Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Ngoai giao, lãnh sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.56 KB, 8 trang )

Ngoại giao, lãnh sự
Lịch sử
Trong quá trình phát triển của luật pháp quốc tế, nhiều cuộc chiến tranh đã
bị coi là nổi loạn hay trái pháp luật bởi một hay nhiều bên tham chiến. Trong
những trường hợp như vậy, những người phục vụ cho chế độ "tội phạm" thường
bị coi là kẻ đồng loã và họ có thể bị xâm phạm. Trong những trường hợp khác,
những sứ giả với các thông điệp đòi hỏi quá đáng thường bị giết như một sự
tuyên bố chiến tranh. Herodotus đã ghi nhận rằng khi các viên quan phụ tá của
vua Ba tư Darius đại đế yêu cầu "đất và nước" (ví dụ, các biểu tượng của sự quy
phục) tới các thành phố Hy Lạp, người Athens đã ném họ vào một chiếc hố và
người Sparta đã ném họ xuống một cái giếng (nơi họ có thể tìm thấy cả đất và
nước ở dưới đáy)
Một sứ giả của La Mã đã bị đái vào người khi ông ta rời thành phố
Tarentum. Lời thề của sứ giả: "Vết nhơ này sẽ được rửa bằng máu!" đã được
thực hiện trong cuộc Chiến tranh Punic. Việc bắt giữ và đối xử không đúng mực
với sứ giả của Raja Raja Chola của Vua Chera đã dẫn tới cuộc Chiến tranh
Kandalur.
Giáo hoàng Gelasius I là giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử được ghi nhận
đã có được sự miễn trừ ngoại giao, như nó được ghi trong bức thư của ông Duo
sunt gửi hoàng đế Anastasius.
Trong truyền thống Hồi giáo, một sứ giả sẽ không bị làm hại, thậm chí cả
khi đó là sứ giả của quốc gia kẻ thù và mang theo một thông điệp rất xấc xược.
Một truyện thánh Muhammad và các tín đồ cho rằng luật sunnah này có từ thời
khi Musaylimah gửi tới Nhà tiên tri Muhammad các sứ giả tuyên bố Musaylimah
là một Nhà tiên tri của Allah và ngang bằng với chính Nhà tiên tri Muhammad .
Nhà tiên tri đã nói với họ, "Ta luôn thề với Allah rằng các sứ giả sẽ không bị giết
hại, nếu không ta đã chém đầu các ngươi".
Khi các nhà ngoại giao theo định nghĩa vào một quốc gia theo nguyên tắc
hành vi đúng đắn, việc vi phạm thường không bị coi là một sự mất thể diện lớn,
dù có một số trường hợp các nhà ngoại giao đã bị giết. Genghis Khan người
Mông Cổ nổi tiếng vì luôn yêu cầu quyền cho các nhà ngoại giao, và họ thường


có hành động trả thù tàn bạo với các nước đã vi phạm các điều luật này. Người
Mông Cổ thường san phẳng toàn bộ các thành phố tới tận móng, để trả thù cho
việc hành quyết các đại sứ của họ.
Năm 1538, Vua Francis I của Pháp đã đe doạ Edmund Bonner —Đại sứ
của Henry VIII tại triều đình Pháp và sau này là Giám mục— đánh một trăm
nhát kích để trừng phạt "cách hành xử láo xược" của Bonner. Dù việc trừng phạt
không diễn ra trên thực tế, nó cho thấy các triều đình châu Âu ở thời điểm đó
không coi các vị đại sứ nước ngoài là được miễn trừ trừng phạt.
Sự khởi đầu của quyền miễn trừ hiện đại
Nghị viện Anh lần đầu bảo đảm quyền miễn trừ ngoại giao cho các đại sứ
nước ngoài năm 1709, sau khi Bá tước Andrey Matveyev, một người Nga sống
tại London, bị các chấp hành viên tòa án Anh vì tội lạm dụng bằng lời lẽ và lạm
dụng thân thể.
Quyền miễn trừ ngoại giao hiện đại phát triển song song với sự phát triển
của ngoại giao hiện đại. Ở thế kỷ 17 các nhà ngoại giao châu Âu nhận thấy rằng
việc bảo vệ khỏi bị truy tố là điều tối cần thiết khi thực hiện nhiệm vù và một bộ
luật liên quan tới việc đảm bảo quyền của các nhà ngoại giao đã được đưa ra.
Tuy nhiên chúng vẫn chỉ có ở Tây Âu và liên kết chặt chẽ với đặc quyền của giới
quý tộc. Vì thế một sứ giả tại Đế chế Ottoman có thể bị bắt giữ và bỏ tù ngay khi
tình trạng thù địch giữa nước họ và đế chế diễn ra. Cuộc Cách mạng Pháp cũng
làm ngắt quãng hệ thống này bởi nhà nước cách mạng và Napoleon đã bỏ tù một
số nhà ngoại giao bị buộc tội làm việc chống lại nước Pháp. Gần đây hơn, cuộc
khủng hoảng con tin Iran thường được coi là một sự vi phạm vào quyền miễn trừ
ngoại giao (dù những kẻ bắt con tin không chính thức đại diện cho nhà nước, các
quốc gia chủ nhà có trách nhiệm bảo vệ tài sản và nhân viên của cơ quan ngoại
giao nước ngoài). Mặt khác, trong Thế chiến II, quyền miễn trừ ngoại giao được
thực hiện và các đại sứ quán đã phải chuyển tới các quốc gia trung lập.
Với các tầng lớp trên ở thế kỷ 17, 18 và 19, quyền miễn trừ ngoại giao là
một ý tưởng dễ hiểu.


