Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn cơ quan bảo hiểm xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.83 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌ
C
VIỆ
N

NH
CHÍ
NH
QU
ỐC
GIA

NGUYỄN
THỊ
HOÀNG
YẾN

PHÁP
LUẬT VỀ
BẢO
HIỂM
THẤT
NGHIỆP
– TỪ
THỰC


TIỄN CƠ
QUAN
BẢO


HIỂ
M

HỘI
VIỆ
T

HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH
CHÍNH

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành
chính
Mã số:
838102

NA
M
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC: TS. LÊ THỊ HOA
L
U

N
V
Ă

N
T
H

C

L
U
ẬT

HÀ NỘINĂM 2020


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính quốc gia.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hoàng Yến


ii
LỜI CẢM ƠN


Trong suốt hai năm học tập và nghiên cứu có được kết quả hôm nay, ngoài
sự nỗ lực của bản thân, em còn được sự quan tâm giúp đỡ của quý thầy, cô Ban
Sau đại học và Khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở, đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình và đầy trách nhiệm của Tiến sĩ Lê Thị Hoa, sự
giúp đỡ, tạo điều kiện của giáo viên chủ nhiệm lớp, cùng sự giúp đỡ, cổ vũ, động
viên của bạn bè, anh, chị, em lớp Luật Hiến pháp và Luật Hành chính LH4.B4.
Bên cạnh đó, em còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ, động viên từ gia đình và
đồng nghiệp nơi em công tác. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn các nhà khoa
học, các thầy cô, đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Lê Thị
Hoa người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học để em bảo vê họàn thành luận văn
thạc sỹ Luật học của mình. Em cũng xin gửi lời cảm ơn những người thân trong
gia đình cùng toàn thể bạn bè, đồng nghiệp luôn động viên và tạo điều kiện để
em hoàn thành khóa đào tạo.
Xin trân trọng cảm ơn./.


iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP...............................................................................................................7
1.1. Bảo hiểm thất nghiệp............................................................................... 7
1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp..........................11
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp..............32
1.4. Khái lược lịch sử phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam.....35
1.5. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam........................................................................... 40
Kết luận chương 1.............................................................................................49

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CƠ QUAN...........................50
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM................................................................... 50
2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN.............................................50
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam
............................................................................................................................. 56

Kết luận chương 2.............................................................................................69
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM........................................... 71
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.................71
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp............75
3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại

Bảo hiểm xã hội Việt Nam............................................................................ 81
Kết luận chương 3.............................................................................................90
KẾT LUẬN........................................................................................................91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ASXH
BHTN
BHVL
BHXH
BHYT
NLĐ
NSDLĐ
ILO
NTN
TCTN

TTLB
TTLT
CNTT
HĐLV
HĐLĐ


v
DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1...............................................................................................................58
Hình 2.2:..............................................................................................................58
Hình 2.3:..............................................................................................................59
Hình 2.4:..............................................................................................................60
Hình 2.5:..............................................................................................................61
Hình 2.6:..............................................................................................................63


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên
thế giới phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện
tượng khách quan và nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của nền kinh
tế thị trường. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính
trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp
vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ; thất nghiệp còn làm tăng chi tiêu
của Chính phủ, của doanh nghiệp và xã hội do phải thực hiện chi trả TCTN và
các chi phí cho hoạt động đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc làm.

Ở Việt Nam, thị trường lao động đang phát triển, nhưng thất nghiệp đã,
đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung
giải quyết. Trước yêu cầu cấp thiết cần phải có chính sách BHTN đối với người
lao động ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH, trong đó quy định pháp
luật về BHTN. Đây là khung pháp lý quan trọng để triển khai BHTN ở Việt Nam
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009. Sau 4 năm thực hiện, ngày 16/11/2013, Quốc
hội đã thông qua Luật Việc làm, trong đó các quy định pháp luật về BHTN đã
được sửa đổi thay thế trong Luật BHXH như: Mở rộng đối tượng tham gia, điều
kiện hưởng BHTN và chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề... và được thực hiện bắt đầu từ ngày 01/01/2015. Với nỗ lực bảo đảm
ASXH của Đảng và Nhà nước ta, sự ra đời của Pháp luật về BHTN thực sự là
một bước tiến lớn trong con đường phát triển của hệ thống ASXH của Việt Nam.
Quyền về BHTN được quan tâm song, thực tế cho thấy còn nhiều khó
khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện như: đối tượng tham gia
BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận không nhỏ NLĐ chưa được bảo đảm


