp nhận rủi ro không không nản lòng trước thất bại và sẵn sàng thử nghiệm
ý tưởng mới của người nhân lực sáng tạo, đội ngũ nhân lực năng động, có đủ năng lực
và sáng tạo, Quan điểm khuyến khích đổi mới sáng tạo và sự cam kết ủng hộ của
người lãnh đạo.
Văn hóa doanh nghiệp, đây là hệ thống những giá trị, niềm tin và quy phạm được
chia sẻ bởi các thành viên trong doanh nghiệp và hướng dẫn hành vi của người lao
động trong doanh nghiệp. Khái niệm văn hóa trong doanh nghiệp cho thấy tầm quan
trọng của sự “chia sẻ” về sự thống nhất giữa các thành viên từ lãnh đạo cho đến người
lao động trong tổ chức về những giá trị, quy phạm, phương châm, luật lệ và kiến thức
chung để hướng mọi thành viên ứng xử theo một cách thức thống nhất nhằm đạt được
mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, văn hóa doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt cho tổ chức và là
một chất keo kết dính các thành viên để nâng cao tính cam kết vì lợi ích chung của
doanh nghiệp.
Quản lý và quản trị tri thức, quản trị tri thức trong doanh nghiệp là thực hiện sự thu
nhận, tổ chức, phân tích, chia sẻ và khai thác áp dụng có hiệu quả các kiến thức của tổ
chức nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Nó đề cập đến
sự tiếp cận nhiều lĩnh vực để đạt được mục tiêu của tổ chức trên cơ sở khai thác có
hiệu quả nhất các tri thức mà tổ chức đã có được. Quản trị tri thức gồm ba yếu tố cơ
bản có tác động đến đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp là: thu nhận tri thức, phổ
biến tri thức, khai thác và sử dụng tri thức.
Tài chính và quy trình triển khai. Hỗ trợ tài chính bao gồm việc chi tiêu tài chính cho
tất cả các hoạt động liên quan đến đổi mới sáng tạo như mua quy trình công nghệ mới,
bản quyền phát minh sáng chế, thiết kế các sản phẩm, hoặc quy trình, giải pháp mới.
Quy trình triển khai, Hỗ trợ quy trình triển khai công ty soạn thảo và ban hành được
các tài liệu, văn bản chi tiết và cụ thể hướng dẫn cách thức triển khai các ý tưởng/dự
án đổi mới sáng tạo sẽ tác động tích cực đến khả năng đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp.
Ngoài ra, hỗ trợ về công nghệ sáng tạo cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng
lực đổi mới sáng tạo của ngưởi lao động vì nó là phương pháp, công cụ để người lao
động nảy sinh các ý tưởng sáng tạo trong quá trình làm việc hoặc giải quyết các vấn đề



14
ở doanh nghiệp. Hỗ trợ về trang thiết bị vật chất như máy móc, trang thiết bị phòng thí
nghiệm để thực hiện nghiên cứu, thiết kế, thực nghiệm, hệ thống máy tính, công nghệ
thông tin để đảm bảo thông tin kinh doanh được cập nhật thường xuyên giúp nâng cao
sự nhạy bén của công ty với những thay đổi của môi trường.
b. Các yếu tố bên ngoài
Chính sách pháp luật của nhà nước: có tác động rất lớn đến tình hình đổi mới sáng
tạo của doanh nghiệp. Chính sách thể hiện bởi hệ thống văn bản pháp luật, đạo luật
chủ trương, chính sách, chương trình, đề án,… hướng vào phát triển năng lực đổi mới
sáng tạo cho doanh nghiệp và các yếu tố cải cách cơ cấu kinh tế, thủ tục hành chính, sự
chuẩn mực và minh bạch của hệ thống thông tin, báo cáo, đánh giá. Hệ thống văn bản
pháp luật khuyến khích đổi mới sáng tạo, mức độ cải cách thủ tục hành chính, tính
minh bạch và chuẩn mực của báo cáo, kiểm toán, hoạt động tái cấu trúc trong nền kinh
tế.
Yếu tố kinh tế, yếu tố này thường gắn với bối cảnh kinh tế nhất định của quốc gia như
tốc độ tăng trưởng, tỷ số giá cả, tỷ giá hối đoái… Khi kinh tế tăng cao, ổn định thì nhà
nước sẽ ít gặp khó khăn hơn trong việc hoạch định, thực thi chính sách nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp đổi mới sáng tạo do giải pháp được tài trợ bằng nguồn vốn ngân sách dồi
dào.
Yếu tố khoa học và công nghệ, yếu tố này phản ánh trình độ phát triển khoa học và
công nghệ, qua đó tác động đến phương thức hoạch định, tổ chức thực thi, cũng như
giám sát, đánh giá chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Yếu tố văn hóa xã hội, yếu tố này thể hiện ở quan niệm, tư tưởng, đạo đức, trình độ
dân trí và văn hóa công nghệ quốc gia. Trong xã hội có nền văn hóa công nghệ cao,
người dân được tiếp xúc với thành tựu khoa học và công nghệ, nhờ đó họ dễ dàng hiểu
rõ chính sách nhà nước về phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và ủng hộ sự đổi mới
sáng tạo nội sinh, hơn nữa khi trình độ dân trí càng cao thì càng thuận lợi cho việc
hoạch định, tổ chức thực thi chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới

