Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ giai đoạn 1991-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.68 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------o0o------------

VŨ ĐỨC THO

HỢP TÁC AN NINH - QUỐC PHÒNG
GIỮA ASEAN VÀ MỸ GIAI ĐOẠN 1991 - 2015

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số:

92 29 011

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2020


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Trần Khánh
Phản biện 1:......................................................................

Phản biện 2:......................................................................

Phản biện 3:......................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại ..................................................................


Vào hồi................giờ...............ngày...............tháng..............năm 2020.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm thông tin- Thư viện, Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) đã tranh thủ môi trường hòa dịu, không ngừng tăng cường liên
kết và mở rộng hợp tác với thế giới bên ngoài. Một trong những thành công
nổi bật mà ASEAN đã đạt được là trong lĩnh vực hợp tác chính trị và an
ninh – quốc phòng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được,
ASEAN cũng phải đối mặt với nhiều thách thức đặc biệt là vấn đề tranh
chấp chủ quyền biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa ly khai,
khủng bố và tham vọng địa chính trị của các nước lớn. Điều này đòi hỏi
ASEAN phải tăng cường hợp tác với các đối tác bên ngoài, trong đó hợp
tác với Mỹ là một ưu tiên bởi: Mỹ là một siêu cường kinh tế, chính trị, quân
sự hàng đầu thế giới; Mỹ cung cấp dịch vụ “an ninh công cộng”; ASEAN
và Mỹ có mối quan hệ khá mật thiết,v.v.
Ở chiều ngược lại, Mỹ có tầm ảnh hưởng to lớn ở ĐNA và khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương (CA-TBD) dựa trên lực lượng quân sự hiện hữu
và mối quan hệ đồng minh, đối tác ở khu vực. Sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt
là sau sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố ngày 11/09/2001, và sự trỗi dậy
của Trung Quốc đã làm cho uy tín và vị thế của Mỹ ở khu vực ĐNA bị suy
giảm tương đối, thách thức lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực. Vì vậy, tăng
cường hợp tác an ninh với ASEAN – tổ chức có uy tín và vị thế ngày càng
cao trong khu vực là một lựa chọn khôn ngoan để bảo vệ của Mỹ nhằm ngăn
chặn, kiềm chế và tiến tới đẩy lùi những đối thủ thách thức lợi ích của Mỹ.

Việt Nam là thành viên của ASEAN, có vị trí địa chiến lược quan trọng
ở khu vực ĐNA, trước những tác động của tình hình quốc tế mới, sự gia tăng
cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung, sự nổi lên của vấn đề tranh chấp biển đảo,
chạy đua vũ trang. Do đó, nhận diện cục diện khu vực, đánh giá tác động
quan hệ an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ để từ đó đưa ra đối sách
phù hợp đang là một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Vì vậy,
NCS quyết định chọn đề tài "Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN
và Mỹ giai đoạn 1991 – 2015" là tên đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích, làm rõ tiến trình, nội dung, hình thức hợp tác an ninh
- quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ từ năm 1991 đến năm 2015. Trên cơ sở đó
rút ra đặc điểm, đánh giá tác động và bản chất của hợp tác an ninh – quốc
phòng ASEAN – Mỹ và đưa ra gợi ý chính sách cho Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án đánh giá những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ hợp tác an
ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ từ sau Chiến tranh Lạnh.
Luận án nghiên cứu, phân tích tiến trình hợp tác an ninh - quốc phòng
giữa ASEAN và Mỹ trên các mặt từ năm 1991 đến năm 2015.
1


Luận án đưa ra những nhận xét về đặc điểm, đánh giá tác động quan
hệ hợp tác ASEAN – Mỹ trên các mặt và đưa ra một vài gợi ý chính sách
cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Quan hệ hợp tác an ninh - quốc phòng
giữa ASEAN và Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Từ sau năm 1991 đến năm 2015.

Phạm vị không gian: Khu vực Đông Nam Á và CA - TBD.
Phạm vi lĩnh vực: Luận án tập trung nghiên cứu lĩnh vực hợp tác an
ninh – quốc phòng.
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp luận: Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đường lối đối ngoại
trong hợp tác quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chính của
luận án là phương pháp lịch sử kết hợp với logic, bên cạnh đó NCS cũng sử
dụng phương pháp liên ngành.
4.3. Các nguồn tài liệu
Tài liệu gốc là những văn bản, tuyên bố chung về hợp tác chính trị, an
ninh - quốc phòng giữa ASEAN cùng các nước thành viên và Mỹ.
Tài liệu tham khảo là các công trình nghiên cứu được đăng tải trên
sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học và luận án ở trong và ngoài
nước.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu tương đối chuyên sâu, có hệ thống và
toàn diện đầu tiên ở Việt Nam về hợp tác an ninh - quốc phòng giữa
ASEAN và Mỹ.
Luận án chỉ ra nội dung, hình thức và những vấn đề trọng tâm của hợp
tác an ninh – quốc phòng giữa ASEAN cùng một số quốc gia thành viên và
Mỹ.
Luận án rút ra các đặc điểm, đánh giá tác động của hợp tác an ninh quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ và đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt
Nam.
Luận án bổ sung thêm vào hệ thống tư liệu và luận cứ khoa học phục vụ
cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ ASEAN - Mỹ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm rõ hơn tính logic, bản chất và
nội dung quan hệ hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ.

Về mặt thực tiễn: Luận án cung cấp luận cứ khoa học về an ninh - quốc
phòng của ASEAN cùng các quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam đối với
Mỹ và các nước đối tác của ASEAN. Luận án là tài liệu tham khảo quan trọng
2


cho cán bộ công tác trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh – quốc phòng; là tư liệu
cần thiết phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về ASEAN và quan
hệ ASEAN – Mỹ thời hiện đại.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án chia thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu;
Chương 2: Những nhân tố cơ bản tác động đến hợp tác an ninh - quốc phòng
giữa ASEAN và Mỹ; Chương 3: Thực trạng hợp tác an ninh - quốc phòng
giữa ASEAN và Mỹ; Chương 4: Nhận xét hợp tác an ninh - quốc phòng giữa
ASEAN và Mỹ.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp tới hợp tác
an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
Hợp tác an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ là một nội dung
quan trọng, luôn dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học ở trong nước và quốc tế. Các nghiên cứu ở trong nước và quốc tế đã tập
trung làm rõ một số vấn đề chính như:
Bài viết "Hợp tác an ninh giữa Mỹ và ASEAN những giới hạn và khả
năng" của tác giả Muthiah Alagappa được đăng tải trên Thông tin quan hệ
quốc tế, Học viện quan hệ quốc tế, quý 2 năm 1987. Công trình đã đưa ra
nhiều nhận xét khá thú vị như: ASEAN là hòn đá tảng trong chính sách của
Mỹ ở ĐNA; Liên Xô và Việt Nam là mối đe dọa đến lợi ích của Mỹ ở khu

vực. Vì vậy, Mỹ và ASEAN phải tăng cường hợp tác với nhau, Mỹ cần tăng
cường hiện diện quân sự ở ĐNA, tăng viện trợ an ninh, tiến hành diễn tập
quân sự với các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, công trình mới chỉ
làm rõ quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Mỹ và ASEAN trước năm 1990.
Cuốn sách "Vai trò của Mỹ trong sự hình thành và phát triển của
ASEAN" của học giả người Ấn Độ là Chintamani Mahapatra (ABC, năm
1990) lại đi sâu làm rõ chính sách an ninh và vai trò của Mỹ trong tiến trình
hình thành và phát triển của ASEAN.
Bài viết "Mỹ điều chỉnh chiến lược đối với ASEAN trên lĩnh vực an
ninh, quân sự và chính trị sau sự kiện 11/9/2001" của Nguyễn Thị Hạnh
trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 01 năm 2006 lại đi vào làm rõ một số
vấn đề quan trọng về an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ như:
Nguyên nhân Mỹ điều chỉnh chiến lược với ASEAN; Mỹ tăng cường các
liên minh chính trị, quân sự với các đồng minh, đối tác ở khu vực; Giải
pháp để thực hiện nội dung trên là các hoạt động viện trợ, trao đổi, và hợp
tác quân sự với các nước ASEAN, tăng cường lực lượng quân sự ở ĐNA,
3