2
quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN; sự lợi
dụng của NLĐ đối với việc chi trả BHTN, vẫn còn tình trạng lạm dụng chính
sách BHTN như NLĐ thôi làm việc tại đơn vị này nhưng vẫn đi làm việc ở đơn
vị khác mà vẫn nhận trợ cấp BHTN; công tác đào tạo lại nghề và giới thiệu việc
làm cho NLĐ chưa hiệu quả; thủ tục hành chính còn rườm rà, công tác phối hợp
giữa hai ngành BHXH và lao động còn chưa nhịp nhàng, chưa tạo điều kiện
thuận lợi cho NSDLĐ, NLĐ tham gia và hưởng thụ các chế độ BHTN… Do
vậy, việc tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là hết
sức cần thiết để bảo đảm quyền được BHTN cho người bị mất việc, góp phần
củng cố niềm tin của NLĐ đối với chính sách, pháp luật của nhà nước.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm thất

nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ
luật học của mình với mong muốn tìm ra những vướng mắc, tồn tại trong quá
trình thực hiện chính sách, pháp luật về BHTN trong cả nước nói chung và tại
Bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp
nhằm bảo đảm quyền được BHTN của NLĐ.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
-

Nghiên cứu về “Triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam” năm 2008 do Tiến sĩ Phạm Đình Thành - Viện khoa học BHXH Bảo hiểm xã hội Việt Nam làm chủ biên. Tác giả đã trình bày lý luận về thị
trường lao động, nạn thất nghiệp và hệ thống chính sách việc làm và thị trường
lao động, phân tích đặc điểm của thị trường lao động và nạn thất nghiệp ở Việt
Nam, phân tích về hệ thống giới thiệu việc làm và dạy nghề và trên cơ sở chính
sách BHTN của Việt Nam tác giả đề xuất xây dựng 03 mô hình tổ chức thực
hiện chính sách BHTN. Tuy nhiên do yêu cầu phục vụ kịp thời việc triển khai
thực hiện chính sách bảo BHTN nên tác giả đã xây dựng mô hình phối hợp tổ
chức thực hiện giữa ngành Lao động và ngành Bảo hiểm xã hội như hiện nay.
-

Nghiên cứu về “Những lý luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp hiện đại”

năm 2009 do tiến sĩ Trịnh Thị Hoa - Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Bảo hiểm
xã hội Việt Nam làm chủ biên. Tác giả cho rằng thất nghiệp là hiện tượng không


3
mong muốn của NLĐ và Chính phủ, nhưng lại thường xuyên xảy ra trong kinh

tế thị trường. Để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, bảo đảm an toàn cuộc sống cho họ,
Chính phủ cần triển khai chương trình TCTN. Một trong những giải pháp tích
cực đối với chống thất nghiệp là đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới. Tác giả đã cho
rằng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc thiết lập chế độ BHTN là cần thiết,
đáp ứng yêu cầu bảo vệ NLĐ, nhưng cần có những bước đi thận trọng, tiếp thu
kinh nghiệm của các nước để áp dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
-

Nghiên cứu về “Lý luận về bảo hiểm thất nghiệp” năm 2012 do Phó giáo

sư, tiến sĩ Mạc Văn Tiến chủ biên. Nghiên cứu đã phân tích “thất nghiệp” và
“lạm phát” là hai vấn đề nan giải nhất của các quốc gia trong nền kinh tế thị
trường, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự ổn định kinh tế, chính trị, xã
hội của từng nước; ảnh hưởng của thất nghiệp đối với cá nhân và xã hội. Nghiên
cứu đã đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề thất nghiệp; giải pháp kiểm
soát thất nghiệp ở tỷ lệ cho phép như nhóm giải pháp tích cực là tạo việc làm
cho NLĐ. Đó là các giải pháp tác động vào chủ các doanh nghiệp để tạo ra nhiều
chỗ làm việc cho NLĐ, liên quan đến các giải pháp này cần có các dự án phát
triển. Để thực hiện thu hút đầu tư, Chính phủ các nước đều có các chính sách
khuyến khích đầu tư (trong nước và nước ngoài). Tác giả cho rằng, đầu tư là
biện pháp tích cực nhất để tăng số chỗ làm việc trong nền kinh tế.
-

Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sách

bảo hiểm thất nghiệp nhằm tăng cường tính bền vững” năm 2013 do Lê Quang
Trung làm Chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu đã đề cập gián tiếp về các vấn đề liên
quan tới quản lý nhà nước về BHTN như trình tự, thủ tục triển khai hoạt động
BHTN.
-


Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Hoàn thiện quản lý BHTN ở Việt Nam”

năm 2018 do Tiến sĩ Đỗ Văn Sinh làm Chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu đã đề cập
trực tiếp về các vấn đề liên quan tới quản lý nhà nước về BHTN như thực trạng
của thất nghiệp và thực trạng quản lý BHTN ở Việt Nam. Nghiên cứu đã phân
tích các nguyên tắc về quản lý BHTN, các quy trình thực hiện BHTN và những
hạn chế, nguyên nhân của hoạt động quản lý BHTN trong chỉ đạo và phối hợp


4
để triển khai các chế độ chính sách về BHTN, từ đó đã đưa ra những phương
hướng và giải pháp để hoàn thiện về quản lý BHTN ở Việt Nam hiện nay.
-

Luận văn thạc sĩ luật học “BHTN trong Luật bảo hiểm xã hội ở Việt

Nam - Thực trạng và giải pháp” (2014) của Ngô Thu Phương đã nêu ra một số
nội dung cơ bản của BHTN cũng như thực trạng áp dụng BHTN ở Việt Nam sau
5 năm thực hiện.
-

Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam

hiện nay” (2017) của Dương Thị Nguyệt Khuê đã nêu ra một số nội dung cơ bản
của BHTN cũng như thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN ở Việt Nam trong thời
gian qua và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTN để bảo đảm sự
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước.

