Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tư tưởng nhân văn, hài hòa của phật giáo đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.74 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 130-137
This paper is available online at

TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN, HÀI HÒA CỦA PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nguyễn Thị Toan
Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Ngày nay, phát triển bền vững đã trở thành một yêu cầu tất yếu khách
quan đối với tất cả các quốc gia, dân tộc. Để đáp ứng yêu cầu này, cần phải kế thừa
những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại. Một trong những
tinh hoa văn hóa đó là Phật giáo. Từ việc làm rõ nội hàm khái niệm “phát triển bền
vững”, bài viết đã phân tích ý nghĩa của tư tưởng nhân văn, hài hòa trong Phật giáo
đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Phát triển bền vững, nhân văn, hài hòa, Phật giáo.

1. Mở đầu
Để phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hoá, Việt Nam không thể không tiếp
thu những di sản văn hoá truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Với tinh thần cầu đồng tôn dị, việc nghiên cứu, tiếp biến những giá trị văn hoá đa dạng,
đa chiều của phương Đông và phương Tây để xây dựng một nền văn hoá tổng hợp, khai
phóng, dung thông và nhân văn là một nhu cầu tất yếu khách quan. Một trong những giá
trị văn hoá có tầm ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam là Phật giáo. Tư tưởng nhân văn, hài
hòa của Phật giáo có giá trị tham khảo không nhỏ cho sự phát triển ở Việt Nam, góp phần
xây dựng thành công xã hội phát triển hài hoà, bền vững, tất cả từ con người và vì con
người, đây cũng cũng là vấn đề mà chúng tôi đề cập trong nghiên cứu này.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái luận về sự phát triển bền vững
Tư tưởng về sự phát triển bền vững đã có mầm mống trong lịch sử tư tưởng nhân


loại song thuật ngữ phát triển bền vững (sustainable development) chỉ xuất hiện lần đầu
tiên vào năm 1980 trong Chiến lược bảo tồn thế giới, sau những nghịch lí của thế giới hiện
Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014.
Liên lạc Nguyễn Thị Toan, e-mail:

130


Tư tưởng nhân văn, hài hòa của Phật giáo đối với sự phát triển bền vững...

đại. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đánh dấu sự sang trang của lịch sử loài người với sự
tăng tốc thần kì của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất đồ sộ ấy lại chứa
đựng trong cái vỏ chật hẹp của quan hệ sản xuất tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao
là cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, mở ra một kỉ nguyên mới, thời đại mới cho lịch sử
nhân loại - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuối thế kỉ XX, sự tan vỡ của mô hình xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô phản ánh bước thăng trầm, quanh co phức tạp của
sự phát triển xã hội theo hình xoáy ốc. Nhân loại bối rối trước sự đứt gãy và khúc quanh
của lịch sử: Cần lựa chọn con đường nào để tiến lên? Chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư
bản? Cuộc khủng hoảng mô hình phát triển xã hội ở cuối thế kỉ XX chứng minh rằng cả
hai mô hình phát triển xã hội theo hướng tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đã thực
thi ở các nước trên thế giới đều thiên lệch, cực đoan.
Chủ n tất cả những gì
con người tạo dựng được. Cái ác từ trong tâm đen tối của mỗi người, từ tác động của môi
133


Nguyễn Thị Toan

trường xã hội, cả từ trong cách giáo dục lệch lạc nặng dạy chữ, nhẹ dạy người, trong cách