chia sẻ trách nhiệm với các nước đồng minh ở khu vực trong những vấn đề
nóng.
Bài viết "Những biện pháp của Mỹ nhằm tăng khả năng can dự với
ASEAN", đây là tài liệu nước ngoài được Bùi Thế Hòa dịch và đăng tải trên
Tạp chí Kiến thức Quốc phòng Hiện đại, số 02.2006. Bài viết đã khẳng
định: ASEAN giữ vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ,
Trung Quốc là một thách thức với Mỹ, vì vậy Mỹ phải tăng cường hợp tác
an ninh – quân sự với ASEAN thông qua hoạt động như viện trợ, huấn
luyện, đào tạo quân sự, ....
Tác giả Vũ Thị Hưng trong bài viết "Quan hệ an ninh quân sự Mỹ ASEAN dưới thời Tổng thống Barack Obama", trên tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, số 11, năm 2015 lại cho rằng: Hợp tác an ninh – quốc phòng với

ASEAN được Mỹ chú trọng phát triển hơn dưới thời Tổng thống Obama.
Tác giả khẳng định: triển vọng quan hệ an ninh quốc phòng ASEAN - Mỹ
thời gian tới tuy gặp chút khó khăn song nó sẽ phát triển theo hướng tốt đẹp
và xích lại gần nhau hơn.
Công trình "Những điều chỉnh của ASEAN trong quan hệ với Mỹ từ
sau Chiến tranh Lạnh" của Nguyễn Phú Tân Hương (luận án tiến sĩ chuyên
ngành quan hệ quốc tế, bảo vệ năm 2016). Điểm nổi bật của công trình này
là tác giả đã làm rõ được sự uyển chuyển, linh hoạt và những khác biệt của
ASEAN trong quan hệ với Mỹ ở từng giai đoạn lịch sử qua đó giúp
ASEAN cải thiện, nâng cao vị thế, từng bước trưởng thành và duy trì mối
quan hệ độc lập tương đối với Mỹ.
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến hợp tác an ninh –
quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
Bài viết "An ninh của Đông Nam Á trong một môi trường đang thay
đổi. Quan điểm của Indonesia" trên Indonesia Quarterly, quý 3-1991 được
Hoàng Văn Đỉnh lược dịch trên Tạp chí Quân sự nước ngoài, số 01-1992.
Tác giả công trình đã đưa ra một số vấn đề khoa học khá thú vị như: Cạnh
tranh giữa các nước lớn có còn không? Liệu nền hòa bình ở khu vực ĐNA
có được dài lâu? Cuối cùng tác giả kết luận: ĐNA có thể sẽ tiếp tục là khu
vực diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, và nguy cơ khu vực bị
can thiệp từ bên ngoài là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Bài viết "ASEAN: những điều chỉnh chính sách sau Chiến tranh Lạnh"
của Hoàng Anh Tuấn in trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 5, tháng 03
năm 1995. Trong vấn đề an ninh, tác giả cho rằng: nguy cơ thách thức an
ninh lớn nhất đối với khu vực ASEAN là vẫn chưa có một cơ chế an ninh
đủ mạnh để xử lý các xung đột. Do vậy, các nước ASEAN muốn bảo đảm
an ninh lâu dài thì cần phải xây dựng một cơ chế an ninh được thể chế hóa,
có sự tham gia của tất cả các nước lớn.
Cuốn sách "An ninh lưỡng nan của khu vực Đông Nam Á" (The
Security Dilemmas of Southeast Asia), của Alan Collins, Singapore ISEAS,

4


năm 2000. Tác giả cuốn sách đã đưa ra một số nhận xét: ĐNA đã và đang
phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp từ mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, vấn
đề nội tại trong ASEAN, Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Điều này đã
đẩy ĐNA và khối ASEAN vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan trong giải
quyết vấn đề an ninh khu vực.
Cuốn sách "An ninh Đông Nam Á: Những vấn đề khu vực và toàn cầu"
(Security and Southeast Asia: Domestic, Regional, and Global Issues) của
Alan Collins, Singapore, năm 2003 lại đề cập đến một số vấn đề thuộc lĩnh
vực an ninh phi truyền thống ở ĐNA như an ninh môi trường, kinh tế, các
vấn đề xã hội. Tuy nhiên, các vấn đề như khủng bố, buôn bán người, ma
túy, buôn lậu vũ khí, an ninh hàng hải và cướp biển lại không được đề cập
đến.
Bài viết "Ý đồ của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố ở Đông Nam
Á" của Nguyễn Xuân Lan trên Tạp chí Kiến thức Quốc phòng Hiện đại, số
09.2003. Tác giả làm rõ hai vấn đề quan trọng trong cuộc chiến chống
khủng bố của Mỹ ở ĐNA: ĐNA là trọng điểm chống khủng bố của Mỹ; Mỹ
lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để thực hiện ý đồ tiêu diệt các lực
lượng chống Mỹ, triển khai, bố trí lực lượng quân sự trở lại ĐNA, hình
thành vành đai bao vây cô lập Trung Quốc.
Cuốn sách "Kỷ yếu các hội nghị quốc phòng - quân sự các nước
ASEAN năm 2010", do Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc
phòng ấn hành năm 2011. Công trình là sự tập hợp gồm 25 bài tham luận
của Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) và 15
tham luận của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ tư
(ADMM-4). Các tham luận đều hướng tới mục đích làm thế nào để xây
dựng môi trường hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển trong bối cảnh khu
vực ASEAN đang phải đối mặt với nhiều vấn đề thách thức an ninh mới

nổi.
Cuốn sách "Biển Đông hướng tới một khu vực hòa bình, an ninh và
hợp tác" và cuốn "Tranh chấp Biển Đông luật pháp, địa chính trị và hợp
tác quốc tế" do Đặng Đình Quý chủ biên, Nxb Thế giới ấn hành năm 2011
và năm 2012. Công trình tập hợp những bài viết của các chuyên gia chính
trị, quân sự ở trong nước và quốc tế tham gia hội thảo quốc tế về Biển
Đông. Các bài viết đã tập trung phân tích, làm rõ các vấn đề quan trọng
như: tình hinh khu vực Biển Đông, lợi ích của các bên trong và ngoài khu
vực, tranh chấp Biển Đông vấn đề khía cạnh pháp lý quốc tế, hợp tác ở Biển
Đông vấn đề kinh nghiệm và bài học. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đều cho
rằng thách thức an ninh, quân sự trong vấn đề tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông là vô cùng lớn, nếu các bên không kiểm soát tốt sẽ đẩy khu vực
đến bờ vực chiến tranh.
Cuốn sách "Hợp tác và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung ở Đông Nam Á
ba thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh" do Trần Khánh làm chủ biên, được
5


Nxb Thế giới phát hành năm 2014. Tác giả đã đi vào luận giải sự ganh đua
chính trị giữa Mỹ và Trung trong giành quyền quyết sách ở ĐNA. Điều này đã
và đang tác động mạnh mẽ đến xu hướng hợp tác an ninh – quốc phòng ở khu
vực. Bên cạnh những điểm tích cực, các tác giả cũng phân tích, làm rõ tham
vọng địa chính trị, mục đích, chủ trương, chính sách của Mỹ và Trung Quốc ở
ĐNA từ sau năm 1991, đặc biệt là đánh giá những tác động tiêu cực từ cuộc
cạnh tranh Mỹ - Trung đã làm gia tăng thách thức an ninh với ASEAN.
1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra luận
án cần làm rõ
1.3.1. Những vấn đề đã nghiên cứu
1. Dưới góc độ lịch sử và địa lý, một số nghiên cứu đã góp phần làm
sáng rõ lịch sử ra đời, phát triển và những đóng góp quan trọng của