Qua các công trình nghiên cứu trên ở những giác độ khác nhau đã tiếp cận

và nghiên cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu thực tiễn tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, một cơ quan đang
triển khai thực hiện các chính sách về BHTN đối với người lao động. Nghiên
cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại Bảo hiểm xã hội
Việt Nam sẽ góp phần tìm hiểu, làm sáng rõ cả về lý luận và thực tiễn, qua đó
đặt ra những vấn đề cần có giải pháp để hoàn thiện pháp luật về BHTN nói
chung và việc triển khai các chính sách pháp luật về BHTN tại cơ quan Bảo
hiểm xã hội Việt Nam nói riêng.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
-

Mục đích: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về BHTN,

phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN và đề xuất giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam.
-

Nhiệm vụ:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về BHTN và pháp luật về BHTN ở Việt
Nam;
Thứ hai, tổng hợp, phân tích pháp luật về BHTN của một số quốc gia và
rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.


5
Thứ ba, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN và thực tiễn
thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn

chế và nguyên nhân hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN.
Thứ tư, đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật trong tổ chức
thực hiện pháp luật về BHTN thời gian tới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
-

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc

điểm, nội dung, vai trò, các yếu tố tác động đến pháp luật về BHTN; lịch sử hình
thành và phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam; thực tiễn triển khai pháp
luật về BHTN đối với NLĐ đang tham gia BHXH tại Bảo hiểm xã hội Việt
Nam từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam.
-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực

trạng pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội
Việt Nam với khoảng thời gian từ 2009 đến năm 2019.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN
nói riêng. Nội dung nghiên cứu bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về vấn
đề ASXH, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn
với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong đó có quyền được BHTN.

-

Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện

chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, quan điểm tiếp cận các
vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
-

Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp cụ thể được sử dụng trong

luận văn gồm phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp - diễn dịch...
6.

Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của

pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay, góp phần nâng cao nhận thức của


6
người dân về BHTN; thực hiện pháp luật về BHTN của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan đến quyền được BHTN. Luận văn cũng nêu ra những yêu cầu
khách quan của nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật về BHTN ở nước ta.
Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về BHTN - từ thực tiễn cơ quan
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những bất cập, khó khăn trong
công tác áp dụng, thực thi pháp luật về BHTN. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHTN. Điều này góp
phần bổ khuyết cho những thiếu sót của những quy định trong pháp luật về
BHTN hiện tại, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về

BHTN trong thời gian tới.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo của các tổ chức, cá nhân có liên
quan đến BHTN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu pháp luật
về BHTN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực
hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam.


7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Khái niệm BHTN là một vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa quyết định đối
với toàn bộ các vấn đề liên quan tới chế định BHTN. Việc xác định rõ khái niệm
BHTN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc xây dựng, tổ chức thực hiện
pháp luật về BHTN; thực thi quy trình, thủ tục giải quyết chế độ BHTN; xác
định đối tượng của BHTN sao cho phát huy được cao nhất vị trí, vai trò của
BHTN trong đời sống xã hội cũng như việc xác định vị trí, vai trò của cơ quan
quản lý nhà nước về BHTN. Tùy thuộc vào từng khía cạnh của đời sống xã hội,
BHTN được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, BHTN được hiểu là giải pháp nhằm khắc
phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp NTN tạm thời đảm bảo được cuộc
sống và tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập

trung. Quỹ này được hình thành qua sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ có sự hỗ
trợ của nhà nước, được sử dụng để trả TCTN, cũng như tiến hành các biện pháp
nhằm nhanh chóng giúp NTN cải thiện cơ hội việc làm, sớm trở lại với thị
trường lao động.
Dưới góc độ pháp lý, BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định
việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả cho TCTN để bù đắp thu nhập cho
NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa NTN trở lại làm việc.
BHTN vì thế thường được hiểu là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo
hiểm xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho NLĐ bị mất thu nhập do thất
nghiệp1.
Theo Công ước số 102 năm 1952 của ILO, BHTN là một trong chín
nhánh của bảo hiểm xã hội, là một biện pháp hỗ trợ thiết thực về mặt tài chính
cho NLĐ trong lúc mất việc làm nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định
cuộc sống. Ngoài ra, cơ chế pháp lý này còn tạo dựng hệ thống các giải pháp
như: hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần ổn định tâm lý, tạo


8
điều kiện thuận lợi cho người lao động bị mất việc có cơ hội tìm kiếm, thích ứng
với công việc mới.


nước ta, trong tiến trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Đảng và nhà nước

đã nhận thức từ ASXH là một trong những vấn đề cần phải được chú trọng. Vì
thế, lần sửa đổi này đã mở rộng hơn đối tượng có quyền được bảo trợ. Cụ thể,
tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm
ASXH”. Hơn nữa, ASXH là mục tiêu, chính sách phát triển của mỗi quốc gia
nhằm thúc đẩy phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo
quyền tiếp cận các nguồn lực đầy đủ trong đó có quyền được BHTN.

