Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Huy động vốn của doanh nghiệp lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.45 KB, 33 trang )

Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hiện nay, vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với
sản xuất kinh doanh. Thiếu vốn thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều
không thể hoạt động được. Chính vì vậy, vấn đề huy động vốn luôn được xem
xét đến hàng đầu trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong các
doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, nguồn vốn là yếu tố quan trọng hàng
đầu, là bước khởi đầu cho mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu tham gia vào thị
trường.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển của hệ thống tài chính còn chưa cao,
cũng như một số hạn chế mang tính chủ quan khác, thực trạng huy động vốn của
các doanh nghiệp trong nước hiện còn tồn tại nhiều bất cập cần sớm được giải
quyết. Điển hình là tình trạng doanh nghiệp quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay
ngân hàng – một nguồn vốn không dễ tiếp cận, trong khi đó lại bỏ qua hoặc ít để
ý tới các nguồn huy động nhiều tiềm năng khác. Mặt khác, do hạn chế về trình
độ nhân sự, các mô hình tính toán chi phí vốn một cách khoa học hầu như không
được các doanh nghiệp áp dụng khi tìm kiếm nguồn tài trợ.
Do vậy, em đã lựa chọn đề tài cho Đề án môn học Kinh tế đầu tư của
mình là: “Huy động vốn của doanh nghiệp lý luận và thực tiễn”
1
Chương I: Cơ sở lý luận về huy động vốn của doanh nghiệp
1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp
1.1. khái niệm nguồn vốn trong doanh nghiệp
- Khái niệm vốn đầu tư:
Vốn (C) là biểu hiện bàng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư.
Nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và tất
cả các tài sản vật chất khác
- Khái niệm nguồn vốn:
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá
trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây
là thuật ngữ dung để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.


- Khái niệm nguồn vốn của doanh nghiệp: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản
của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản vô hình và hữu hình thoả
mãn các điều kiện sau:
+ Thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
+ Có tính hữu ích (khi sử dụng sẽ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp)
+ Có giá trị
Tài sản của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:
-Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: tài sản dài hạn
-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: tài sản ngắn hạn
Vì vậy vốn của doanh nghiệp cũng được chia thành vốn cố định và vốn
lưu động.
1.2. Phân loại nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp
Nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản
đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Để có thể quản lý vốn một cách có
hiệu quả, doanh nghiệp cần phải phân loại vốn. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp
và đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức phù hợp
nhất cho doanh nghiệp của mình. Trên góc độ vi mô, nguồn vốn đầu tư của các
2
doanh nghiệp, các đơn vị thực hiện đầu tư bao gồm 2 nguồn chính: nguồn vốn
bên trong (internal funds) và nguồn vốn bên ngoài (external funds).
1.2.1. Nguồn vốn bên trong:
Nguồn vốn bên trong hình thành từ phần tích lũy nội bộ doanh nghiệp
(vốn góp ban đầu, thu nhập giữ lại) và phần khấu hao hàng năm. Nguồn vốn này
có ưu điểm là đảm bảo tính độc lập, chủ động, không bị phụ thuộc vào chủ nợ,
hạn chế rủi ro về tín dụng. Dự án được tài trợ từ nguồn vốn này sẽ không làm
suy giảm khả năng vay nợ của đơn vị. Theo lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ (the
internal fund theory), trong điều kiện bình thường đây là nguồn tài trợ chủ yếu
cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nếu
chỉ dựa vào nguồn vốn này sẽ bị hạn chế về quy mô đầu tư.

1.2.2. Nguồn vốn bên ngoài
Nguồn vốn này có thể hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành chứng
khoán ra công chúng (public offering) thông qua 2 hình thức tài trợ chủ yếu: tài
trợ gián tiếp qua các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng...) hoặc tài trợ trực tiếp (qua thị trường vốn: thị trường chứng khoán, hoạt
động tín dụng thuê mua...).
Tại Việt Nam, hiện nay nguồn vốn tài trợ gián tiếp qua các trung gian tài
chính tồn tại khá phổ biến. Tuy nhiên, do nhu cầu đầu tư ngày càng gia tăng,
năng lực các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khó có thể đáp ứng
hết nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp. Chính vì vậy hình thức tài trợ trực tiếp
qua thị trường vốn đã và sẽ ngày được quan tâm thỏa đáng hơn.
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán có ưu điểm là quy mô huy
động rộng rãi hơn (thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng). Bên cạnh
đó, yêu cầu công khai, minh bạch cao trên thị trường chứng khoán cũng tạo điều
kiện và sức ép buộc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính
cạnh tranh và rủi ro cũng sẽ lớn hơn.
Mỗi nguồn vốn và mỗi phương thức tài trợ vừa có ưu và nhược điểm khác
nhau. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà doanh nghiệp có thể lựa chọn
nguồn và phương thức huy động vốn phù hợp.
3
2. Các phương thức huy động vốn trong doanh nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của các
doanh nghiệp được đa dạng hoá. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài
chính của một quốc gia, tùy theo loại hình của doanh nghiệp và các đặc điểm
hoạt động kinh doanh cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể có các phuơng thức
tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu chủ yếu là huy động từ:
- Vốn góp ban đầu.
- Lợi nhuận không chia.
- Phát hành cổ phiếu mới.