ASEAN; Yếu địa chiến lược của khu vực ĐNA, bối cảnh tình hình quốc tế,
khu vực tác động lên mối quan hệ an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ.
2. Ở góc độ chính trị và an ninh, một số công trình lại đi vào làm rõ
những nhân tố gây mất an ninh ở khu vực như chủ nghĩa khủng bố, tranh
chấp lãnh thổ, lãnh hải và sự cạnh tranh nước lớn.
3. Ở góc độ quan hệ quốc tế, các nghiên cứu đã phần nào làm rõ những
ganh đua địa chính trị giữa các nước lớn, nhất là cuộc cạnh tranh Mỹ Trung trong giành quyền lãnh đạo ở khu vực; quan điểm và những nỗ lực
của ASEAN và Mỹ trong vấn đề an ninh khu vực.
4. Ở góc độ khoa học quân sự, có nghiên cứu đi vào làm rõ các hoạt
động hợp tác quân sự giữa ASEAN cùng các quốc gia thành viên với Mỹ
thông qua các hoạt động hợp tác chống khủng bố, an ninh biển, giáo dục
đào tạo, tuần tra, diễn tập quân sự,v.v.
5. Vấn đề về thành tựu, hạn chế, giải pháp, triển vọng và xu hướng
hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ cũng đã ít nhiều được
phân tích, tuy nhiên cần phải phân tích kỹ lưỡng hơn, việc chỉ ra đặc điểm,
bản chất quan hệ giữa các bên cần được làm rõ.
1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
1. Làm rõ các nhân tố làm thay đổi môi trường an ninh ở khu vực? Chỉ ra
những thách thức an ninh đối với ASEAN và khu vực ĐNA? Đâu là nhân tố cơ
bản tác động đến hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ giai đoạn
1991 – 2015? Tác động cạnh tranh Mỹ - Trung? Và vì sao ASEAN và Mỹ lại
tăng cường hợp tác an ninh - quốc phòng với nhau?
2. Làm rõ thực trạng tiến trình hợp tác an ninh - quốc phòng giữa
ASEAN và Mỹ từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2015? Chủ trương, chính
sách, mục đích của các bên? Nội dung hợp tác chính và bản chất quan hệ an
ninh giữa ASEAN và Mỹ trong từng giai đoạn là gì?
3. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ tác động như thế
nào đối với ASEAN, Mỹ và Việt Nam? Đặc điểm của hợp tác là gì? Trên cơ
6



sở đó đưa ra những kiến nghị mang tính giải pháp cho Việt Nam trong quan
hệ với ASEAN và Mỹ trong giai đoạn tiếp theo.
4. Làm rõ bản chất mối quan hệ an ninh – quốc phòng song phương
giữa một số nước thành viên ASEAN và Mỹ?
Tiểu kết chương 1
Hợp tác chính trị, an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ luôn là
đề tài lớn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học đến từ nhiều lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau ở trong nước và quốc tế. Các nghiên cứu đã tập trung
luận giải những vấn đề như: lịch sử hình thành và phát triển của ASEAN;
vai trò của ASEAN trong xây dựng cấu trúc an ninh khu vực; quan hệ chính
trị, an ninh ASEAN – Mỹ; bối cảnh quốc tế, khu vực tác động tới quan hệ
an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ; chính sách an ninh của Mỹ ở
khu vực ĐNA và CA – TBD; quan hệ an ninh giữa Mỹ với một số nước
ĐNA; ganh đua địa chính trị giữa các nước lớn ở khu vực ĐNA; cạnh tranh
Mỹ - Trung và tác động tới an ninh khu vực; hoạt động chống khủng bố,
tuần tra, tập trận quân sự, huấn luyện đào tạo, thăm viếng quân sự của Mỹ ở
ĐNA,v.v
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC
AN NINH - QUỐC PHÒNG GIỮA ASEAN VÀ MỸ TỪ SAU NĂM 1991
2.1. Bối cảnh quốc tế
2.1.1. Sự thay đổi môi trường an ninh trên thế giới và khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương
Chiến tranh Lạnh kết thúc đã đưa nước Mỹ trở thành một siêu cường
mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, bước vào những thập niên đầu của thế kỷ
XXI, đặc biệt sau sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố năm 2001 đã làm
cho uy tín và vị thế của Mỹ bị suy giảm nghiêm trọng. Ngoài ra, sự trỗi dậy
của các cường quốc như Nhật Bản, Tây Âu, Nga và đặc biệt là Trung Quốc
đã thách thức tham vọng bá quyền của Mỹ và trật tự thế giới đơn cực do

Mỹ lãnh đạo.
Cục diện thế giới mới mặc dù đã đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt
trên toàn cầu, như các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
can thiệp vũ trang, lật đổ và khủng bố vẫn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Các mâu thuẫn trong thiết lập trật tự thế giới mới, mâu thuẫn về lợi ích dân
tộc, về hệ tư tưởng, chủ nghĩa khủng bố cực đoan, tội phạm xuyên quốc gia,
v.v. ngày một diễn biến phức tạp hơn nhất là sau năm 2001. Điều này đòi
hỏi các quốc gia, khu vực phải điều chỉnh chiến lược cũng như đưa ra chính
sách đối nội và đối ngoại làm sao cho phù hợp nhằm tạo cho mình một vị
thế thuận lợi trong quan hệ quốc tế.
Với khu vực CA - TBD, Chiến tranh Lạnh kết thúc đã mở ra cơ hội
cho các quốc gia châu Á tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
7


quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, khu vực CA – TBD vẫn
còn tồn tại nhiều thách thức về an ninh như:
Khu vực CA - TBD trở thành địa bàn cạnh tranh quyết liệt giữa các
nước lớn trong giành quyền lãnh đạo khu vực, điều này đã làm thay đổi cấu
trúc an ninh và làm gia tăng những thách thức an ninh mới ở châu Á.
CA - TBD là nơi tồn tại nhiều "điểm nóng", nhiều mâu thuẫn, tranh chấp
tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến đối đầu trực diện và xung đột vũ trang như: vấn đề
Đài Loan, vũ khí hạt nhân của Triều, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, biển
Hoa Đông,v.v.
Tình trạng "thiếu hụt niềm tin", tâm lý nghi kỵ nhau đã đẩy nhiều quốc
gia vào cuộc chạy đua vũ trang.
CA – TBD đối mặt với nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống như
khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng,
dịch bệnh,v.v.
2.1.2. Một số thách thức an ninh ở Đông Nam Á