Do đó, dưới góc độ nhân quyền, quyền được BHTN là quyền con người
cần được quan tâm, bảo đảm, bảo vệ. Thực chất, đây là quyền lợi riêng nhưng
được toàn thể xã hội chung tay bù đắp. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cách nhìn nhận
về BHTN ở từng khía cạnh của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, tính đến thời điểm
trước ngày Luật việc làm ra đời 16/11/2013, chưa có một định nghĩa chính thức
nào về BHTN được ghi nhận trong hệ thống các văn bản pháp quy. Mặc dù, Luật
số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội về Bảo hiểm xã hội là văn bản
pháp lý có giá trị cao nhất về lĩnh vực bảo hiểm xã hội, trong đó có chế định
BHTN song cũng chỉ đưa ra các nội dung cơ bản liên quan đến BHTN chứ
không có điều nào định nghĩa cụ thể về BHTN. Do đó, chúng ta chưa có một
khái niệm chính thức về BHTN.
Còn nay, theo Luật Việc làm thì: “BHTN là chế độ nhằm bù đắp một
phần thu nhập của NLĐ khi bi mấṭ việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì
việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN” với khái niệm này cho
thấy, BHTN là chế độ nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ bị thất nghiệp. So với
tiêu chuẩn của Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH năm 1952 của
ILO thì Luật Việc làm đã đưa ra khái niệm về BHTN tương đối toàn diện, đã thể
hiện được bản chất của BHTN. Sự ra đời của Luật Việc làm là một bước tiến
mới của BHTN ở Việt Nam. Như vậy, xét về bản chất, BHTN chính là sự bù đắp
những tổn thất về thu nhập cho NLĐ thất nghiệp giúp họ duy trì sinh hoạt trong
thời gian mất việc, tạo điều kiện tái tạo việc làm; là một biện pháp


9
mang tính cấp thiết, bảo đảm cho sự sinh tồn của người mất việc. Đồng thời,
giúp NTN né tránh rủi ro thông qua việc tạo lập quỹ BHTN. Do đó, NTN từ chỗ
bị mất thu nhập do thất nghiệp lại vẫn nhận được tiền TCTN do có tham gia
đóng BHTN.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
Đặc điểm của BHTN là bảo đảm cho quá trình tái tạo việc làm và đời sống

của NTN được diễn ra bình thường. Vì vậy, ngoài hỗ trợ về vật chất, BHTN còn
hỗ trợ về mặt tinh thần cho họ. Là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo
hiểm xã hội nên BHTN cũng có các đặc điểm chung giống bảo hiểm xã hội như:
-

Về đối tượng hưởng: Là NLĐ thuộc trường hợp được tham gia đóng bảo

hiểm và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
-

Về điều kiện hưởng chế độ: Phải là NLĐ được tham gia đóng bảo hiểm

thuộc các trường hợp được hưởng chế độ.
-

Về nguồn hình thành quỹ: Dựa vào sự đóng góp bằng một tỷ lệ phần

trăm nhất định căn cứ trên mức tiền lương của người tham gia đóng bảo hiểm.
Ngoài ra, quỹ bảo hiểm còn được hình thành từ sự hỗ trợ của nhà nước, tiền sinh
lời của hoạt động đầu tư quỹ, sự đóng góp của NSDLĐ (trừ trường hợp thuộc
diện tham gia đóng BHXH tự nguyện) và các nguồn thu hợp pháp khác.
-

Về nguồn bảo đảm chi trả: Bảo hiểm xã hội Việt Nam - cơ quan thuộc

Chính Phủ sẽ chịu trách nhiệm bảo đảm chi trả quyền lợi bảo hiểm cho những
trường hợp được hưởng chế độ BHTN.
-

Về căn cứ chi trả quyền lợi bảo hiểm: Phụ thuộc vào thời gian tham gia


bảo hiểm mà NLĐ được hưởng các quyền lợi bảo hiểm.
Với năm tiêu chí nêu trên cho thấy, BHTN là lựa chọn thích hợp, đảm
bảo độ tin cậy cho người tham gia, giảm thiểu sự mất cân bằng thu nhập cho
NTN trong thời gian bị mất việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm
chung, BHTN cũng có những đặc điểm riêng nhất định.
Một là, NTN nhận trợ cấp trên cơ sở đóng BHTN. Với mục đích hỗ trợ
NLĐ khi bi thấṭ nghiệp, để giải quyết tình trạng thất nghiệp, góp phần cải thiện