sáng tạo.
Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hóa cũng có ảnh hưởng nhất định tới nhận thức, quan
điểm của chủ thể chính sách trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

I.3 Kinh nghiệm nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh
nghiệp ở Hàn Quốc


15
Để nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra nhiều chính
sách ưu đãi cho hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo. Chính phủ đã thay đổi môi
trường công nghệ bằng cách thiết lập chương trình R&D quốc gia vào năm 1982 và
thực hiện nhiều chính sách để thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt động R&D, bao
gồm ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính,mua sắm và các hoạt động quảng cáo khác.
Thứ nhất, chính phủ đưa ra các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân như
miễn thuế hoặc giảm thuế vào các khoản đầu tư cho R&D và phát triển nguồn nhân
lực. Năm 1981, chính phủ sửa đổi Luật thuế địa phương và Luật giảm thuế quốc gia để
miễn bất động sản phục vụ cho mục đích R&D từ thuế địa phương và giảm thuế doanh
nghiệp cho chi phí R&D, phát triển nguồn nhân lực và các cơ sở liên quan. Một năm
sau đó, Luật thuế quan được thay đổi để giảm thuế cho nguyên vật liệu và công cụ
nhập khẩu phục vụ cho R&D.
Thứ hai, vào năm 1981, chính phủ đã thành lập Tập đoàn Phát triển Công nghệ Hàn
Quốc, một ngân hàng chuyên về tài chính công nghệ, để tạo điều kiện cho sự phát triển
và thương mại hóa công nghệ. Chính phủ củng cố hỗ trợ tài chính cho phát triển công
nghệ bằng cách thành lập một tổ chức bảo lãnh phi lợi nhuận được gọi là Tập đoàn Tài
chính Công nghệ Hàn Quốc năm 1989, có chức năng chính là giúp các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vay vốn để phát triển hoặc thương mại hóa công nghệ. Chính phủ đã bổ
sung cho các biện pháp này bằng cách thành lập Quỹ phát triển công nghiệp (1986),
Quỹ xúc tiến khoa học và công nghệ (1991), Quỹ công nghệ thông tin và viễn thông

(1993) và các chương trình khác để tạo điều kiện thương mại hóa các công nghệ mới.
Hệ thống tài chính cho phát triển công nghệ tại Hàn Quốc đã được hoàn thành với việc
khai trương KOSDAQ, một thị trường chứng khoán công nghệ.
Thứ ba, một chương trình mua sắm đã được giới thiệu vào năm 1981 để thúc đẩy nhu
cầu về sản phẩm công nghệ mới được phát triển bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
nhiều chương trình hỗ trợ khác như dịch vụ tư vấn kỹ thuật và pháp lý, dịch vụ công
nghệ thông tin, công nghệ thương mại và chuyển giao.
Thứ tư, đầu tư R&D của chính phủ đã tăng đáng kể từ đầu những năm 1980, khi chính
sách KH&CN của Hàn Quốc trải qua một sự thay đổi cơ bản từ công nghệ học đến
phát triển công nghệ. Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập Chương trình R&D quốc
gia năm 1982, sau đó là Chương trình phát triển công nghiệp dựa vào công nghệ của
Bộ thương mại, công nghiệp, và năng lượng, Chương trình phát triển công nghệ thông
tin và truyền thông của Bộ thông tin và truyền thông, và những bộ khác. Những sáng
kiến này đã thúc đẩy R&D bằng cách cung cấp cho các doanh nghiệp tư nhân cơ hội