Thời gian quan ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực
hợp tác chính trị, an ninh – quốc phòng, nhưng từ cuối thập niên 90 của thế
kỷ XX và bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, ASEAN phải đối mặt
với nhiều thách thức về an ninh - quốc phòng đó là:
2.1.2.1. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ
Tranh chấp lãnh hải, lãnh thổ lớn nhất ở khu vực ĐNA hiện nay là
tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Quốc với một số nước
thành viên ASEAN.
Ngoài ra, các nước thành viên ASEAN cũng tồn tại tranh chấp lãnh
thổ như: Thái Lan và Campuchia liên quan đến khu vực ngôi đền Preah
Vihear; Thái Lan với Myanma liên quan đến chủ quyền tại hai con sông
Moei và Salween; Philippines và Malaysia ở bang Sabah,v.v.
Các tranh chấp này đã diễn ra trong thời gian dài, mặc dù có sự tham
gia của Tòa án Công lý quốc tế, nỗ lực của ASEAN và các bên liên quan
nhưng mâu thuẫn vẫn chưa được giải quyết mà còn diễn biến phức tạp hơn,
nguy cơ xung đột giữa các bên ngày tăng cao.
2.1.2.2. Vấn đề chạy đua vũ trang
Nhằm đối phó với những thách thức an ninh mới, hầu hết các quốc gia
ĐNA đã gia tăng chi ngân sách quốc phòng. Các nước lớn tăng cường cạnh
tranh và can dự vào khu vực. Mỹ thực thi chính sách "xoay trục", Trung Quốc
tăng cường ngân sách quốc phòng, phát triển lực lượng hải quân, không quân
và tên lửa chiến lược. Chính những điều trên đã khiến ĐNA trở thành "vùng
trũng" trong vấn đề an ninh khu vực, là "thùng thuốc súng" có thể bùng phát
bất cứ lúc nào nếu không được kiểm soát tốt.
2.1.2.3. Vấn đề xung đột sắc tộc - tôn giáo, bạo lực và khủng bố
Vấn đề xung đột sắc tộc - tôn giáo: Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc,
ĐNA bùng phát trở lại những điểm nóng về xung đột tôn giáo, sắc tộc, điển
8



hình là phong trào đòi ly khai ở Indonesia, phong trào Hồi giáo ở miền Nam
Philippine và 3 tỉnh miền Nam Thái Lan, v.v.
Vấn đề bạo lực và khủng bố: ĐNA với gần 300 triệu tín đồ Hồi giáo,
hoạt động khủng bố ở ĐNA thường lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để
kích động bạo lực và tư tưởng cực đoan; Các nhóm vũ trang, tổ chức khủng
bố ở ĐNA thường dùng bạo lực, khủng bố để thực hiện mục đích chính trị;
Chủ nghĩa khủng bố ở ĐNA thời gian qua đã được quốc tế hóa dưới sự dẫn
dắt của IS; Các nhóm khủng bố ở ĐNA có xu hướng phối hợp bắt tay nhau.
2.1.2.4. Vấn đề cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc
Trong nhiều thập kỷ qua, ĐNA luôn là địa bàn cạnh tranh giữa các
nước lớn, trong đó cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc là quyết liệt nhất trên cả ba
khía cạnh là kinh tế, chính trị và an ninh - quân sự. Bên cạnh những mặt
tích cực, thì cũng đặt ra nhiều thách thức an ninh cho ASEAN.
Một là, nguy cơ từ tham vọng kiểm soát không gian địa chính trị của
các nước lớn đặt ra nhiều vấn đề đối với an ninh khu vực.
Hai là, việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường can dự vào khu vực làm
cho tình hình an ninh ở ĐNA ngày một phức tạp hơn, đẩy đẩy cuộc chạy
đua vũ trang ở ĐNA leo thang.
Ba là, Mỹ và Trung Quốc ttăng cường lôi kéo, tập hợp lực lượng đã
đẩy các nước ĐNA đứng trước những lựa chọn khó xử.
Bốn là, ASEAN đứng trước nguy cơ bị hủy hoại nếu các nước lớn
không dừng các thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo, chia rẽ gây mất đoàn kết nội
bộ.
2.1.2.5. Vấn đề ô nhiễm môi trường
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở ĐNA thời gian qua diễn ra ở cả 5
nhóm vấn đề là ô nhiễm không khí, nguồn nước, môi trường đất, vùng Biển
Đông và trao đổi thương mại nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nguyên nhân
là:
Thứ nhất, ĐNA là khu vực có tỷ lệ tăng dân số và đô thị hóa cao dẫn
tới nhu cầu về nguyên vật liệu, lượng khí thải, nước thải, rác thải tăng cao

trong khi khả năng xử lý chất thải còn hạn chế.
Thứ hai, vì mục tiêu phát triển kinh tế, đa phần các quốc gia ĐNA dựa
vào khai thác các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên một cách quá mức.
Thứ ba, vấn đề biến đổi khí hậu gây ra những hệ lụy môi trường to lớn
cho khu vực ĐNA.
Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu là nguyên nhân đẩy một số
quốc gia ĐNA đứng trước tình trạng xung đột như:
Nguy cơ xung đột liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn nước sông
Mêkông: Việc Trung Quốc sử dụng chính sách "ngoại giao nước" và các
hoạt động đầu tư tại Lào và Campuchia để gây sức ép về chính trị với các
quốc gia là một thách thức đáng quan ngại.
9


Vấn đề ô nhiễm môi trường biển và tranh chấp tài nguyên trên biển
Đông: Các hoạt động khai thác tài nguyên biển quá mức, việc xả thải và
tình trạng gia tăng tranh chấp lãnh hải, lãnh thổ trên Biển Đông, Trung
Quốc bồi đắp các đảo nhân tạo, quân sự hóa Biển Đông phi pháp,v.v. là
nguy cơ tiềm ẩn đẩy khu vực vào các cuộc tranh chấp có thể dẫn tới xung
đột vũ trang.
Như vậy, sự nổi lên của các vấn đề an ninh khu vực đã và đang tác
động sâu sắc tới ASEAN và các nước thành viên, đẩy ASEAN cuốn vào
"vùng trũng" của an ninh.
2.2. Khái quát quan hệ hợp tác ASEAN - Mỹ trước năm 1991
2.2.1. Giai đoạn từ 1967 đến 1976
Phía Mỹ muốn lôi kéo ASEAN vào quỹ đạo của mình, biến ASEAN
thành tổ chức phụ thuộc và chịu sự chi phối của Mỹ trong cuộc chiến tại
Đông Dương và thiết lập vành đai "chống cộng" ở ĐNA.
ASEAN là những nước nhỏ, yếu về kinh tế nên muốn dựa vào ô an ninh
và nhận sự giúp đỡ từ Mỹ nên ủng hộ chính sách của Mỹ ở ĐNA.

Tóm lại, trong 10 năm đầu thành lâp ASEAN, quan hệ ASEAN - Mỹ
gắn bó khá mật thiết trên cơ sở toan tính lợi ích của các bên.
2.2.2. Giai đoạn từ 1977 đến 1991
Sau khi hai bên xác lập quan hệ đối thoại năm 1977, quan hệ ASEAN
- Mỹ tiếp tục phát triển trên các mặt kinh tế, chính trị - quân sự và ngoại
giao. Mỹ tăng cường các hoạt động viện trợ kinh tế, quân sự nhằm lôi kéo
ASEAN. Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối, nhận thấy sự khác biệt trong giải
quyết vấn đề Campuchia, ASEAN đã duy trì thái độ độc lập tương đối với
Mỹ.
2.3. Nhu cầu hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ từ
sau năm 1991
2.3.1. Nhu cầu và lợi ích của ASEAN khi hợp tác vơi Mỹ
Chiến tranh Lạnh kết thúc, ASEAN phải đối mặt với hàng "núi" thách
thức an ninh mới, đòi hỏi ASEAN phải tăng cường mở rộng hợp tác với các
nước bên ngoài, nhất là với Mỹ bởi: Mỹ là nước cung cấp “dịch vụ an ninh
công cộng” của thế giới.
Về an ninh - quốc phòng: Lực lượng quân sự Mỹ đóng vai trò then
chốt trong duy trì "nền hòa bình lâu dài" ở châu Á. Việc ASEAN tăng
cường hợp tác an ninh với Mỹ sẽ cân bằng quan hệ với Trung Quốc, hóa
giải những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ở ĐNA.
Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao: ASEAN đã tranh thủ được sự
ủng hộ của Mỹ trong quá trình mở rộng tổ chức, xây dựng cộng đồng và
nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

10


2.3.2. Toan tính lợi ích và chính sách của Mỹ với ASEAN từ sau
Chiến tranh Lạnh
2.3.2.1. Lợi ích của Mỹ trong quan hệ với ASEAN