hiểu lệch lạc về quá khứ dân tộc. Đất nước ngàn năm chống giặc ngoại xâm nhưng ta đâu
muốn chiến tranh. “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới” (Hồ Chí Minh). Những cuộc chiến chống
giặc ngoại xâm của dân tộc là cuộc chiến lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay
cường bạo (Nguyễn Trãi). Vì vậy, phải giáo dục cho thế hệ trẻ một cách tiếp cận đúng đắn
về chiến tranh: Bạo lực chỉ dành cho kẻ thù khi chúng đẩy ta tới bước đường cùng. Bạo
lực với kẻ thù trong quá khứ không thể thành bạo lực với người thân, với bạn bè trong hiện
tại. Phải thắp sáng đuốc Tâm trong mỗi con người để xua đi bóng tối của cái ác. Cái ác sẽ
bị đẩy lùi nếu giảm nhiên liệu, giảm sức nóng trong ngọn lửa dục để tăng ánh sáng thiện
trong tâm hồn.
Trong xã hội Việt Nam ngày nay, đối với một số người, đạo đức dường như đã trở
thành một mặt hàng xa xỉ. Dục vọng sai khiến con người. Đồng tiền thành động lực thúc
đẩy con người hành động. Lí trí lạnh lùng phán xét các mối quan hệ. Song nhiều khi lí
trí mù loà trước những sự kiện phải nhìn bằng con mắt của tấm lòng. Khoảng trống luân
lí trong xã hội hiện tại khiến không ít người cảm thấy chống chếnh, cô đơn. Tinh thần
từ bi hỉ xả của Phật giáo góp một phần vào việc san lấp khoảng trống này. Lời cảnh báo
về nhân quả có tác dụng như chiếc phanh hãm, giữ con người ở lại bên bờ cái thiện giữa
ranh giới mong manh của thiện ác, chính tà. Vượt qua những tầm thường, bon chen của
lợi danh thế tục, con người sẽ nhân ái, vị tha hơn. Nỗi đau khổ của mỗi cá nhân sẽ vợi nhẹ
khi biết cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ của tha nhân. Thoát khỏi những ràng buộc
của ngã mạn, vượt qua những giới hạn hẹp hòi của cá nhân, con người sẽ thoải mái, thanh
thản hơn. Tỉnh thức về vô thường, về sự mong manh của vạn hữu, điều chỉnh hành vi để
bớt phần tham lam vị kỉ, con người sẽ hướng tới tha nhân nhiều hơn. Có ai đó nói rằng, ở
đâu thêm một ngôi chùa, ở đó sẽ bớt đi một bệnh viện. Nếu mỗi người tự mình trở thành
một ngôi chùa thì mỗi người cũng sẽ thành bác sĩ của chính tâm hồn mình, tự mình chữa
căn bệnh tham, sân si để có một tâm hồn khoẻ mạnh trong một cơ thể khoẻ mạnh. Với
những con người khoẻ mạnh cả về thể xác và tâm hồn, xã hội mới có thể phát triển bền
vững được. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với người lãnh đạo. Người lãnh đạo hiểu lẽ
vô thường là hiểu được quy luật tất yếu của cuộc sống, hiểu được vị thế của mình để có
phương thức hành xử đúng đắn. Luật vô thường chi phối vạn vật, chi phối cuộc đời con

người. Cuộc đời nay thịnh mai suy. Địa vị chức quyền cũng chỉ như giọt sương treo đầu
ngọn cỏ. Không hiểu được điều này, người lãnh đạo sẽ tham quyền cố vị, bảo thủ, chuyên
quyền, độc đoán, gây cản trở cho cách mạng. Khư khư chấp thủ, chấp ngã, người lãnh đạo
sẽ tham lam, ích kỉ, chỉ biết vun vén cho lợi ích cá nhân nhỏ bé tầm thường mà quên đi
lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Tham nhũng là biểu hiện rõ rệt nhất của chấp ngã.
Người lãnh đạo nhân dân trong cuộc cách mạng giải phóng nhân dân lại trở thành nô lệ
cho dục vọng của mình, thành kẻ áp bức, nô dịch nhân dân, chuyển hình thức nô lệ, áp
bức này thành hình thức nô lệ, áp bức khác mà thôi. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn tới sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Vì vậy, để có một xã hội phát triển bền
vững thực sự, người lãnh đạo phải mang trong mình tinh thần vô ngã vị tha, từ bi hỉ xả để
góp phần vào sự nghiệp giải phóng con người triệt để. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
134


Tư tưởng nhân văn, hài hòa của Phật giáo đối với sự phát triển bền vững...

là tấm gương của một hoạt Phật trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng nhân văn của Phật giáo góp phần khắc phục sự xung đột giữa cái tôi cá
nhân và thực tế cuộc đời. Cởi bỏ những ràng buộc quá tải của đời sống, vượt qua những
vọng tưởng sai lầm, con người sẽ đạt được tự do tâm hồn - sự tự do cao nhất trong mọi giá
trị tự do. Sự tự do đó sẽ khai phóng mọi tiềm năng sáng tạo để phát triển cá nhân và phát
triển xã hội.
Tinh thần bình đẳng, niềm tin vào khả năng của con người, thái độ không độc quyền
chân lí là điểm gặp gỡ giữa Phật giáo và học thuyết Mác - Lênin. Tinh thần vô trước, khế
lí khế cơ trong của Phật giáo có nhiều nét tương đồng với tinh thần biện chứng của học
thuyết Mác - Lênin. Kinh điển chỉ là những prajnapati - phương tiện để vận dụng vào từng
hoàn cảnh cụ thể. Nhưng chúng ta đã có một thời giáo điều, máy móc, chấp vào kinh điển,
khư khư ôm lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà quên mất rằng đó chẳng phải là mặt trăng.
Ngày nay, muốn phát triển đất nước thì không thể giữ thái độ độc quyền chân lí. Sự tự do
cao nhất là tự do phát triển mọi tiềm năng sáng tạo trong mỗi con người. Xã hội phát triển

bền vững là xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả (C.Mác). Giải phóng tinh thần, tự do tư tưởng, khắc phục triệt để bệnh giáo
điều, máy móc, tình trạng xơ cứng, lạc hậu về lí luận là một yêu cầu không thể thiếu cho
sự phát triển bền vững đất nước ngày nay.