Các "đại sứ quán" đầu tiên không phải là các cơ sở thường
trực, mà thực tế chỉ là những chuyến thăm của các đại diện cao cấp của nguyên
thủ quốc gia (thường là họ hàng thân cận của họ), hay thậm chí là chính vị
nguyên thủ. Khi nhiều cơ quan đại diện thường trực xuất hiện, thường trên một
cơ sở hiệp ước giữa hai cường quốc, tại đó thường có các nhân viên là họ hàng
của vị nguyên thủ hay các quý tộc cao cấp.
Chiến tranh xảy ra không phải giữa những cá nhân mà giữa các nguyên
thủ, và các sĩ quan và quan chức của các chính phủ và các quân đội châu Âu
thường thay đổi nhân viên. Những hiệp ước ngừng bắn thường được dàn xếp,
cùng với sự thân thiện giữa các sĩ quan của các quân đội tham chiến. Khi bị bắt
làm tù binh, các sĩ quan thường không phát ngôn và thường bị cách ly ở một
thành phố xa vùng chiến sự. Hầu như luôn luôn, họ được cho phép mang vũ khí
cá nhân. Thậm chí trong các cuộc chiến tranh cách mạng Pháp, các nhà khoa học
Anh vẫn tới thăm Viện hàn lâm Pháp. Trong một không khí như vậy, thật dễ
dàng để chấp nhận rằng một số người được miễn trừ với pháp luật. Sau rốt, họ
vẫn bị ràng buộc bởi các yêu cầu chặt chẽ của danh dự và phong tục.
Ở thế kỷ 19 hệ thống Đại hội Vienna xác nhận lại quyền của các nhà ngoại
giao, và họ thường rất được tôn trọng từ thời điểm đó khi mô hình của châu Âu
lan ra khắp thế giới. Hiện tại, quyền miễn trừ ngoại giao cũng như quan hệ ngoại
giao như một tổng thế, được điều chỉnh ở phạm vi quốc tế theo Hiệp ước Vienna
về Quan hệ Ngoại giao đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới phê chuẩn.
Ở thời hiện đại, miễn trừ ngoại giao tiếp tục cung cấp phương tiện, dù
không hoàn hảo, để đảm bảo cá nhân người đại diện ngoại giao không phải đối
mặt với tình trạng thù địch có thể xảy ra giữa các quốc gia. Như một điều khoản
đã viết: "Vậy thì tại sao chúng ta đồng ý một hệ thống theo đó chúng ta phụ
thuộc vào một quốc gia nước ngoài trước khi chúng ta có thể truy tố một tội
phạm bên trong biên giới nước mình? Câu trả lời thực tế là: bởi chúng ta phụ
thuộc vào các quốc gia khác trong việc đề cao và bảo vệ các nhà ngoại giao của
chúng ta giống như chúng ta đã đề cao và bảo vệ họ."
Vi phạm