16
hợp tác với khu vực công và bằng cách thúc đẩy đầu tư R&D tư nhân vì mục đích
thương mại.
Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Chính sách Khoa học và Công nghệ
(STEPI 2005), chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện 259 chương trình hỗ trợ R&D và đổi
mới sáng tạo. Trợ cấp R&D chiếm 30% của tất cả các chương trình hỗ trợ, chuyển
giao công nghệ chiếm 13% và hỗ trợ cho phát triển nguồn nhân lực chiếm 11%. Chính
phủ mở rộng 3,4 tỷ đô la cho các chương trình cho vay và 3,3 tỷ đô la cho các chương
trình trợ cấp R&D. Thuế được miễn vì các chương trình ưu đãi thuế lên tới 1,5 tỷ USD
vào năm 2005. Ngược lại, các chương trình hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chỉ chiếm
1% của tổng ngân sách chi trong năm đó.
Những chương trình này đã mang lại hiệu quả như thế nào cho sự thúc đẩy R&D và
đổi mới sáng tạo? Vào năm 2006 STEPI (Viện nghiên cứu khoa học và công nghệ Hàn
Quốc) đã thực hiện 1 cuộc khảo sát với các doanh nghiệp tư nhân để đánh giá hiệu quả

của các chính sách ưu đãi của chính phủ. Kết quả khảo sát và dữ liệu năm 2005 đều
cho thấy rằng tất cả các chương trình hỗ trợ đã có hiệu quả trong việc thúc đẩy R&D
tư nhân và đổi mới sáng tạo, ngoại trừ chương trình mua sắm.Ưu đãi thuế có hiệu quả
nhất, tiếp theo là chương trình cho vay, chương trình nguồn nhân lực và tư vấn kỹ
thuật. Điều này phù hợp với đánh giá của OECD: “Ưu đãi thuế cho R&D tại Hàn Quốc
rất lớn và bao gồm mọi giai đoạn: đầu tư cơ sở, chi trả R&D, chuyển giao công nghệ”
(Baek và Jones 2005).
Khảo sát của STEPI cũng xác định khoảng cách giữa những gì các ngành công nghiệp
tư nhân muốn và những gì các chương trình hỗ trợ cung cấp. Theo khảo sát, các ngành
công nghiệp yêu cầu nhiều hơn sự hỗ trợ của chính phủ ở giai đoạn đổi mới trước đó.
Cụ thể, các ngành cần nhiều hơn sự hỗ trợ của chính phủ ở giai đoạn thu thập và lập kế
hoạch thông tin (24%) và R&D (41%), trong khi các chương trình hiện tại tập trung
vào R&D (58%), thương mại hóa (13%) và tiếp thị (21%). Tóm lại, các chương trình
hiện tại, tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn đổi mới sau này (thương mại hóa và
tiếp thị), không phản ánh thực tế rằng các ngành công nghiệp cần hỗ trợ nhiều hơn ở
giai đoạn trước (thu thập thông tin và lập kế hoạch).
Kể từ đầu những năm 1960, chính phủ đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của Hàn Quốc. Chính phủ lần đầu tiên khởi xướng phát triển KH&CN như là một
phần của kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia và sau đó dẫn đầu sự phát triển của nó,
không chỉ thiết lập quy tắc mà còn là người đặt mục tiêu và tài chính. Nhưng khi công
nghiệp phát triển, chính phủ ngày càng khó can thiệp vào các hoạt động kinh tế cũng


17
như R&D vì quy mô và sự phức tạp của các hoạt động công nghiệp ngày càng tăng.
Do đó, mô hình can thiệp của chính phủ vào khoa học và công nghệ đã phải thay đổi
từ sự tham gia trực tiếp sang sự tham gia gián tiếp với tư cách là người hỗ trợ và quảng
bá. Các hỗ trợ chính sách của chính phủ Hàn Quốc đã rất hiệu quả trong thúc đẩy
R&D và đổi mới trong khu vực tư nhân, nhưng họ cũng đã tạo ra một xu hướng làm
cho các doanh nghiệp tư nhân phụ thuộc quá nhiều vào chính sách của chính phủ trong

việc đưa ra quyết định kinh doanh.