Các hình thức huy động nợ chủ yếu là huy động từ:
- Tín dụng thương mại.
- Tín dụng ngân hàng.
- Tín dụng thuê mua.
- Phát hành trái phiếu.
2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: bao
gồm phần vốn chủ doanh nghiệp bỏ vào đầu tư kinh doanh và phần hình thành
từ kết quả trong hoạt động kinh doanh.
Do vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp nên doanh
nghiệp không có trách nhiệm phải trả vốn đó cho người khác. Số liệu về vốn chủ
sở hữu giúp cho thấy trong số giá trị tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu được
dùng để đảm bảo trả nợ.
2.1.1. Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ doanh nghiệp cũng phải có một
số vốn ban đầu nhất định do cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của
doanh nghiệp đó. Vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo
vốn của bản thân doanh nghiệp.
4
- Đối với doanh nghiệp Nhà nuớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà
nước, chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, chủ doanhnghiệp phải có
một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn,
đối với công ty cổ phần, vốn góp của các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định
để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu trách
nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ.
- Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn cũng tương tụ như trên; tức
là vốn có thể do chủ nhân bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác góp...

2.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Khái niệm: Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là một phần lợi
nhuận dùng để tái đầu tư.
Quy mô vốn góp ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng,
tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của
doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng
trưởng nguồn vốn.
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào
khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách
tái đầu tư của Nhà nước.
- Đối với công ty cổ phần: khi công ty để lại một phần lợi nhuận vào tái đầu tư,
tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được
nhận tiền lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên
của công ty. Điều này một mặt, khuyến khích các cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài,
nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt
do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn.
Vốn góp ban đầu và lợi nhuận không chia được gọi là hình thức tự tài trợ
của doanh nghiệp. Hình thức này có một số ưu nhược điềm sau.
5
a) Ưu điểm:
- Doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào bên ngoài (Ngân hàng...)
- Tăng khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp
- Giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong các quan hệ tín dụng tại các ngân hàng,
tổ chức tín dụng hoặc với các cổ đông.
- Nguồn lợi nhuận để lại có tác động rất lớn đến nguồn vốn kinh doanh, tạo cơ
hội cho công ty thu được lợi nhuận cao hơn trong các năm tiếp theo.
b) Nhược điểm:
- Khi doanh nghiệp không trả cổ tức cho cổ đông mà giữ lại lợi nhuận có thể làm
cho giá cổ phiếu trên thị trường giảm, ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp.

2.1.3. Phát hành cổ phiếu mới
Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích sở
hữu hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với vốn của tổ chức phát hành.
Doanh nghiệp có thể phát hành các loại cổ phiếu sau:
- Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu được phát hành bằng nguồn lợi nhuận để lại
hoặc các nguồn vốn chủ sở hữu hợp pháp khác của công ty cổ phần và không có
sự ưu tiên đặc biệt nào trong việc chi trả cổ tức hay thanh lý tài sản khi công ty
phá sản.
- Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu được phát hành bằng nguồn lợi nhuận để lại
hoặc các nguồn vốn chủ sở hữu hợp pháp khác của công ty cổ phần nhưng có sự
ưu tiên đặc biệt trong việc chi trả cổ tức hay thanh lý tài sản khi công ty phá sản.
Khi phát hành cổ phiếu ưu đãi, doanh nghiệp vừa tăng được vốn chủ sở
hữu nhưng lại không bị san sẻ quyền lãnh đạo, việc phát hành vẫn hấp dẫn
người đầu tư bởi tỷ lệ cổ tức được đảm bảo tương đối ổn định. Thông thường cổ
phiếu ưu đai chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong vốn cổ phần của công ty.
2.2. Huy động vốn nợ
2.2.1. Tín dụng thương mại
2.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được
thực hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hoá.
6
Đến thời hạn đã thoả thuận doanh nghiệp mua phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi
cho doanh nghiệp bán dưới hình thức tiền tệ.
- Khi doanh nghiệp mua nguyên liệu, hàng hoá chưa phải trả tiền ngay là doanh
nghiệp đa được các nhà cung cấp cho vay nên hình thức này còn được gọi là tín
dụng của nhà cung cấp.
- Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người
bán chịu còn đoi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng
nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ
lập để đoi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là thương