Hiệp ước Vienna quy định rằng "nếu không có sự gây tổn hại với các
quyền ưu tiên và miễn trừ của họ, trách nhiệm của mọi người có các quyền ưu
tiên và miễn trừ là phải tuân thủ pháp luật và các quy định của nước chủ nhà."
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, miễn trừ ngoại giao dẫn tới một số hậu quả
không thích hợp; các nhà ngoại giao được bảo vệ đã vi phạm pháp luật (gồm cả
những điều luật sẽ là sự vi phạm ở nước họ) của nước chủ nhà và nước đó đã chỉ
giới hạn ở việc thông tin tới quốc gia quê hương của nhà ngoại giao rằng nhà
ngoại giao đó không còn được chào đón nữa. Tuy nhiên, các nhân viên ngoại
giao không được miễn trừ với pháp lý ở đất nước quê hương họ, và vì thế việc
truy tố có thể diễn ra bởi nước cử nhân viên; với các vi phạm pháp luật nhỏ,
nước cử nhân viên có thể áp dụng các biện pháp hành chính riêng biệt với cơ
quan ở nước ngoài hay phái bộ ngoại giao.
Việc vi phạm pháp luật của các nhà ngoại giao gồm gián điệp, buôn lậu,
các vi phạm pháp luật về giam cầm trẻ em và thậm chí cả giết người : tại London
năm 1984, nữ cảnh sát Yvonne Fletcher đã bị giết trên đường phố bởi một người
bắn súng bên trọng đại sứ quán Libya. Vụ việc đã gây tan vỡ quan hệ ngoại
giaocho tới khi Libya chấp nhận "trách nhiệm chung" năm 1999.
Gián điệp
Các vụ gián điệp nhỏ, hay thu thập thông tin của các nước chủ nhà được
tiến hành ở mọi đại sứ quán. Một vị trí đặc trưng cho một sĩ quan tình báo là tùy
viên báo chí thứ hai, tuỳ viên visa hay chức vụ khác không có trách nhiệm cụ
thể. Tại Hoa Kỳ, có một chính sách ngoại giao không xác nhận hay bác bỏ sự tồn
tại của nhân viên tình báo trong các toà đại sứ quán Mỹ.
Tội phạm giao thông
Một vấn đề riêng biệt là sự miễn trừ với các phương tiện ngoại giao với
các quy định giao thông thông thường như cấm đỗ đôi.Thỉnh thoảng những vấn
đề như vậy có thể dẫn tới hậu quả rất nghiêm trọng, khi việc không tuân thủ luật
giao thông dẫn tới việc làm bị thương hay thiệt hại nhân mạng.
Bị thương và chết
- Phó đại sứ Cộng hoà Gruzia tại Hoa Kỳ, Gueorgui Makharadze, đã gây ra một