Mỹ có lợi ích quốc gia gắn chặt với ASEAN và khu vực ĐNA.
Về kinh tế: ĐNA cũng như ASEAN là thị trường đầu tư, tiêu thụ hàng
hóa lớn của Mỹ; là khu vực mang lại nguồn lợi khổng lồ cho ngành công
nghiệp, công nghệ cao của Mỹ.
Về chính trị - an ninh: ASEAN với nòng cốt là các quốc gia ĐNA nằm
trên vị trí địa chiến lược quan trọng ở khu vực và trên thế giới, nơi có Biển
Đông – tuyến đường hàng hải quan trọng và các nước đồng minh, đối tác
thân thiết của Mỹ.
2.3.2.2. Chính sách của Mỹ với ASEAN
Quan điểm của Chính quyền Bill Clinton với ASEAN (1993 - 2001)
Mặc dù tầm quan trọng không bằng khu vực Đông Á, nhưng ASEAN
và khu vực ĐNA cũng dành được sự ưu tiên trong chính sách của chính
quyền Tổng thống Clinton ở hai khía cạnh: Một là, ủng hộ ASEAN thiết lập
cơ chế an ninh đa phương (ARF), mở rộng thành viên; ủng hộ lập trường
của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Hai là, coi trọng mối quan hệ với các
nước thành viên ASEAN, đặc biệt là các đồng minh, đối tác trên cơ sở mô
hình an ninh "trục và nan hoa".
Quan điểm của chính quyền G.W.Bush giai đoạn (2001- 2008)
Đây là giai đoạn mà chính sách chính trị - an ninh của Mỹ với ASEAN
chịu tác động bởi ba nhân tố: (1) Nước Mỹ bị tấn công khủng bố ngày
11/09/2001; (2) Mỹ có nhận thức mới về sự trỗi dậy của Trung Quốc; (3)
ASEAN có vai trò ngày càng lớn trong các thiết chế an ninh khu vực. Vì
vậy, Mỹ đã xác định ĐNA là "mặt trận thứ hai chống khủng bố" và thắt
chặt quan hệ với ASEAN thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác chống
khủng bố Quốc tế (08/2002), Tuyên bố chung về Tầm nhìn về thúc đẩy
quan hệ Mỹ - ASEAN (2005).
ASEAN trong chiến lược "Quay trở lại châu Á" của Chính quyền
Obama (2009 - 2015)
Chính quyền Tổng thống Mỹ Barack Obama trong chính sách “xoay
trục” sang CA - TBD xác định khu vực ĐNA là trọng tâm, mắt xích quan

trọng ở CA – TBD và thắt chặt, tăng cường quan hệ với ASEAN và coi
ASEAN là "đối tác thiết yếu", và giữ vai trò trung tâm trong "cấu trúc khu
vực mới". Phía Mỹ nhận định: "Trong số các tổ chức đan xen nhau ngày
càng tăng về số lượng trong khu vực, có lẽ tổ chức quan trọng nhất là
ASEAN", và "Mỹ quay trở lại sự tập trung với ASEAN".
Tiểu kết chương 2
Một là, sau Chiến tranh Lạnh, tình hình chính trị, an ninh ở khu vực
CA - TBD và ĐNA có những chuyển biến mau chóng, bên cạnh những
11


thuận lợi thì ASEAN cũng phải đối diện với rất nhiều thách thức mới về an
ninh khó giải quyết.
Hai là, ASEAN và Mỹ có lịch sử quan hệ gắn bó mật thiết trong nhiều
vấn đề.
Ba là, bước vào thập niên đầu thế kỷ XXI, trước những cơ hội và thách
thức mới, ASEAN và Mỹ đều có mục tiêu phát triển riêng của mình nên đã
tăng cường hợp tác an ninh với nhau.
Chương 3
THỰC TRẠNG HỢP TÁC AN NINH - QUỐC PHÒNG GIỮA
ASEAN VÀ MỸ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Cơ chế hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
3.1.1. Tiến trình xây dựng thể chế
3.1.1.1. Giai đoạn 1991 - 2000
Phía ASEAN: Luôn đánh giá cao vai trò của Mỹ và phát triển quan hệ
với đối tác này trên tất cả các mặt nhất là về chính trị và an ninh.
Về phía Mỹ: Sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô tan rã, Mỹ
không còn bị ám ảnh và lo sợ về chủ nghĩa cộng sản, Tổng thống G.H.W.
Bush đã không xem ASEAN là vốn quý địa chính trị có giá trị nữa, vị thế của
ASEAN vì thế bị suy giảm nghiêm trọng.

Tiến trình xây dựng thể chế chính trị, an ninh giữa ASEAN và Mỹ giai
đoạn này như sau:
Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng: Mỹ duy trì sự hiện diện quân sự
nhất định ở nhiều nước ĐNA thông qua thỏa thuận, cam kết với các nước
thành viên ASEAN. Trong hợp tác ASEAN, Mỹ ủng hộ lập trường, quan
điểm của ASEAN trong Tuyên bố ASEAN về Biển Đông (1992) và kêu gọi
giải quyết vấn đề một cách hòa bình. Quốc hội Mỹ ra tuyên bố "quyền đi lại
tự do trên Biển Đông và đó là lợi ích quốc gia của Mỹ" (3/1995) và Bộ
Ngoại giao tuyên bố "Mỹ có lợi ích lâu dài trong việc duy trì hòa bình và ổn
định ở Biển Đông. Duy trì sự tự do đi lại của tàu bè là lợi ích cơ bản của
Mỹ. Việc đi lại không bị ngăn cản của tất cả tàu bè và máy bay trên biển
Nam Trung Hoa là cần thiết cho hòa bình và phồn vinh của toàn khu vực
CA - TBD" (5/1995).
Trong chính trị ngoại giao: Nhằm duy trì sự lãnh đạo của mình ở ĐNA,
Mỹ tiếp tục giữ quan hệ với ASEAN thông qua các cơ chế đối thoại của Hội
nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM), Hội nghị sau Bộ trưởng ASEAN (PMC), Đối
thoại ASEAN - Mỹ, đặc biệt Mỹ đã không chỉ tích cực ủng hộ ASEAN thành
lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
Với ASEAN, một mặt tiến hành đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
nhằm tránh lệ thuộc vào các nước lớn, mặt khác ASEAN duy trì tốt đẹp quan
hệ với Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga. Tuy nhiên, quan hệ ASEAN – Mỹ giai
12


đoạn này vấp phải nhiều thử thách nhất là trong vấn đề dân chủ, nhân quyền
khi Mỹ phản đối ASEAN kết nạp Myanmar là thành viên khối,v.v.
Tóm lại, tiến triển quan hệ an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
giai đoạn 1991 - 2000 được duy trì thông quan nhiều lĩnh vực, tuy nhiên, việc
Mỹ rút quân khỏi Philippines đã tạo ra "khoảng trống quyền lực" ở ĐNA,
việc Mỹ bỏ mặc nhiều nước đồng minh trong cuộc khủng hoảng tài chính