10
đời sống của NLĐ sau khi mất việc làm, Nhà nước đã ban hành chính sách nhằm
giúp NTN thoát khỏi khó khăn, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, phụ thuộc vào
mức đóng góp, thời gian tham gia bảo hiểm mà NLĐ được hưởng các quyền lợi
bảo hiểm khác nhau theo nguyên tắc có đóng, có hưởng. Song mức đóng góp chỉ
là một tỉ lê phầṇ trăm rất nhỏ trên mức lương của NLĐ và mức hỗ trợ không cao
hơn lương tháng họ đang hưởng trong thời gian nhất định chứ không giống như
quyền lợi được hưởng chế độ bảo hiểm khác khi tham gia bảo hiểm xă hội.
Hai là, đối tượng tham gia và hưởng BHTN. Cùng xuất phát từ quan hệ
lao động, nhưng đối tượng hưởng BHTN là những NLĐ, có khả năng lao động
bị chấm dứt quan hệ lao động do không có việc làm, hay có việc làm nhưng
không đáp ứng được yêu cầu của NSDLĐ và họ luôn sẵn sàng trở lại làm việc.
Còn đối tượng của các chế độ bảo hiểm khác là những NLĐ vẫn đang tồn tại
quan hệ lao động nhưng do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; hoặc do chấm dứt quan hệ lao động như do hết tuổi lao động hay chết.
Do đó, kể cả có việc làm phù hợp cũng không thể chắc chắn NLĐ trong số đó
sẵn sàng quay trở lại thị trường lao động.
Ba là, trong chế độ BHTN, bên cạnh việc bù đắp thu nhập bị mất do mất
việc làm còn có các chế độ như: Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học
nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc

làm cho người lao động. Thực tiễn phổ biến của các nước thì các chế độ BHTN
chủ yếu là để thực hiện các chính sách thị trường lao động CHỦ ĐỘNG/TÍCH
CỰC (positive labour market policies), thứ đến mới là để thực hiện các chính
sách thị trường lao động BỊ ĐỘNG (passive labour market policies). Chính sách
thị trường lao động chủ động là nhằm giúp NLĐ: có việc làm; bảo vệ, duy trì
được việc làm đang có; có khả năng chuyển đổi việc làm khi cần thiết. Chính
sách thị trường lao động bị động là chính sách hỗ trợ khi NLĐ đã bị mất việc
làm rồi. Hiện nay, trong các văn bản về BHTN quy định khá rõ về đặc điểm này,
đó là: Trong 4 chế độ BHTN thì có tới 3 chế độ là hướng tới thực hiện các chính
sách thị trường lao động chủ động, chỉ có 1 chế độ (trợ cấp thất nghiệp) là để
thực hiện chính sách thị trường lao động bị động; trong 3 chế độ (Hỗ trợ tư


11
vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động) thực chất là để
thực hiện các chính sách thị trường lao động chủ động. Tuy nhiên, thực tế thực
hiện cũng cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà chủ yếu mới chỉ thực hiện được
chế độ trợ cấp thất nghiệp, chưa thực hiện được nhiều và hiệu quả các chế độ
BHTN khác…
1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Cùng với sự khủng hoảng kinh tế thế giới, thất nghiệp đã trở thành vấn đề
không còn xa lạ ở nhiều nước. Đặc biệt, với những quốc gia có dân số chiếm đa
phần là người dân trong độ tuổi lao động, nếu không có một kế hoạch quản lý,
sử dụng lao động tốt, sẽ không thể phát huy tối đa được nguồn nhân lực này. Có
nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến như trình độ nhận thức còn hạn chế,
thiếu chuyên nghiệp, kỷ luật lao động chưa cao, việc giải quyết tranh chấp lao
động chưa hiệu quả, thu nhập thấp; diện tích đất nông lâm nghiệp bị thu hẹp do
chuyển đổi mục đích sử dụng vào nhà ở, nhà máy, xí nghiệp...; sự di dân tự do

giữa các vùng miền; cơ cấu ngành nghề kinh tế chưa hợp lý; cơ giới hóa sản
xuất... đều có thể dẫn đến gia tăng tình trạng thất nghiệp. Bên cạnh đó, một thực
tế là, nguồn nhân công lao động nhiều nhưng không phải ai trong số đó cũng có
khả năng đáp ứng nhu cầu công việc. Vì thế, thị trường lao động tồn tại thực
trạng mất cân đối giữa cung và cầu, đòi hỏi các nhà nước cần có những giải pháp
đủ mạnh để cải thiện thị trường lao động vốn hùng hậu về số lượng nhưng về
chất lượng thì không đảm bảo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia đều
đang phải nỗ lực phát triển kinh tế, bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững khác, trong đó có bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, coi con
người là trung tâm của mọi sự phát triển. Trách nhiệm của các nhà nước được đề
cao hơn bao giờ hết, trong đó có trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội; tránh
nguy cơ bùng phát tràn lan nạn thất nghiệp; bảo vệ người mất việc làm; ổn định
trật tự xã hội; hạn chế hậu quả do thất nghiệp mang lại; tránh lãng phí nguồn
nhân lực. Do vậy pháp luật về BHTN được hình thành, phát triển và ngày càng