18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Thực trạng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong cả nước được thể hiện thông qua
các hoạt động đổi mới sáng tạo. Do đó, để nâng cao lợi thế cạnh tranh thông qua hoạt
động đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp cần từng bước nâng cao năng lực đổi mới
sáng tạo về sản phẩm, về quy trình, về marketing (tiếp thị) và tổ chức cụ thể như sau:

2.1.1 Đổi mới sáng tạo sản phẩm
Đổi mới sáng tạo về sản phẩm được thể hiện ở mức độ thường xuyên cải tiến mẫu mã,
kiểu dáng, công cụ sản phẩm; mức độ thường xuyên giới thiệu sản phẩm hoàn toàn
mới ra thị trường; mức độ thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm; Mức độ thường
xuyên sử dụng các nguyên vật liệu mới trong thiết kế sản phẩm; mức độ thường xuyên
ứng dụng công nghệ mới trong thiết kế sản phẩm. Trong thực tế, đổi mới sáng tạo về
sản phẩm thường gắn liền với đổi mới chiến lược đổi mới của doanh nghiệp. Kết quả
đổi mới sáng tạo về quy trình của doanh nghiệp trong thời gian qua trong cả nước cho
thấy:
Về cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, công cụ sản phẩm: Đây cũng là thách thức không nhỏ
đối với doanh nghiệp, sự thay đổi rất hiệu quả có khi đến từ chi tiết rất nhỏ, thông
thường các doanh nghiệp chọn cách nâng cấp sản phẩm cũ chứ không dám phiêu lưu
với sản phẩm mới.
- Về giới thiệu sản phẩm hoàn toàn mới ra thị trường: để làm được điều này bộ phận
doanh nghiệp làm công tác nghiên cứu phải tiếp cận thị trường khách hàng, thường
xuyên tìm hiểu thông tin về nhu cầu sản phẩm lắng nghe ý kiến khách hàng cả về
nhược điểm của sản phẩm. Hiện tại các doanh nghiệp đang còn gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường.

- Về việc cải tiến chất lượng sản phẩm: việc dám phiêu lưu với sản phẩm mới hoặc
thay đổi nhận diện thương hiệu là rất thấp do chi phí để đầu tư không hề ít. Tuy nhiên,
những năm gần đây, cùng với cuộc vận động của thị trường, doanh nghiệp đã có
những bước đi tích cực hơn, trong cuộc cạnh tranh khó khăn, doanh nghiệp phải tự
bươn chải để cải thiện hình ảnh của mình trong mắt người tiêu dùng. Các công ty đã
cải thiện sản phẩm của họ nhiều so với trước đây, nhưng nếu so với sản phẩm các nước
trong khu vực và những nước phát triển thì doanh nghiệp Việt Nam còn phải học hỏi
nhiều.


19
- Về việc sử dụng các nguyên vật liệu mới trong thiết kế sản phẩm: Việc sử dụng các
nguyên vật liệu mới được doanh nghiệp sử dụng rất nhiều đặc biệt là trong lĩnh vực
xây dựng, ví dụ như thay thế gạch đât nung bằng bê tông nhẹ trong xây dựng, thay thế
cửa gỗ truyền thống bằng cửa nhựa lõi thép hoặc cửa kính cường lực.
- Về việc ứng dụng công nghệ mới trong thiết kế sản phẩm: Càng ngày các doanh
nghiệp càng ý thức rõ công nghệ lõi, sản phẩm có giá trị cộng thêm cao đòi hỏi tính
sáng tạo trong các khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm và là những điều kiện tiên
quyết để sản phẩm công nghệ từng bước thuyết phục người dùng nhưng một thực tế
hiện là sự mạnh dạn với ứng dụng mới, sản phẩm mới đâu đó còn chưa có nhiều doanh
nghiệp ứng dụng.

2.1.2 Đổi mới sáng tạo về marketing (tiếp thị)
Đổi mới sáng tạo về marketing (tiếp thị) được thể hiện ở mức độ tích cực tìm kiếm và
phát triển thị trường và khách hàng mới; mức độ thường xuyên cập nhật và nắm bắt
yêu cầu của khách hàng; mức độ thường xuyên cập nhật và điều chỉnh chính sách giá;
mức độ thường xuyên đổi mới các hoạt động quảng cáo khoa trương, khuyến mại quan
hệ công chúng; mức độ thường xuyên cải tiến các hoạt động nhận diện, phát triển
thương hiệu; mức độ thường xuyên phát triển các kênh bán hàng truyền thống và trực
tuyến.