năm 1997 và can thiệp vào nội bộ ASEAN khiến cho uy tín và ảnh hưởng của
Mỹ ở khu vực bị suy giảm nghiêm trọng.
3.1.1.2. Giai đoạn 2001 - 2008
Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ ASEAN – Mỹ có
những dấu hiệu chuyển biến mới, có ý kiến cho rằng đây là thời kỳ quan hệ
"quay trở lại quỹ đạo" vốn có của nó. Và yếu tố thúc đẩy ASEAN và Mỹ xích
lại gần nhau hơn bắt nguồn từ các nhân tố cơ bản như: nước Mỹ bị khủng bố
năm 2001 và Mỹ cần đồng minh ủng hộ trong cuộc chiến chống chủ nghĩa
khủng bố trên thế giới; sự trỗi dậy của Trung Quốc và nhu cầu khôi phục vị
thế của Mỹ ở khu vực,v.v.
Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng:
Thứ nhất, điểm nổi bật nhất trong tiến trình xây dựng thể chế hợp tác
quốc phòng - an ninh giữa ASEAN và Mỹ giai đoạn này là hợp tác trong lĩnh
vực chống khủng bố ở cả phương diện song phương lẫn đa phương.
Thứ hai, trước những thách thức về an ninh như tranh chấp lãnh thổ,
lãnh hải, vấn đề cướp biển, buôn bán vũ khí trái phép trên biển, ASEAN và
Mỹ đã đẩy mạnh triển khai hợp tác trong giải quyết vấn đề Biển Đông và
thực thi an ninh, an toàn hàng hải với nhiều sáng kiến quan trọng.
Trong chính trị - ngoại giao: Hai bên đã tìm thấy những điểm chung
khi ký: Tuyên bố Tầm nhìn chung về tăng cường quan hệ đối tác ASEAN Mỹ (17/11/2005), thông qua Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố Tầm
nhìn chung quan hệ đối tác tăng cường ASEAN - Mỹ, hai bên đã nhất trí
tăng cường nhận thức về Hiệp ước hữu nghị và hợp tác ở ĐNA (TAC),
Thượng viện Mỹ đã phê chuẩn Nghị quyết đề cao 30 năm quan hệ Mỹ ASEAN.
Nhìn chung, tiến trình xây dựng thể chế hợp tác chính trị, an ninh
ASEAN và Mỹ giai đoạn này có nhiều chuyển biến tích cực hơn giai đoạn
trước.
3.1.1.3. Giai đoạn 2009 - 2015
Đây là giai đoạn quan hệ ASEAN - Mỹ phát triển nồng ấm nhất kể từ
sau Chiến tranh Lạnh. Hợp tác an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
diễn ra trong bối cảnh ASEAN nỗ lực thực hiện mục tiêu xây dựng cộng

đồng ASEAN vào năm 2015, khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008, xử lý thách thức trong vấn đề Biển Đông, Mỹ triển khai
chính sách "Xoay Trục" sang CA – TBD. Xét một cách tổng thể, hai bên đã
13


thiết lập quan hệ ở một tầm cao mới, hợp tác toàn diện và theo chiều sâu
với nhiều điểm mới:
Trong quan hệ với ASEAN: Đây là giai đoạn mà Mỹ rất coi trọng vai
trò của ASEAN, hợp tác với ASEAN sẽ là "chìa khóa để Mỹ đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới". Điểm nhấn quan hệ ASEAN - Mỹ giai
đoạn này là: Mỹ ký tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ĐNA (TAC)
ngày 27/07/2009; ký văn kiện Kế hoạch Hành động nhằm tăng cường Quan
hệ Đối tác ASEAN - Mỹ giai đoạn 2011 - 2015 vì Hòa bình và Thịnh vương;
Mỹ tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng
(ADMM+) lần thứ nhất (2010); Mỹ là thành viên của Hội nghị cấp cao Đông Á
(EAS) (2010); hai bên đã nâng cấp quan hệ thông qua Tuyên bố chung về
Quan hệ Đối tác Chiến lược ASEAN - Mỹ ( 2015).
Ngoài ra, Mỹ còn tích cực tham gia vào Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),
Đối thoại ASEAN - Mỹ, Ủy ban hợp tác chung (JCC), Hội nghị Cấp Bộ trưởng
ASEAN - Mỹ (MPC), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – Mỹ,v.v.
Trong quan hệ song phương với các nước thành viên ASEAN: Mỹ xem
trọng mối quan hệ song phương với các đồng minh, đối tác và chia thành 03
cấp độ quan hệ là: (1) Nhóm đồng minh thân thiết gồm Thái Lan và
Philippine; (2) Nhóm đối tác chiến lược là Singapore; (3) Nhóm đối tác
chiến lược tiềm năng là Indonesia, Malaysia và Việt Nam.
Nhìn chung, đây là giai đoạn quan hệ ASEAN và Mỹ nồng ấm trở lại,
hợp tác an ninh – quốc phòng là nét nổi trội trong quan hệ giữa ASEAN và
Mỹ.
3.1.2. Cơ chế hợp tác an ninh - quốc phòng đa phương của ASEAN và

sự tham gia của Mỹ
3.1.2.1. Trong Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)
Vai trò của ASEAN trong ARF: ASEAN giữ vai trò sáng lập ARF, các
nước lớn trong ARF buộc phải chấp nhận vai trò trung tâm của ASEAN.
Ý đồ xuyên suốt của Mỹ đối với ARF: Mỹ tham gia ARF và sử dụng
Diễn đàn này như một công cụ để duy trì lợi ích chiến lược ở CA - TBD,
củng cố thế đứng chân ở ĐNA và thực hiện các mục tiêu chiến lược tại khu
vực với trọng tâm là bao vây, kiềm chế Trung Quốc
Đóng góp của Mỹ trong ARF:
Thứ nhất, ARF đã trở thành một kênh để Mỹ can dự và thúc đẩy giải
quyết các vấn đề an ninh khu vực theo ý đồ của Mỹ.
Thứ hai, Mỹ đã thành công trong việc đề nghị các quan chức quân sự
được tham gia vào các cuộc gặp cấp Bộ trưởng của ARF kể từ năm 1997.
Thứ ba, thông qua ARF, Mỹ đã lôi kéo và gây áp lực buộc Trung
Quốc tham gia có trách nhiệm vào những vấn đề an ninh của khu vực trong
đó có vấn đề Biển Đông.
14


Thứ tư, thông qua ARF, Mỹ đã thúc đẩy hợp tác an ninh với các nước
trong khu vực thông qua hợp tác chống khủng bố, tập trận quân sự, trao đổi
đào tạo,v.v.
3.1.2.2. Trong Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS)
Ngày 14/12/2005 tại Malaysia, Hội nghị cấp cao Đông Á chính thức ra
đời với 16 quốc gia thành viên gồm 10 nước thành viên ASEAN, 03 nước
Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và sự có mặt của cả Ấn Độ,
Australia và New Dilan.
Nhận thấy việc nếu không tham gia vào EAS Mỹ có nguy cơ bị gạt ra
ngoài lề khu vực. Vì vậy, ngày 27/9/2009, tại Thái Lan, Mỹ ký tham gia Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác ĐNA (TAC) điều kiện để trở thành thành viên của

EAS. Và năm 2010, Mỹ cùng với Nga trở thành thành viên của EAS.
Về phía ASEAN: sự có mặt của Mỹ giúp ASEAN sẽ nâng cao được vị
thế và tầm ảnh hưởng của mình, giữ được vai trò trung tâm ở khu vực.
Về phía Mỹ: Mỹ sẽ có tiếng nói trong EAS cũng như nhiều vấn đề
quan trọng của khu vực, điều mà trước đó Mỹ bị "phớt lờ".
3.1.2.3. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở
rộng (ADMM+)
Về sự tham gia của Mỹ vào cơ chế ADMM+: Ngày từ khi thành lập,
chính quyền của Tổng thống Obama đã tích cực hưởng ứng khuôn khổ hợp
tác này của ASEAN và có nhiều đóng góp xây dựng môi trường an ninh
khu vực như: tham gia nhóm chống khủng bố (CT) do Indonesia và Mỹ
đồng chủ trì; Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa kết hợp quân y
(HADR/MM); Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đã tổ chức hội thảo với chủ đề
Tăng cường nhận thức lĩnh vực an ninh biển tại khu vực; giúp đỡ các thành
viên về đào tạo nhân lực, hỗ trợ trang bị, xây dựng lực lượng; Mỹ phối hợp
cùng nhiều nước ASEAN phản đối hành động đơn phương của Trung Quốc
trên Biển Đông,v.v.
ADMM+ đã trở thành kênh đối thoại an ninh quân sự cấp cao nhất ở
khu vực, góp phần quan trọng trong duy trì hòa bình, an ninh và thịnh
vượng ở ĐNA.
3.1.2.4. Trong cơ chế Hội nghị Cấp cao ASEAN - Mỹ (ASEAN +1)
Sự tham gia của Mỹ vào ASEAN+1: Mỹ có quan hệ với ASEAN từ rất
sớm, tuy nhiên Mỹ không muốn bị trói buộc vào các cơ chế đa phương của
ASEAN mà coi trọng các liên minh song phương hơn, tuy nhiên quan điểm
này đã thay đổi theo thời gian.
Nội dung hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ trong ASEAN+1:
Hợp tác chính trị, an ninh - quốc phòng là một nội dung quan trọng trong
quan hệ ASEAN - Mỹ. Không chỉ hợp tác trong chống khủng bố, Mỹ còn là
nhà tài trợ kinh phí mua trang thiết bị, làm cố vấn điều hành và trực tiếp huấn
luyện nghiệp vụ cho nhân viên an ninh của các nước ASEAN. Mỹ còn giúp