phiếu. Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
° Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu
trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho
người thụ hưởng.
° Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền
xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Như vậy, hối phiếu là lệnh đoi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng trong quan hệ
thương mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập, được sử dụng không chỉ
trong quan hệ thương mại mà còn trong các quan hệ dân sự khác.
2.2.1.2. Chi phí của tín dụng thương mại.
Trong trường hợp giá mua chịu và giá mua trả tiền ngay có sự chênh lệch,
thường là chênh lệch phải chịu giá cao hơn thì chi phí tín dụng thương mại chính
là chênh lệch giữa giá bán chịu và giá trả tiền ngay.
Thông thường, các nhà cung cấp thường có kèm theo các điều kiện chiết
khấu để khuyến khích khách hàng sớm trả tiền. Ví dụ, một giao dịch tín dụng
thương mại quy định điều kiện chiết khấu "2/15 net 40" trên hoá đơn, có nghĩa
là người bán sẽ chiết khấu 2% trên giá trị của hoá đơn mua hàng nếu người mua
trả tiền trong khoảng thời gian 15 ngày kể từ ngày giao hàng. Ngưới mua sẽ phải
trả toàn bộ giá bán sau 15 ngày và được trả chậm trong vòng 40 ngày.
Trong trường hợp này, chi phí của tín dụng thương mại là chi phí mà khi
người mua không thanh toán được tiền trong thời hạn được hưởng chiết khấu.
7
Trong trường hợp này người mua đa mất khoản chiết khấu mà có thể coi là chi
phí cơ hội mà doanh nghiệp phải trả để được sử dụng khoản tiền mua hàng trong
thời gian kể từ sau ngày được hưởng chiết khấu.
Trên thực tế, loại hình tín dụng này thường có thời hạn rất ngắn và thường
có lãi suất ngầm ẩn cao hơn rất nhiều so với lãi suất có kỳ hạn tương đương của
vốn vay từ ngân hàng thương mại.
2.2.2. Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài

sản, máy móc thiết bị. Nó có lịch sử khá lâu đời, song chỉ phát triển mạnh ở
những nước có nền kinh tế phát triển. Đây là một hình tức tín dụng trung và dài
hạn đặc biệt rất thông dụng trong việc tài trợ các doanh nhiệp.
Ở nước ta hình thức tín dụng này mới được hình thành và phát triển. Quan
hệ tín dụng thuê mua được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa người đi thuê tài
sản và người cho thuê. Thỏa thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai hay nhiều
bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê sẽ chuyển giao tài sản
cho người đi thuê trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại người đi thuê
phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền sử dụng.
Có hai phương thức giao dịch chủ yếu là phương thức thuê vận hành
(operating lease) & phương thức thuê tài chính (capital lease).
a) Thuê vận hành (operating lease).
Theo Điều 2 Quy chế tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các
công ty cho thuê tài chính ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, cho thuê vận hành (cho thuê hoạt động) là hình thức cho thuê tài sản,
theo đó Bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của Bên cho thuê trong một thời gian
nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho Bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài
sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo
hợp đồng cho thuê.
b) Thuê tài chính (capital lease).
Theo Điều 1 Khoản 1 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP quy định: Cho thuê
tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
8
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền
trong suốt thời hạn thuê đa được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê
bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê.
2.2.3. Tín dụng ngân hàng