12
được hoàn thiện với mục tiêu nhằm bảo trợ, bù đắp sự mất thu nhập tạm thời
trong thời gian NLĐ bị mất việc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho NTN có
cơ hội tiếp cận việc làm mới, điều chỉnh kịp thời các quan hệ liên quan đến thất
nghiệp.
Pháp luật về BHTN ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các nước theo hệ
thống pháp luật Anh-Mĩ, nguồn pháp luật về BHTN khá rộng. Hệ thống nguồn
pháp luật ở các nước này ngoài các văn bản quy phạm do nhà nước ban hành,
các án lệ của tòa án cũng được áp dụng và tập quán quốc tế liên quan đến BHTN
cũng có vai trò quan trọng. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa,
nguồn pháp luật về BHTN trước đây chủ yếu là các văn bản quy phạm do cơ
quan có thẩm quyền ban hành. Án lệ, tập quán và các nguồn khác ít được xem là
nguồn chính thức. Tuy nhiên, hiện nay, do sự phát triển của các giao lưu thương
mại, dịch vụ, sự dịch chuyển của các nguồn nhân lực mang tính quốc tế, nguồn

pháp luật của không ít quốc gia thuộc hệ thống pháp luật này đã có sự linh hoạt,
mở rộng hơn. Ở Việt Nam hiện nay, nguồn cơ bản của hệ thống pháp luật về
BHTN là các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và các điều
ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Án lệ về BHTN chưa được
xem là một nguồn chính thức ở Việt Nam, tuy nhiên, trong thực tế, hàng năm,
Toàn án Nhân dân Tối cao vẫn làm công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật và tổng kết kinh nghiệm xét xử, theo đó, những vấn đề liên quan đến BHTN
vẫn được xem xét dưới góc độ định hướng, tham khảo từ "nguồn pháp luật
không chính thức này". Với sự ra đời của Nghị quyết 49 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020, từ quy định: Giao cho Tòa án Nhân
dân Tối cao công tác "Phát triển án lệ", có lẽ trong tương lai, dù còn rất nhiều
khó khăn, nhưng Việt Nam có thể sẽ có sự bổ sung về án lệ vào nguồn pháp luật
nói chung và cho hệ thống pháp luật về BHTN nói riêng. Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật ở Việt Nam được xem là một nguồn chính thức, quan trọng nhất,
bao gồm các quy định trong các văn bản như Hiến pháp, Luật Lao động, Luật
Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết
liên quan như các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ trưởng... Các


13
văn bản này điều chỉnh mối quan hê ̣giữa NLĐ thất nghiệp với cơ quan quản lý
về BHTN; giữa NLĐ thất nghiệp với NSDLĐ có NLĐ mất việc và các mối quan
hệ khác có liên quan đến BHTN. Tuy nhiên, ở Việt Nam, BHTN được coi là một
chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội, nên các quy phạm pháp luật
về BHTN điều chỉnh các quan hệ về BHTN cũng có sự tương tự như các quy
định pháp luật về bảo hiểm xã hội trong quá trình điều chỉnh các quan hệ của
bảo hiểm xã hội. Bên cạnh các văn bản quy phạm do cơ quan có thẩm quyền ban
hành, Điều ước quốc tế tương ứng mà Việt Nam đã tham gia cũng được xem là
một nguồn pháp luật quan trọng về BHTN ở Việt Nam. Tính đến tháng 12/2010,
Việt Nam đã phê chuẩn 17 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong

đó có 2 Công ước ưu tiên đó là Công ước số 81 về Thanh tra lao động trong
công nghiệp và thương mại năm 1947 và Công ước 144 về Sự tham khảo ý kiến
ba bên nhằm xúc tiến việc thi hành các quy phạm quốc tế về lao động năm
19762. Các Công ước này, trong quá trình nội luật hóa, sẽ được cụ thể, quy định
tương thích trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam ban hành. Việt Nam là nước ít áp dụng trực tiếp các Điều ước
quốc tế trong quá trình thực thi các vấn đề liên quan trong thực tế. Cho nên, hoạt
động xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước cho phù hợp và tương
thích với pháp luật quốc tế; hoặc ngược lại, pháp luật trong nước sẽ được sửa
đổi, bổ sung, ban hành cho phù hợp với Công ước quốc tế mà Việt Nam sẽ tham
gia là hoạt động thường niên diễn ra.
Như vậy, cho thấy, pháp luật về BHTN ở Việt Nam được tiếp cận theo góc
độ hẹp. Ở khía cạnh tích cực, góc độ hẹp này sẽ cho phép tiếp cận được dễ dàng,
tổng thể tất cả các vấn đề về BHTN. Từ những phân tích trên đây, cùng với bản
chất của hoạt động BHTN, có thể đưa ra một khái niệm pháp luật về BHTN ở
Việt Nam như sau: Pháp luật về BHTN là một chế định trong hệ thống các chế
định bảo hiểm xã hội, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ giữa NSDLĐ với NLĐ bị mất việc làm; giữa NLĐ thất nghiệp với cơ
quan quản lý BHTN và các mối quan hệ khác có liên quan đến BHTN”.