đỡ ASEAN và các nước thành viên trong phòng chống tội phạm xuyên quốc
15


gia; phòng chống ma túy, cứu hộ, phòng chống dịch bệnh, thiên tai; chia sẻ
thông tin tình báo và thông tin về tài chính của các tổ chức khủng bố; hỗ trợ
nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật; viện trợ vì mục đích an
ninh và quân sự dưới các hình thức: huấn luyện, đào tạo nhân viên kỹ thuật;
rà phá bom mìn,v.v.
3.2. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ trên một số
vấn đề chủ yếu
3.2.1. Hợp tác ASEAN - Mỹ trong vấn đề chống khủng bố
Sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố đã làm thay đổi mau chóng
quan hệ ASEAN - Mỹ, khu vực ĐNA ngay sau đó được xác định là "mặt
trận thứ hai" trong cuộc chiến chống khủng bố
Một là, trong hợp tác với ASEAN, hai bên đã ký "Tuyên bố chung về
hợp tác tấn công chủ nghĩa khủng bố quốc tế" với mục tiêu hợp tác là để
ngăn chặn, làm gián đoạn và chống lại chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Mỹ và
ASEAN đã nhất trí áp dụng Kế hoạch hợp tác ASEAN nhằm tăng cường quan
hệ Mỹ - ASEAN.
Hai là, Mỹ đẩy mạnh hợp tác chống khủng bố với một số nước
ASEAN có nguy cơ nghĩa khủng bố cao như: Philippine; Thái Lan;
Singapore; Indonesia,v.v.
Ba là, lợi dụng danh nghĩa chống khủng bố, Mỹ đã từng bước triển khai
lực lượng, bố trí vũ khí trang bị hiện đại ở ĐNA.
3.2.2. Hợp tác ASEAN - Mỹ trong vấn đề tranh chấp Biển Đông và
an ninh, an toàn hàng hải
3.2.2.1. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
Biển Đông có vị trí địa - chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị
và quân sự, ASEAN và Mỹ đều có lợi ích chiến lược trên khu vực Biển

Đông.
Giai đoạn từ 1991 - 2001: Sau Chiến tranh Lạnh, ASEAN và Mỹ đã
thay đổi quan điểm trong vấn đề Biển Đông. Phía ASEAN từ "không quan
tâm" thì đã "lo ngại, quan tâm nhiều hơn"; Phía Mỹ từ "không can thiệp",
thì "bắt đầu tham gia sâu" vào vấn đề Biển Đông.
Giai đoạn từ 2001 đến 2008: Mỹ tiếp tục ủng hộ quan điểm của
ASEAN về tình hình Biển Đông; chuyển chính sách từ đối phó, đề phòng tiến
tới ngăn chặn và cô lập đối với Trung Quốc; ASEAN và Trung Quốc đạt
được thỏa thuận về Tuyên bố ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC).
Mỹ tích cực mở rộng hợp tác quân sự và an ninh với ASEAN và các nước
thành viên thông qua các cơ chế như ASEAN +1, Diễn đàn khu vực ARF, v.v.
Mỹ ủng hộ quan điểm giải quyết tranh chấp của ASEAN trên Biển Đông
bằng biện pháp hòa bình thông qua tiến trình ngoại giao và tuân thủ luật pháp
quốc tế.
16


Trong quan hệ với các đồng minh, đối tác, Mỹ đã chuyển từ "ngấm
ngầm" bênh vực sang công khai giúp đỡ các nước có tranh chấp với Trung
Quốc bằng viện trợ quân sự, giáo dục đào tạo,v.v.
Giai đoạn từ 2009 đến 2015: Trước những hành động gia tăng căng
thẳng của Trung Quốc trên Biển Đông, ngay sau khi lên cầm quyền
(01/2009), chính quyền Tổng thống Obama đã theo đuổi chiến lược Biển
Đông dựa trên 5 trụ cột mới và thi hành chính sách "Xoay Trục" sang châu
Á.
Chính quyền Obama đã tuyên bố Mỹ coi ASEAN là đầu mối cho các
vấn đề khu vực; ủng hộ các cơ chế hợp tác an ninh của ASEAN trong đó có
vấn đề Biển Đông; ủng hộ đa phương hóa, quốc tế hóa tranh chấp trên Biển
Đông, bác bỏ các yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc.
Tháng 05/2015, trong cuộc đối thoại Mỹ - ASEAN lần thứ 28, hai bên

khẳng định cam kết phối hợp triển khai những biện pháp nhằm giải quyết
những vấn đề toàn cầu, khu vực trong đó đặc biệt là những diễn biến căng
thẳng gần đây ở khu vực Biển Đông.
Ngoài phát triển quan hệ với ASEAN, Mỹ tăng cường thắt chặt mối
quan hệ với các nước đồng minh ở trong và ngoài khu vực thông qua các thỏa
ước an ninh và viện trợ quân sự.
3.2.2.2. Hợp tác an ninh, an toàn và tự do hàng hải
Hợp tác an ninh, an toàn hàng hải là nội dung quan trọng giữa ASEAN
và Mỹ:
Một là, hai bên cùng phối hợp, ủng hộ nhau và xây dựng những cơ chế
hợp tác đa phương quan trọng như EAS, ARF, ADMM+, Hội nghị Tư lệnh
Hải quân các nước ASEAN (ANCM),v.v.
Hai là, hai bên tăng cường trao đổi, mua bán, nâng cấp vũ khí trang bị
hiện đại mà trọng tâm là nâng cao năng lực kiểm soát an ninh hàng hải và
thực thi pháp luật trên biển.
Ba là, hai bên tăng cường hợp tác đấu tranh chống hải tặc và khủng bố
trên biển.
Bốn là, hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, tổ chức tuần tra, thăm
viếng, diễn tập quân sự và cứu nạn trên biển.
Ngoài những nội dung hợp tác trên, Mỹ đẩy mạnh thắt chặt quan hệ
với các đồng minh, đối tác ở khu vực trong hoạt động hải quân và bảo đảm
an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
3.2.3. Hợp tác ASEAN - Mỹ trong vấn đề môi trường và biến đổi khí
hậu
Mỹ là đối tác bên ngoài giúp đỡ ASEAN có hiệu quả nhất trên một số
nội dung sau:
Một là, hai bên đã xây dựng hệ thống cơ sở pháp lý trong quá trình triển
khai hợp tác.
17