- Về việc tìm kiếm và phát triển thị trường và khách hàng mới: Đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa thì nhanh chóng thích ứng với những thay đổi của thị trường, Có nhiều cơ
hội khai thác thị trường ngách (market niches). Việc cập nhật, nắm bắt yêu cầu của
khách hàng và điều chỉnh chính sách giá; doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu thông tin,
thiếu thời gian và nguồn lực để thâm nhập thị trường;
- Về đổi mới các hoạt động quảng cáo, khuyến mại quan hệ công chúng, nhận diện
thương hiệu và phát triển các kênh bán hàng truyền thống và trực tuyến. Doanh nghiệp
chủ yếu sử dụng trang thương mại điện tử miễn phí trên internet, một số hình thức thủ
công như tờ rơi, pano giới thiệu hình ảnh tại doanh nghiệp.

2.1.3 Đổi mới sáng tạo về tổ chức
Đổi mới sáng tạo về tổ chức trong doanh nghiệp được thể hiện ở mức độ khuyến khích
phát huy sáng tạo được tạo ra từ mô hình tổ chức; mức độ khuyến khích phát huy sáng
tạo được sinh ra từ phong các lãnh đạo; mức độ đổi mới phương pháp quản lý, áp dựng
phương pháp quản lý theo mục tiêu; Yêu cầu đổi mới sáng tạo được thể hiện trong sứ
mệnh, mục tiêu, kế hoạch, chiến lược và chính sách; mức độ khuyến khích tạo động
lực cho người lao động phát huy đổi mới sáng tạo; mức độ đổi mới và áp dụng các hệ


20
thống quản lý (hệ thống thông tin quản lý, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý các
mối quan hệ với khách hàng).
- Về việc khuyến khích phát huy sáng tạo được tạo ra từ mô hình tổ chức, phát huy
sáng tạo của các lãnh đạo. Cơ cấu quản lý gọn nhẹ, quá trình ra quyết định nhanh
chóng.
- Về quá trình đổi mới phương pháp quản lý, áp dựng phương pháp quản lý theo mục
tiêu để hiện thực hóa sứ mệnh, mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp: Thiếu kỹ năng,
kinh nghiệm quản lý
- Về việc tạo động lực cho người lao động và áp dụng các hệ thống quản lý. Quá trình
học hỏi nhanh chóng, thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường và công nghệ


2.2 Hình thức đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
- Doanh nghiệp Việt Nam chú trọng sử dụng hình thức dự án để quản trị đổi mới sáng
tạo. Hầu hết các doanh nghiệp đều có trên 5 dự án đổi mới sáng tạo trong 3 năm gần
đây với quy mô nhỏ. Tuy nhiên, doanh thu từ đổi mới sáng tạo theo dự án thấp. Chỉ 5
% dự án có doanh thu trên 3 tỷ đồng.
- Doanh nghiệp Việt Nam thường phát triển ý tưởng đổi mới sáng tạo cùng với các nhà
cung cấp. Chỉ có 32 % doanh nghiệp tự thực hiện quá trình đổi mới sáng tạo, 45 %
doanh nghiệp thường xuyên làm việc với đối tác bên ngoài để phát triển sản phẩm.
Các doanh nghiệp này tập trung vào bán hàng và marketing hơn là nghiên cứu và phát
triển. Trong số 230 doanh nghiệp thường xuyên thực hiện quá trình đổi mới sáng tạo
có cộng tác với các đối tác bên ngoài, có tới 61 % thường xuyên làm việc với các nhà
cung cấp. 26% thường xuyên làm việc với khách hàng và 16 % thường cộng tác với
các trung tâm nghiên cứu và trường đại học. Nguồn ý tưởng đổi mới sáng tạo lớn nhất
là từ các nhà cung cấp (70%) và khách hàng (87 %). Các ý tưởng tư vấn, bao gồm ý
tưởng từ doanh nghiệp nghiên cứu thị trường không được coi là một nguồn quan
trọng.
- Sự phối hợp giữa doanh nghiệp Việt Nam và các cơ quan nhà nước, trung tâm nghiên
cứu và trường đại học trong nước rất yêu. Chỉ có 16 % doanh nghiệp từng làm việc với
một đơn vị nghiên cứu và 17 % doanh nghiệp từng làm việc với trường đại học. Các
doanh nghiệp được khao sát hài lòng với việc cộng tác cùng khách hàng và doanh
nghiệp tư vấn, nhưng thất vọng với các trường đại học.
Chỉ có 27 doanh nghiệp cho biết họ hài lòng về sự hợp tác đổi mới sáng tạo với trường
đại học và cơ sở nghiên cứu.
- Các trở ngại chính mà nhiều doanh nghiệp thường xuyên gặp phải khi tiến hành đổi
mới sáng tạo là: chính sách của Nhà nước thiếu ổn định (80 %), thiếu các mối liên kết