2.3. Tư tưởng hài hoà trong Phật giáo với sự phát triển bền vững đất nước
Phật giáo là một tôn giáo – triết học tôn trọng sự hài hòa: hài hòa giữa tâm và vật,
lí và tình, trí tuệ và đạo đức. Trung đạo (Bát chính đạo) – con đường giúp con người thoát
khỏi khổ đau của cuộc đời là con đường cân bằng giữa giới (kỉ luật thân thể), định (kỉ luật
tâm linh), tuệ (sự sáng suốt của tuệ giác). Đó còn là sự hài hòa giữa con người với môi
trường sinh thái thiên nhiên, hài hòa giữa các mối quan hệ xã hội.
Phát triển hài hòa là một yêu cầu tất yếu cho sự phát triển bền vững của xã hội
ngày nay. Tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của một đất nước thể hiện cơ bản ở sự
tăng lên của Chỉ số phát triển con người (HDI), thể hiện qua ba phương diện: GDP/người,
thành tựu giáo dục/người, tuổi thọ/người. Cùng với đó là chỉ số hạnh phúc (HP). Theo lời
của Tổng thư ký Bankimoon: “Chúng ta cần một mô hình kinh tế mới mà ở đó các bên
phải công nhận sự phát triển bền vững của cả ba trụ cột xã hội, kinh tế và môi trường trong
lành. Các yếu tố này kết hợp với nhau sẽ tạo ra khái niệm chỉ số chung về hạnh phúc toàn
cầu” [4]. Phát triển bền vững cũng là sự phát triển hài hòa trên các phương diện của đời
sống: hài hoà về vật chất và tinh thần. Phật giáo giúp con người nhìn nhận lại những được
mất trong cơ chế thị trường, điều chỉnh để tạo ra sự hài hoà, cân bằng trong đời sống vật
chất và đời sống tinh thần. Con đường Trung đạo của Phật giáo vẫn là bài học lớn cho đời
sống hiện tại. Chúng ta không thể giữ mãi nếp sống khổ hạnh của một thời bao cấp để đi
lên chủ nghĩa xã hội. Phật Thích Ca cũng đã thừa nhận rằng không thể giải thoát tâm linh
nếu như tâm linh ấy ở trong cái bình thể xác quá gầy gò, ọp ẹp. Trái lại, nếu con người
quá mải mê theo đuổi những nhu cầu hưởng lạc thì đời sống tâm linh sẽ bị xao lãng. Vì
vậy, một nếp sống quân bình cần thiết trong mọi thời kì lịch sử. Khác với nhiều xã hội
135



Nguyễn Thị Toan

phương Tây, cái mà người Việt Nam còn thiếu hiện nay không chỉ là đời sống tinh thần
an vui, thoải mái mà còn là đời sống vật chất đủ đầy. Vì vậy, quan tâm tới việc nâng cao
mức sống của mỗi người dân, giảm thiểu sự phân tầng và phân hoá giàu nghèo là việc làm
thiết thực, cụ thể, tạo tiền đề quan trọng đầu tiên cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đất nước đã được độc lập, nhân dân đã được tự do. Song đó mới chỉ là sự độc lập, tự do
pháp quyền. Trên thực tế, người dân sẽ chưa có sự độc lập, tự do thực sự khi những nhu
cầu của cuộc sống hàng ngày chưa được đáp ứng đầy đủ. Khi nhu cầu về miếng cơm manh
áo hàng ngày còn là áp lực lớn đối với nhiều người thì độc lập, tự do thực sự vẫn còn là
một ẩn số. Vấp đời thường nhật, con thuyền tự do sẽ tan vỡ. Nhiều khi con người đổ máu
xương để giành lấy tự do, rồi lại đổi tự do ấy lấy cơm áo gạo tiền khi cái thân thể tự do
ấy cần phải nuôi dưỡng bằng vật chất. Để chống nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn, cần phải quan
tâm tới sự tăng trưởng kinh tế, nâng GDP bình quân đầu người, giúp con người thoát khỏi
sự nô lệ vào cái thân ngũ uẩn. Tuy nhiên, hạnh phúc là bánh mì và hoa hồng, phát triển
bền vững là sự phát triển cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Dân
giàu là giàu trên cả ba phương diện: 1. Giàu của cải, tiền bạc; 2. Giàu tri thức; 3. Giàu
nhân văn. Sự giàu có về tâm hồn là cội nguồn căn bản cho sự phát triển bền vững của một
dân tộc. Giàu có tâm hồn biểu hiện ở lòng tự trọng, danh dự, sự hiểu biết phong phú và
tấm lòng nhân hậu, vị tha với con người, với cuộc đời. Một nghịch lí của thời đại ngày nay
là sự giàu lên về vật chất, nghèo đi về tinh thần. Bởi vậy, để phát triển bền vững, cần quan
tâm phát triển hài hoà những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần. Đó cũng là tinh
thần Trung đạo trong Phật giáo.
Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường. Sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường báo động về sự phát triển
thiếu bền vững trong thời đại ngày nay. Ô nhiễm môi trường là sản phẩm của tiến trình
công nghiệp hoá thiếu kiểm soát. Bài học về lối sống hài hoà với tự nhiên từ Phật giáo
nhắc nhở con người không được tham lam, tàn nhẫn gặm nhấm cơ thể tự nhiên cho sự tăng
trưởng kinh tế hiện tại, để lại sa mạc hoang tàn cho thế hệ tương lai. Khai thác tự nhiên
hợp lí, xử lí tốt chất thải, tái tạo môi sinh cho xã hội hiện tại và tương lai là yêu cầu cấp