14
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật BHTN mang các đặc điểm chung của pháp luật gồm:
-

Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện: Pháp luật do Nhà

nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tự thủ tục chặt chẽ và phức tạp
với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức

và các cá nhân. Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện
pháp, như khuyến kích kinh tế, cưỡng chế, chế tài của nhà nước ...
-

Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang

tính bắt buộc chung: Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, là sự khái quát hóa
từ rất nhiều trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Các quy định pháp luật
được dự liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ
chức và cá nhân có liên quan.
-

Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức: Pháp luật luôn được

thể hiện dưới những hình thức phải nhất định, nói cách khác, những quy định
pháp luật phải được chứa đựng trong các nguồn luật như tập quán pháp, tiền lệ
pháp, văn bản quy phạm pháp luật … Sự xác định chặt chẽ về hình thức là
điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những quy định không phải là pháp
luật, đồng thời, cũng tạo nên sự thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội
dung của pháp luật.
Bên cạnh đó pháp luật BHTN còn có đặc riêng, bao gồm:
-

Pháp luật về BHTN mang tính an sinh xã hội, tính nhân văn. Nó đảm

bảo phân tán rủi ro, san sẻ tài chính giữa gười lao động với người lao động, giữa
người lao động với người sử dụng lao động và giữa những người sử dụng lao
động với nhau. Đặc điểm này biểu hiện khá rõ giữa những người khoẻ mạnh với
những người lao động bị ốm đau; giữa nam và nữ; giữa những người lao động
có công ăn việc làm ổn định và thu nhập cao với những người lao động không

may bị thất nghiệp.
-

Pháp luật về BHTN đã kết hợp nhiều phương pháp thực hiện để được đạt

hiệu quả. Điều này xuất phát từ tính an sinh xã hội, tính nhân văn nên để phát
huy tốt nhất hiệu quả của pháp luật về BHTN bên cạnh sức mạnh cưỡng chế,


15
cần có sự tự nguyện, tự giác, ý thức pháp luật của toàn xã hội bao gồm cả người
sử dụng lao động và bản thân người lao động - người trực tiếp thụ hưởng BHTN
trong việc thực hiện pháp luật BHTN.
- Pháp luật về BHTN được xây dựng và hoàn thiện xuất phát từ điều kiện
đặc thù mỗi quốc gia, văn hóa, tập quán pháp luật và điều kiện lịch sử của mỗi
nước. Mặc dù các công ước quốc tế đã quy định những nội dung cơ bản cho
từng chế độ song để đi vào thực tế cuộc sống thì nội dung pháp luật BHTN cần
tính toán phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh quốc gia, cần có lộ trình phù hợp để
tiếp cận với pháp luật của các nước trên thế giới.
1.2.3. Chủ thể của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Chủ thể quan hệ pháp luật về BHTN là những cá nhân, tổ chức có đủ điều
kiện năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật tham gia vào quan hệ pháp
luật về BHTN.
Tại Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định
28/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo
hiểm thất nghiệp. Có thể xác định chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về BHTN
gồm ba nhóm là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước, cụ thể:
-

Người lao động


Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật Việc làm năm 2013 thì NLĐ là công
dân Việt Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng
làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc HĐLV xác định thời
hạn; HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03
tháng đến dưới 12 tháng.
Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi
trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng
lao động, hợp đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN.
Do đó, những NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang
hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình;
người giao kết HĐLĐ dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHTN.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 28/2016/NĐ-CP thì NLĐ nghỉ


16
việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không
hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH, NLĐ tạm hoãn thực
hiện hợp đồng lao động hoặc HĐLV đã giao kết theo quy định của pháp luật thì
NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN trong thời gian này.
So với quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, quy
định của Luật Việc làm năm 2013 đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia. Như
vậy, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc giải quyết chính sách đối với người thất
nghiệp, song vẫn còn hạn chế đối với NLĐ có thời hạn làm việc dưới ba tháng,
người giúp việc gia đình. Đây là những đối tượng rất cần có sự quan tâm, giúp
đỡ. Vì thế, để đảm bảo quyền được BHTN của NLĐ, trong thời gian tới, Nhà
nước cần cân nhắc, xem xét bổ sung thêm vào chính sách đối tượng chưa được
tham gia để họ được hưởng quyền lợi bảo hiểm như những NLĐ khác.
-


Người sử dụng lao động

Tại khoản 2, điều 43 Luật việc làm năm 2013 quy định NSDLĐ tham gia
BHTN bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang
nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có
thuê mướn, sử dụng lao động.
Trước kia, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã
hội năm 2006 và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, việc tham gia BHTN
chỉ áp dụng đối với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít số
lượng doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động. Nếu Nhà nước vẫn giữ nguyên
quy định này, sẽ có nhiều NLĐ không có cơ hội được tham gia BHTN. Hơn nữa,
so với nơi có quy mô lớn, những doanh nghiệp này thường là đối tượng kinh
doanh không ổn định, do đó, NLĐ làm việc tại đây sẽ dễ bị thất nghiệp hơn. Vì
vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật Việc làm năm
2013 cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ.