21
với các đối tác (78 %), không sẵn sàng về nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo (77

%), trong đó đáng chủ ý là rào cản do kinh nghiệm quản lý chưa nhiều và năng lực của
lãnh đạo về đổi mới sáng tạo chưa cao (60 %). Rủi ro trong đổi mới sáng tạo cao và
thiếu bảo hộ của pháp luật cũng là rào cản lớn (70 %). Nhu cầu thị trường thay đổi
nhanh và khả năng tài chính là rào cản ở mức trung bình.
- Hầu hết các doanh nghiệp đều gặp khó khăn khi giải thích về tổng chi phí đổi mới
sáng tạo. Doanh nghiệp chưa đo lường và phân định được ràng các chi phí. Doanh
nghiệp thường bóc chi phí cho hoạt động R & D Trong giai đoạn 2010 - 201 , chỉ có 4
% doanh nghiệp có mức chi cho các hoạt động liên quan tới đôi mới sáng tạo trên 100
tỷ đồng , còn lại 40 % chỉ từ 1 đến 3 tỷ đồng và 33 % chi dưới 500 triệu đồng. Các
khoản chi chủ yếu là chuyển giao công nghệ và tư vấn. Không có doanh nghiệp nào trả
tiền để mua hàng phát minh sáng chế.
Trong số các doanh nghiệp từng đổi mới sáng tạo trong giai đoạn 2009 - 2012, khoảng
50% từng sử dụng vốn vay ngân hàng cho đội mới sáng tạo. Vay ngân hàng thích hợp
với các doanh nghiệp công hơn là các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam dành ngân sách thấp cho đổi mới sáng tạo. Dường như hoạt động R & D và
đổi mới sáng tạo chỉ được thực hiện ở doanh nghiệp mẹ. Hơn nữa, doanh nghiệp
thường chưa cân đối được ưu tiên tài chính cho R&D, không có doanh nghiệp nào hài
lòng với doanh thu từ các khoan đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Điều này có thể dẫn đến
việc doanh nghiệp sẽ không mạnh dạn bố trí ngân sách cho hoạt động R&D. Trong số
các lĩnh vực được khao sát mức đầu tư của lĩnh vực công nghệ thông tin là cao nhất.
Có khoảng 8 % doanh nghiệp công nghệ thông tin chi hơn 10 tỷ cho đổi mới sang tạo
trong 3 năm qua và chủ yếu cho phát triển sản phẩm mới.

2.3 Đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp ở Việt Nam
2.3.1 Những ưu điểm chính
Thứ nhất, nhà nước đã có các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp nhỏ và vừa thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo. Qua đó, đã nỗ lực để xây
dựng một khung pháp lý cho hoạt động đổi mới sáng tạo, từng bước hoàn thiện hành
lang pháp lý và chính sách về KH&CN, đổi mới sáng tạo theo tinh thần đổi mới mạnh
mẽ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, từng bước đưa KH&CN thực sự là động lực quan

trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã có các chính
sách sử dụng và đãi ngộ cán bộ KH&CN, chính sách khuyến khích ứng dụng kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, chính sách đầu tư và cơ chế tài chính
cho hoạt động KH&CN. Đồng thời, từng bước đầu khắc phục được các mâu thuẫn,