2.2.3.1. Khái niệm.
Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất đối
với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng
chủ yếu nhằm vào 3 mục đích:
+ Đầu tư vào Tài sản cố định: máy móc thiết bị, công trình nhà xưởng…
+ Bổ sung thêm vốn lưu động
+ Phục vụ các dự án
2.2.3.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Doanh nghiệp vay để đầu tư vào TSCĐ và phục vụ dự án: có thể vay
Ngân hàng theo hình thức như cầm cố, thế chấp tài sản, thông qua bên thứ 3 để
bảo lãnh cho mình hoặc vay dưới hình thức trả góp…
+ Đối với những Doanh nghiệp lớn, Doanh nghiệp có thể sử dụng uy tín của
mình với Ngân hàng (Thanh toán nợ đúng hẹn, khách hàng thân quen) để vay tín
chấp…
+ Đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi mà tài sản để thế chấp cầm cố chỉ
có thể vay của Ngân hàng một lượng vốn nhỏ không đủ vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh thì có thể nhờ uy tín của bên thứ 3 bảo lãnh, tham gia vào qũy
bảo lãnh tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ…
- Doanh nghiệp vay để bổ sung vốn lưu động: có thể vay Ngân hàng dưới hình
thức như vay thấu chi, vay trực tiếp từng lần, cầm cố thế chấp tài sản, tín chấp
(DN lớn), bảo lãnh…
9
2.2.4. Phát hành trái phiếu
Trái phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích đoi
nợ hợp pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tài sản của tổ chức phát hành.
Một doanh nghiệp có thể phát hành các loại trái phiếu sau:
a) Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải trả một
mức lãi suất cố định được quy định ngay từ thời điểm phát hành.
b) Trái phiếu có lãi suất thả nổi: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải trả mức
lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường hoặc theo điều chỉnh của doanh nghiệp.

c) Trái phiếu có thể thu hồi: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp được phép thu
hồi sớm hơn thời hạn.
d) Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu cho phép các trái chủ được
quyền chuyển đổi sang một số lượng cổ phiếu thường xác định ởmột giá xác
định và trong một khoảng thời gian xác định.
e) Trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu cho phép trái chủ được
quyền mua thêm một số lượng cổ phiếu thường ở mức giá xác định và trong
khoảng thời gian xác định.
f) Trái phiếu có tài sản đảm bảo: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng những tài
sản của doanh nghiệp hoặc bằng tài sản của bên thứ ba. Những tài sản để bảo
đảm cho các trái phiếu phát hành thường là bất động sản hoặc nhà xưởng hay
máy móc thiết bị...
- Khi phát hành loại trái phiếu này, công ty hoặc bên thứ ba có trách nhiệm duy
trì các tài sản đảm bảo trong tình trạng tốt nhất. Một tài sản có thể làm vật bảo
đảm cho nhiều lần phát hành trái phiếu nhưng, tổng giá trị trái phiếu phát hành
không được vượt quá giá trị của tài sản đảm bảo.
g) Trái phiếu không có tài sản đảm bảo: Là loại trái phiếu không được bảo đảm
cho việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu bằng một tài sản cụ thể nào. Đây là loai
trái phiếu được doanh nghiệp phát hành tương đối phổ biến. Loại trái phiếu này
thường đi đôi với lãi suất huy động khá cao do độ rủi ro cho trái chủ cao.
Thường chỉ những doanh nghiệp lớn, có uy tín mới có thể phát hành thành công
các trái phiếu loại này.
10
3. Vai trò của huy động vốn đầu tư trong doanh nghiệp
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Vốn là điều kiện
không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp & tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực
tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong quản lý tài chính, các
doanh nghiệp cần chú ý quản lý việc huy động & sự luân chuyển của vốn, sự
ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản & hiệu quả tài chính.

3.1. Điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp. Về mặt
pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập đều phải có một lượng vốn nhất định và
phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định do Nhà nước quy định đối với lĩnh
vực kinh doanh đó. Như vậy vốn lúc này có vai trò đảm bảo sự hình thành và
tồn tại của doanh nghiệp trước pháp luật.
Giá trị vốn ban đầu có thể ít hoặc nhiều tuỳ theo quy mô, ngành nghề, loại
hình doanh nghiệp. Vốn pháp định ở Việt Nam chỉ quy định cho một số ngành
nghề có liên quan đến tài chính như Chứng khoán, Bảo hiểm, Kinh doanh vàng
và Kinh doanh tiền tệ
Đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác mà Nhà nước không
quy định giá trị vốn ban đầu tối thiểu thì giá trị vốn khi thành lập có thể dao
động từ hàng triệu đến hàng tỷ đồng tuỳ khả năng của người thành lập doanh
nghiệp.
3.2. Cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện cơ bản và thiết yếu để tiến hành bất kỳ quá trình và loại
hình sản xuất kinh doanh nào. Điều này thể hiện rõ trong hàm sản xuất
cơ bản P= F(K, L, T), vốn (K) chính là 1 trong 3 yếu tố cơ bản của hàm sản
xuất, bên cạnh các yếu tố lao động (L) và công nghệ (T). Hơn nữa, trong hàm
sản xuất này thì vốn có thể coi là yếu tố quan trọng nhất bởi vì lao động và công
nghệ có thể mua được khi có vốn
Sau khi thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất kinh doanh. Hoạt
động thực tế hàng ngày đòi hỏi phải có tiền để chi tiêu, mua sắm nguyên vật
11
liệu, máy móc; trả lương... Số tiền này không thể lấy ở đâu khác ngoài nguồn
vốn của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn tạm thời không đáp ứng đủ nhu cầu của
hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn
về ngân quỹ. Các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp tạm thời bị đinh trệ,
suy giảm. Nếu tình hình này không được khắc phục kịp thời, doanh nghiệp sẽ
rơi vào tình trạng khó khăn tài chính triền miên; hoạt động sản xuất kinh doanh