vụ tai nạn vào tháng 1 năm 1997 làm bị thương bốn người và thiệt mạng một cô
bé 16 tuổi. Ông bị xác nhận có cồn trong máu ở mức 0.15, nhưng đã được thả
bởi là một nhân viên ngoại giao. Chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Gruzia
khước từ sự miễn trừ dành cho ông, và kết án bảy tới hai mươi năm tù. Tuy
nhiên, sau khi 3 năm thụ án, ông đã quay trở về nước và tiếp tục sống hai năm
trong tù trước khi được ân xá.
- Một lính thuỷ đánh bộ Mỹ phục vụ trong đại sứ quán ở Bucharest, Romania đã
va chạm với một chiếc taxi và làm thiệt mạng một nhạc sĩ nổi tiếng người
Romania Teo peter ngày 3 tháng 12 năm 2004.Christopher Van Goethem, được
cho là đang trong tình trạng say xỉn, không tuân thủ đèn tín hiệu, dẫn tới vụ va
chạm giữa chiếc Ford Expedition của anh ta với chiếc taxi của người nhạc sĩ.
Lượng cồn trong máu Van Goethem ước tính ở mức 0.09 sau khi thử nghiệm
bằng dụng cụ kiểm tra khí thở, nhưng anh ta từ chối cung cấp mẫu máu cho cuộc
thử nghiệm tiếp theo và bỏ sang Đức trước khi bị xét xử vì các trách nhiệm của
mình tại Romania. Chính phủ Romania đã yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ bãi bỏ
quyền miễn trừ ngoại giao của anh ta, và Hoa Kỳ đã từ chối. Tại một tòa án quân
sự, anh ta được trắng án tội giết người và thông dâm nhưng bị kết tội cản trở luật
pháp và khai báo gian dối.
- Một nhà ngoại giao Nga tại Ottawa, Canada đã lái chiếc xe của mình đâm vào
hai người đi bộ trên một con phố vắng vẻ tháng 1 năm 2001, làm thiệt mạng một
người và làm bị thương nghiêm trọng người kia. Andrey Knyazev trước đó đã bị
cảnh sát Ottawa chặn lại ở hai lần khác nhau vì nghi ngờ không biết lái xe. Chính
phủ Canada đã yêu cầu Nga khước từ quyền miễn trừ ngoại giao của người này,
dù nó bị từ chối. Knyazev sau đó bị truy tố tại Nga vì tội ngộ sát, và bị kết án
bốn năm tù. Đơn kháng án của ông bị bác bỏ và ông đã thụ án tại một nhà tù
hình sự.
- Một nhà ngoại giao Mỹ, Tổng lãnh sự Douglas Kent, tại Vladivostok, Nga đã
liên quan tới một vụ đụng xe ngày 27 tháng 10 năm 1998, khiến một thanh niên
trẻ, Alexander Kashin, bị què chân. Kent đã không bị truy tố trước một toà án
Hoa Kỳ. Theo Hiệp ước Vienna về Quan hệ Lãnh sự năm 1963, quyền miễn trừ

ngoại giao không áp dụng cho các hành động dân sự liên quan tới tai nạn xe cộ.
Tuy nhiên, ngày 10 tháng 8 năm 2006, một toà phúc thẩm Hoa Kỳ đã phán quyết
rằng bởi ông đang sử dụng phương tiện riêng của mình cho các mục đích lãnh
sự, Kent sẽ không bị kiện dân sự.
Những xâm phạm đỗ xe của Liên hiệp quốc
Tại Thành phố New York, nơi đặt trụ sở của Liên hợp quốc (và vì thế
cũng là nơi làm việc của hàng nghìn nhà ngoại giao), Thành phố thường có
kháng nghị tới Bộ ngoại giao về những vé đỗ xe không thanh toán vì vị thế ngoại
giao. Các phái bộ ngoại giao có các quy định của riêng mình, nhưng nhiều phái
bộ yêu cầu nhân viên của họ phải trả bất kỳ khoản phạt nào vì vi phạm đỗ xe.
Một cuộc nghiên cứu năm 2006 của hai nhà kinh tế phát hiện rằng có sự tương
quan khá lớn giữa nạn tham nhũng tại quốc gia quê hương và những vé phạt đỗ
xe không được chi trả; dù sao, xấp xỉ 30 quốc gia (hay 20%) có chưa tới một vé
phạt trên mỗi nhà ngoại giao trong giai đoạn 5 năm, và 20 nước không hề có vé
phạt. Sáu nước có hơn 100 lần vi phạm trên mỗi nhà ngoại giao
Lạm dụng tài chính
Nợ xấu
Về lịch sử vấn đề những khoản nợ lớn của những nhà ngoại giao cũng đã
gây ra nhiều vấn đề.Một số định chế tài chính sẽ không mở tín dụng cho các nhà
ngoại giao bởi họ không có các phương tiện pháp lý để đảm bảo khoản tiền sẽ
được hoàn lại
Lạm dụng nhân viên
Việc miễn trừ ngoại giao với nhân viên và luật lao động địa phương khi sử
dụng nhân viên từ nước chủ nhà đã dẫn tới việc lạm dụng. Khi người sử dụng
nhân viên là một nhà ngoại giao, các nhân viên ở trong một tình trạng lấp lửng
pháp lý theo đó cả luật pháp của nước chủ nhà và luật pháp của nước của nhà
ngoại giao đều không có hiệu lực. Có một cuộc xung đột lợi ích cố hữu, khi nhà
ngoại giao là đại diện của đất nước và luật pháp nước mình, và không bị buộc
phải tuân thủ pháp luật địa phương, vì thế một nhà ngoại giao lạm dụng nhân

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×