22
chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật, từng bước tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho hoạt động đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, các doanh nghiệp đã có nhận thức cao về hoạt động đổi mới sáng tạo trong
việc nâng cao năng suất, chất lượng. Đã thực hiện đổi mới sáng tạo về sản phẩm, qui
trình để tạo ra các sản phẩm có chất lượng ngày một tốt hơn, đặc biệt đã áp dụng các
sáng chế, giải pháp hữu ích thành công. Ví dụ như ông Nguyễn Hữu Thường (khối Tân
Phú, phường Hòa Hiếu, thị xã Thái Hòa, Nghệ An) đã tự mày mò sáng chế sản phẩm
hữu ích là máy cắt đá viên. Ông là 1 trong những thành viên của Câu lạc bộ Sáng chế
Nghệ An. Sản phẩm đang đã được đăng ký và đang chờ Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa
học và Công nghệ cấp Bằng độc quyền sáng chế. Việc sở hữu chiếc máy cắt đá không
chỉ khắc phục được cách làm thủ công mà còn làm thay đổi cả một phương thực sản
xuất mới hiện đại và tiến bộ hơn. Công việc với ông đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn, lại
giảm bớt những hao phí do việc chặt đá bằng dao như trước đây.
Thứ ba, để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, nhà nước đã
khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa hoc công nghệ của doanh
nghiệp, khuyến khích thành lập bộ phận nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp
để hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn công nghệ phục vụ cho việc đổi mới sản
phẩm, đổi mới qui trình. Đặc biệt tỉnh đã hỗ trợ thành lập trung tâm “Sáng kiến hỗ trợ
đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp”, đây là một bước tiến lớn trong việc hỗ trợ và tài trợ
cho các dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong donah nghiệp Việt Nam, thể hiện
bước tiến mới trong chính sách, lấy doanh nghiệp làm trọng tâm của quá trình đổi mới.
Thứ tư, các hoạt động đổi mới tổ chức và tiếp thị đã được các doanh nghiệp quan tâm.

Hơn nữa, các doanh nghiệp có xu hướng mở rộng đầu tư sản xuất nhằm đón đầu các
cơ hội mới. Trong đó, đầu tư, mua sắm các trang thiết bị, máy móc hiện đại; cải tiến,
nâng cấp các thiết bị sẵn có cũng như áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến nhằm
nâng cao năng suất lao động; đào tạo quản lý ở các cấp, từ cơ sở đến cấp cao, cấp quản
lý doanh nghiệp.
Hơn nữa, nhà nước cũng đã có những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng để giúp
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và chủ động, mạnh dạn hơn trong hoạt động đổi mới
sản phẩm, quy trình và tổ chức thực hiện đổi mới công nghệ. Đồng thời, đã có những
hỗ trợ trực tiếp cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, những vườn ươm công nghệ
nhằm đẩy nhanh tiến bộ công nghệ vào sản xuất và đời sống mang lại hiệu quả. Đặc
biệt đã có những chương trình đào tạo đội ngũ quản trị, truyền thông khoa học và công


23
nghệ, những hoạt động thông tin tuyên truyền trên báo chí, truyền hình, internet đã
mang lại hiệu quả cao trong nhận thức về đổi mới sáng tạo.

2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Dù đã có những nỗ lực và thay đổi lớn nhưng nhìn chung, hoạt động đổi mới sáng tạo
của các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu của sự phát triển, cụ thể:
Thứ nhất, đầu tư cho đổi mới sáng tạo chưa hợp lý
Bên cạnh đó, nguồn tài chính cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp chủ yếu được
huy động từ “vốn tự có” (khoảng 2/3 tổng đầu tư cho đổi mới công nghệ) và khoảng
1/3 từ vốn vay tín dụng. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp nhận được hỗ trợ từ phía
Nhà nước về đổi mới sáng tạo và nâng cấp công nghệ còn thấp với lượng các doanh
nghiệp được hưởng các chính sách về tín dụng hay chính sách hỗ trợ đổi mới công
nghệ chỉ từ 10% đến 17%. Đáng chú ý tỷ lệ các doanh nghiệp được hỗ trợ tư vấn kỹ
thuật hay thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chỉ 3% đến 6%. Lý do cho tỷ lệ
này thấp là do doanh nghiệp chưa biết về các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Thêm
vào đó các hình thức hỗ trợ chưa sát với nhu cầu của doanh nghiệp; quy trình xét duyệt