bị gián đoạn; tâm lý cán bộ công nhân viên hoang mang; mất uy tín với bạn
hàng, chủ nợ và Ngân hàng. Những khó khăn này có thể nhanh chóng đưa công
ty đến kết cục cuối cũng là phá sản, giải thể hoặc bị sát nhập với công ty khác.
3.3. Cơ sở cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh
Vốn không chỉ giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng và phát triển. Trong quá trình phát triển của
mình, doanh nghiệp luôn mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, giữ vững và
vươn lên trong thị trường. Để làm được điều đó, đoi hỏi doanh nghiệp phải liên
tục đổi mới, đầu tư, tái đầu tư, cải tiến máy móc, thiết bị, công nghệ, hệ thống
phân phối sản phẩm... Kỷ nguyên của công nghệ và sự tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ càng tạo sức ép cho doanh nghiệp; buộc phải liên tục làm mới mình, đổi mới
không ngừng nếu không muốn giẫm chân tại chỗ hay bị tụt hậu. Để làm được tất
cả những công việc đó doanh nghiệp không thể không cần đến nguồn vốn đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thực tế cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp do không có
nguồn vốn bổ sung kịp thời, đủ lớn nên đa bị mất đi vị trí của mình trên thị
trường.
Vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Vốn không những là cơ sở để doanh nghiệp có
thể nâng cao khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối mà còn có thể
giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay hơn nữa là loại bỏ họ
bằng các chính sách marketing hiệu quả (tăng cường quảng cáo, giảm giá,
khuyến mại...).
12
Như vậy, vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải nhận thức vấn đề này một cách
rõ ràng, từ đó phải có một chính sách huy động vốn nhanh chóng, hiệu quả để có
thể tồn tại và không ngừng phát triển trên thương trường.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp

4.1. Các nhân tố vĩ mô.
4.1.1. Năng lực tăng trưởng kinh tế
Năng lực tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quan trọng để huy động nguồn
vốn đầu tư của doanh nghiệp. Năng lực kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phầm quốc gia (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình
quân đầu người…. Năng lực tăng trưởng càng cao thì năng lực tích luỹ của nền
kinh tế càng được đảm bảo, nhờ có tích lũy cao làm tăng đầu tư thì việc huy
động vốn trong nước được cải thiện. Đồng thời khi nguồn vốn huy động được sử
dụng đúng mục đích, hiệu quả thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh hơn, tạo tiền đề tích lũy thêm vốn.
4.1.2. Tình hình chính trị trong nước, chủ trương của nhà nước
Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán trong chủ trương đường lối chính sách
của Nhà nước luôn là yếu tố tạo mối trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn với các
nhà đầu tư và doanh nghiệp trong ngoài nước. Một xã hội ổn định về chính trị,
hệ thống pháp luật chặt chẽ, không chồng chéo lên nhau thì doanh nghiệp được
đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản, mức độ yên tâm của nhà đầu tư
được củng cố thông qua việc đánh giá các yếu tố rủi ro chính trị. Ngoài ra còn
có một số yếu tố quan trọng trong môi trường chính trị như xu thế chính trị, là
định hướng của nhà nước sẽ áp dụng trọng việc điều hành quốc gia.
Nổi bật nhất trong các chủ trương của nhà nước ta trong nhưng năm vừa
qua là chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động và đa
dạng hoá vốn chủ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa không những huy động được
nguồn vốn không nhỏ cho doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo động lực cho các
doanh nghiệp nhà nước trước đây vốn bị coi là chậm chạp trong đổi mới phương
thức kinh doanh và phương pháp quản lý, nay với sự tham gia của tư nhân đã
13

×