17
Như vậy, việc xác định NSDLĐ có phải đối tượng tham gia BHTN không
còn phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theo
HĐLV của NLĐ.
Sự thay đổi đáng kể này không chỉ hỗ trợ, giải quyết những khó khăn cho
NLĐ khi mất việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía NSDLĐ.
-

Nhà nước


Nhà nước, chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật về BHTN, Nhà nước
tham gia với hai tư cách.
Tư cách thức nhất, là Người sử dụng lao động, với tư cách này Nhà nước
phải tuân thủ các quy định dành cho người sử dụng lao động công bằng với mọi
đối tượng khác trong việc sử dụng lao động và BHTN.
Tư cách thức hai, là chủ thể của quyền lực công và vai trò quản lý nhà
nước, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về BHTN và chủ động triển
khai, đảm bảo nó đi vào cuộc sống thông qua hoạt động thực hiện pháp luật về
BHTN. Ngoài ra, nhằm đảm bảo an toàn xã hội ở mức tối thiểu, với chức năng
quản lý xã hội, để tránh những bất ổn về chính trị, xã hội, vì mục tiêu phát triển,
ổn định, bền vững, đòi hỏi Nhà nước phải có đóng góp nhất định vào quỹ
BHTN. Có sự tham gia đóng góp của Nhà nước sẽ bảo đảm cho quỹ BHTN
tránh khỏi nguy cơ mất khả năng cân đối khi số lượng người thất nghiệp tăng lên
đột biến, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng hoảng. Bên cạnh đó, để đảm
bảo an sinh xã hội, giải quyết hậu quả của việc ban hành những chính sách gây
bất lợi ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, Nhà nước cũng phải có một phần trách
nhiệm trong việc hình thành quỹ. Hơn nữa, ngoài mục đích duy trì sự tồn tại của
quỹ BHTN, việc đóng phí còn là cơ sở đảm bảo thanh toán quyền lợi của người
tham gia.
Như vậy, đối tượng và phạm vi áp dụng BHTN theo quy định của Luật
Việc làm hiện hành đã mở rộng hơn so với quy định của Luật BHXH trước đây
ở đối tượng là người có công việc thời vụ từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng.
Trước đây theo quy định cũ thì NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 6
tháng trở lên mới thuộc đối tượng tham gia BHTN. Việc mở rộng phạm vi tham


18
gia BHTN đã thể hiện chính sách xã hội và an sinh của nước ta ngày được chú
trọng và phát triển. Việc mở rộng phạm vi tham gia BHTN cũng nhằm đảm bảo
sự ổn định cho đối tượng là người có công việc từ 3 tháng đến dưới 12 tháng.

Đây là đối tượng thường xuyên có sự thay đổi về công việc nên việc quy định
BHTN cho họ sẽ nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống cho họ khi họ chưa tìm kiếm
được việc làm mới. Phạm vi đối tượng tham gia BHTN mặc dù đã mở rộng hơn
so với quy định trước trước đây nhưng vẫn còn bó hẹp trong phạm vi những
người tham gia HĐLĐ và HĐLV mà không quy định cho đối tượng không tham
gia HĐLĐ. Việc không áp dụng BHTN cho đối tượng là NLĐ không tham gia
HĐLĐ xuất phát từ khó khăn trong việc duy trì và quản lí quỹ bảo hiểm, vấn đề
xác định và quản lí đối tượng thất nghiệp cũng như các vấn đề liên quan đến
chính sách an sinh xã hội.
1.2.4. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Thất nghiệp là rủi ro ngoài ý muốn của NLĐ, hậu quả mà NTN phải gánh
chịu bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Vì thế, mặc dù
không mong muốn song nó vẫn xảy ra, mang theo gánh nặng tâm lý bất an
không chỉ với người mất việc mà còn đối với quốc gia nơi có NTN. Do vậy, việc
kiến tạo quy chế về BHTN mang ý nghĩa xã hội to lớn, góp phần giải quyết tình
trạng thất nghiệp. Với mục tiêu hỗ trợ, bảo vệ vị trí việc làm của NLĐ cũng như
phòng ngừa rủi ro có thể xảy đến với họ khi bị mất việc làm. Nội dung của pháp
luật về BHTN là những khía cạnh nhất định của BHTN, bao gồm: đối tượng
tham gia BHTN, điều kiện giải quyết BHTN và quy trình giải quyết BHTN.
1.2.4.1. Đối tượng tham gia BHTN
Đối tượng tham gia BHTN là những người làm công ăn lương theo một
thời hạn nhất định trong các đơn vị, doanh nghiệp. Về cơ bản, đối tượng này bao
gồm: NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, quy định pháp lý cụ thể với từng nhóm đối
tượng này không hoàn toàn giống nhau ở pháp luật của mỗi quốc gia và ở bản
thân các điều ước quốc tế được ban hành theo những thời điểm khác nhau.
- Nhóm thứ nhất là người lao động: Theo Công ước số 44 ngày
04/6/1934 “về đảm bảo trợ cấp cho những NTN không tự nguyện” thì BHTN áp



×