quá phức tạp cùng việc doanh nghiệp không biết bắt đầu “từ đâu” để liên hệ xin hỗ trợ.
Đồng thời, hiện nay đang có một nghịch lý là doanh nghiệp càng lớn thì càng nhận
được nhiều hỗ trợ. Trong khi đó chính sách của ta khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Khi nhìn vào từng hoạt động đầu tư cho đổi mới sáng tạo, thì hầu hết các doanh
nghiệp của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở nỗ lực chiếm lĩnh “phần ngọn” thay vì đầu tư
vào “phần gốc”. Một tỉ lệ rất lớn các doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới quy trình thông
qua việc “Đầu tư vào công nghệ mới được gắn liền với hàng hóa, máy móc, thiết bị”
(39,4%) hoặc thông qua “Nâng cấp/chỉnh sửa công nghệ, thiết bị hiện tại” (39.3%),
trong khi đó chuyển giao công nghệ từ các tổ chức khoa học và công nghệ công lập và
các tổ chức khác ngoài công lập đều dưới chỉ ở mức 0,3% và 0,6%. Nghĩa là các
doanh nghiệp chỉ mua công nghệ về áp dụng chứ không/ ít có cải tiến, nghiên cứu. Tỷ
lệ các doanh nghiệp được hỗ trợ tư vấn kỹ thuật hay thực hiện nhiệm vụ KH&CN chỉ
3% đến 6%.
Điều này được thể hiện rõ trong cơ cấu bình quân kinh phí chi các hoạt động phục vụ
đổi mới sáng tạo năm 2017 của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo


24
cũng nghiêng chủ yếu về mua sắm công nghệ, máy móc và thiết bị (65.5%), còn mua
lại các kết quả nghiên cứu và phát triển của các tổ chức khác chỉ chiếm 0.8%, mua
quyền phát hành, bản quyền, sáng chế cũng chỉ chiếm 3,4%. Ở khía cạnh này, Việt
Nam đứng chót hoặc gần chót bảng so với 12 nước được so sánh.

Thứ hai, số lượng doanh nghiệp chưa quan tâm đến đổi mới sáng tạo chiếm gần 50%
Trên cơ sở 7.641 phiếu điều tra cho thấy số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng
tạo chiếm 61,63%, số doanh nghiệp không có hoạt động này chiếm 37,18% và chỉ có
1,19% số doanh nghiệp không xác định được mình thực sự đã có đổi mới sáng tạo.
Điều này cho thấy mặc dù đổi mới sáng tạo mang lại lợi ích không nhỏ cho các doanh
nghiệp nhưng doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng đến vấn đề này.

Thậm chí đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) - hoạt động chính thúc
đẩy đổi mới sáng tạo cũng chưa được các doanh nghiệp quan tâm. Điều này thể hiện ở
tỷ lệ doanh thu dành cho hoạt động R&D thấp so với các nước cùng khu vực.


25

Thứ ba, sự phối hợp giữa doanh nghiệp và các trường đại học, tổ chức nghiên cứu
còn mờ nhạt
Những con số nói trên phần nào phản ánh năng lực và mối liên kết của các trường, tổ
chức nghiên cứu đối với khu vực doanh nghiệp. Ở các nước phát triển, các trường đại
học và các tổ chức nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc tiến hành các nghiên
cứu để cung cấp những thông tin hữu ích trên đây cho doanh nghiệp, nhưng ở Việt
Nam hoạt động này còn lẻ tẻ, manh mún. Nhiều trường đại học đã có những nghiên
cứu mang tính ứng dụng nhưng những nghiên cứu này lại không có địa chỉ sử dụng cụ
thể. Chất lượng đào tạo ở các trường đại học vẫn còn hạn chế, thiếu tính gắn kết với
thực tế, khiến nhân lực được đào tạo ra thiếu trình độ và khả năng tích cực tham gia
vào những hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức
trong xã hội.
Trong khi thực lực của các doanh nghiệp chưa đủ vững để nghiên cứu phát triển sản
phẩm, doanh nghiệp thì vẫn rất đói công nghệ, mà tỉ lệ chuyển giao chỉ dưới 1% có
nghĩa là cần đặt lại năng lực nghiên cứu của các trường, tổ chức nghiên cứu. Hoặc là
các trường, các tổ chức làm ra sản phẩm nhưng không có gì để mua, hoặc là các
trường, tổ chức nghiên cứu chưa có kết quả có thể bán được. Trong khi đó, chúng ta
đầu tư rất nhiều cho các đề tài KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước nhưng khả năng hỗ
trợ cho các trung tâm của đổi mới sáng tạo lại không cao.
Thứ tư, năng lực nguồn nhân lực phục vụ đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp chưa
cao



×