bách trong thời đại ngày nay. Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với bảo vệ, tái tạo môi
sinh chính là xây dựng nền kinh tế mang gương mặt con người, xuất phát từ mối âu lo cho
sự tồn vong và phát triển của con người trong hiện tại và tương lai. Nhân loại đã và đang
xây dựng nền kinh tế tri thức (knowledge economy), song nếu chỉ có tri thức lạnh lùng,
liệu sự phát triển bền vững? Phải chăng, một nền kinh tế minh triết (wisdom economy) sẽ
là sự lựa chọn sáng suốt hơn trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay?
Phát triển bền vững còn là phát triển hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định
xã hội: Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định đi đôi với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã
hội, giải quyết tốt công ăn việc làm, bình đẳng giới, quỹ phúc lợi xã hội tăng, chất lượng
giáo dục ngày càng nâng lên...
Phát triển bền vững cũng là sự phát triển kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng: “Chiều sâu nhân văn của phát triển là phát triển con người cá nhân và cộng
đồng một cách hài hoà” [1;87]. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích quốc gia, dân
136


Tư tưởng nhân văn, hài hòa của Phật giáo đối với sự phát triển bền vững...

tộc này với lợi ích quốc gia, dân tộc khác; hài hoà giữa lợi ích của thế hệ hiện tại và lợi ích
của thế hệ tương lai.

3. Kết luận
Thế giới đang phát triển, hướng tới sự thống nhất trong đa dạng. Thiên hạ đồng quy
nhi thù đồ (thiên hạ cùng hướng tới một đích bằng những con đường khác nhau). Mặc dầu
có sự khác biệt song xét trong chiều sâu, học thuyết Mác - Lênin và minh triết Phật giáo
có nhiều điểm tương đồng, mà điểm tương đồng lớn nhất là lí tưởng nhân văn giải phóng
cho con người khỏi những nỗi đau khổ của cuộc đời để đạt tới hạnh phúc, tự do. Kế thừa
tinh hoa văn hoá của dân tộc và thời đại, trong dòng hợp lưu của văn hoá Đông - Tây, đất
nước sẽ phát triển bền vững, hướng tới những giá trị nhân văn cao đẹp của con người dân chủ, tự do.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Hoàng Chí Bảo, 2009. Thực trạng và triển vọng của chủ nghĩa xã hội. Trao đổi lí luận
lần thứ hai giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Nhật Bản. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[2] Thích Minh Châu dịch. Ngũ bộ kinh. .
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội.
[4] Hài hòa để hạnh phúc, 20/3/2013. http://citinews
[5] Nguyễn Văn Huyên, 2010. Phát triển bền vững, một lí thuyết phát triển trong thế giới
đương đại. www.npa.org.vn.
[6] Phạm Xuân Nam, 2008. Triết lí phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu. Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
[7] Hồ Bá Thâm, 2008. Triết lí Phật giáo, khoa học hiện đại và chủ nghĩa Mác dưới góc
nhìn triết học. Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo. Số 5/2008.
ABSTRACT
Humane and harmonious Buddhist thought
and sustainable development of contemporary Vietnam
At this time in history, ‘sustainable development’ is a phrase used by all nations.
In this article, the authors attempt to clarify the meaning of the concept of ‘sustainable
development’, the significance of humane and harmonious thought in Buddhism and
sustainable development of Vietnam today.

137



×