Hai là, hợp tác môi trường hai bên tập trung vào một số vấn đề trọng
điểm phức tạp xuyên biên giới như: Sáng kiến hạ lưu sông Mê Kông (LMI);
Lĩnh vực quản lý thiên tai, biến đổi khí hậu.
Ba là, trong quan hệ với một số nước thành viên ASEAN, thông qua Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Mỹ đưa ra một số chương trình hợp
tác dựa trên những quan tâm của Mỹ.
3.3. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa một số nước thành viên
ASEAN và Mỹ
3.3.1. Hợp tác an ninh – quốc phòng Thái Lan - Mỹ
Một là, hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực chống chủ nghĩa
khủng bố.
Hai là, hai bên tăng cường các hoạt động tập trận quân sự chung.
Ba là, Mỹ tìm cách tăng cường triển khai căn cứ quân sự trên lãnh thổ
Thái Lan.
Bốn là, hai bên tăng cường viện trợ quân sự, mua bán vũ khí.
3.3.2. Hợp tác an ninh – quốc phòng Philippine - Mỹ
Một là, hai bên tăng cường hợp tác trong vấn đề chống chủ nghĩa
khủng bố.
Hai là, Mỹ tìm cách tăng cường sự hiện diện quân sự và xây dựng căn
cứ ở Philippine.
Ba là, hai bên thường xuyên tổ chức thăm viếng và tập trận quân sự
chung.
Bốn là, hai bên tăng cường viện trợ và mua bán vũ khí.
Năm là, hoạt động hợp tác quân sự Philippine - Mỹ chủ yếu tập trung
vào nâng cao năng lực kiểm soát và ứng phó với những thách thức an ninh
trên Biển Đông.
3.3.3. Hợp tác an ninh – quốc phòng Singapore - Mỹ
Một là, hai bên đã xây dựng cơ chế hợp tác dựa trên những thỏa ước an
ninh quan trọng.

Hai là, trên cơ sở các thỏa ước, Mỹ đã từng bước xây dựng căn cứ và
triển khai quân đội hoạt động trên lãnh thổ của Singapore.
Ba là, hai bên đẩy mạnh hợp tác huấn luyện đào tạo, mua bán vũ khí
và tăng cường tập trận quân sự trên biển.
3.3.4. Hợp tác an ninh – quốc phòng Indonesia - Mỹ
Một là, hai bên đã tăng cường hợp tác trong lĩnh vực chống khủng bố.
Hai là, hai bên tăng cường hợp tác thông qua hoạt động mua bán vũ khí.
Ba là, hai bên tăng cường hợp tác thông qua chương trình hỗ trợ tài
chính, trao đổi,v.v.
3.3.5. Hợp tác an ninh – quốc phòng Việt Nam – Mỹ
Một là, hai bên thông qua hoạt động thăm viếng cấp cao, từng bước tăng
cường, nâng cấp quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng.
18


Hai là, hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ tập trung giải quyết những vấn đề
chiến tranh để lại như tìm kiếm quân nhân mất tích, hợp tác rà phá bom mìn
và vấn đề chất độc da cam/dioxin.
Ba là, hai bên tăng cường hợp tác trong các hoạt động viện trợ quân sự,
mua bán vũ khí và hỗ trợ đào tạo quân sự.
Tóm lại, bên cạnh việc hợp tác an ninh với ASEAN, Mỹ cũng tăng
cường hợp tác với một số nước thành viên ASEAN. Về cơ bản, chính sách
quốc phòng của Mỹ chủ yếu tập trung ở những nước có vị trí địa chiến lược
quan trọng liên quan đến khu vực Biển Đông và eo biển Malacca.
Tiểu kết chương 3
Quá trình thể chế hóa quan hệ an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và
Mỹ từ năm 1991 đến năm 2015 diễn ra ở nhiều lĩnh vực với nhiều nội dung
và hình thức khác nhau. Tuy có nhiều thăng trầm, nhưng quan hệ phát triển
theo chiều hướng tăng cường, xích lại gần nhau hơn và một trong những
nguyên nhân chính là xuất phát từ nhân tố Trung Quốc.

ASEAN và Mỹ trên cơ sở lợi ích của mình đã tăng cường hợp tác với
nhau, lĩnh vực an ninh - quốc phòng là một trọng tâm trong quan hệ
ASEAN - Mỹ.
Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ mặc dù đạt được
nhiều thành quả to lớn, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những thách thức
không hề nhỏ.
Chương 4
NHẬN XÉT HỢP TÁC AN NINH - QUỐC PHÒNG GIỮA ASEAN
VÀ MỸ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015
4.1. Đặc điểm hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
4.1.1. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ sau Chiến
tranh Lạnh phát triển theo xu hướng giai đoạn sau cao hơn giai đoạn
trước
Thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ an ninh - quốc phòng ASEAN
và Mỹ suy giảm khá nghiêm trọng so với giai đoạn trước, tuy nhiên, trong
thập niên đầu của thế kỷ XXI, quan hệ ASEAN - Mỹ đã khởi sắc trở lại sau
khi Mỹ bị tấn công khủng bố năm 2001. Quan hệ này tiếp tục phát triển mạnh
dưới thời Tổng thống Obama. Nhận thấy ASEAN có thể trở thành nền tảng
để chống lại những đòi hỏi chủ quyền không phù hợp của Trung Quốc trên
Biển Đông, Mỹ ngày càng coi trọng cơ chế hợp tác an ninh đa phương của
ASEAN.
4.1.2. Tiến triển quan hệ an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ
chịu sự tác động to lớn bởi nhân tố Trung Quốc
Lịch sử trên 50 năm hình thành và phát triển của ASEAN luôn chịu tác
động, ảnh hưởng từ các nước lớn trong đó có cả Mỹ và Trung Quốc.
19


Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc đã trở thành tâm điểm trong
nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, nó cũng là nguyên nhân gây tác động và

làm thay đổi nhiều cấu trúc quan hệ quốc tế trong đó có quan hệ ASEAN Mỹ.
Thứ nhất, lợi dụng việc Mỹ rút quân khỏi khu vực ĐNA, Trung Quốc đã
tăng cường quan hệ mọi mặt với ASEAN nhằm khỏa lấp "khoảng trống
quyền lực" do Mỹ để lại.
Thứ hai, việc Trung Quốc không ngừng tăng cường tiềm lực quân sự quốc phòng đã làm gia tăng sức ép lên Mỹ và các quốc gia ASEAN.
Thứ ba, Trung Quốc không ngừng đơn phương thực hiện mở rộng
"không gian sinh tồn" để gây sức ép về chủ quyền lãnh thổ lên các nước
láng giềng trong khu vực trong đó có các nước thuộc khối ASEAN và đồng
minh của Mỹ.
4.1.3. Hợp tác an ninh - quốc phòng là yếu tố nền tảng trong quan
hệ ASEAN - Mỹ nhưng Mỹ chưa có một chính sách dài hạn và ổn định
với ASEAN
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hợp tác quân sự là nét nổi bật trong quan hệ
ASEAN - Mỹ.
Thập niên đầu Chiến tranh Lạnh kết thúc, hợp tác an ninh ASEAN - Mỹ
bị suy giảm do nguy cơ đe dọa từ CNCS không còn, mặc dù chính quyền Bill
Clinton thực thi chính sách "cam kết và mở rộng", tích cực ủng hộ sự ra đời
của ARF và các cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN.
Tuy nhiên, xét tổng thể, chính sách an ninh – quốc phòng của Mỹ với
ASEAN về cơ bản chưa thực sự ổn định bởi:
Thứ nhất, ASEAN chưa có chính sách đối ngoại chung, còn lỏng lẻo
về mặt thể chế. Hợp tác an ninh – quốc phòng chủ yếu của từng nước
ASEAN với Mỹ.
Thứ hai, về mặt chiến lược, trong chính sách CA - TBD của mình, Mỹ
vẫn coi trọng khu vực Đông Bắc Á hơn là khu vực ĐNA.
Thứ ba, ASEAN chỉ giành được sự quan tâm của Mỹ khi Mỹ cần, khi
các lợi ích của Mỹ ở khu vực được đảm bảo, ngay lập tức Mỹ sẽ lãng quên
ASEAN.
Thứ tư, so với các đồng minh trong khu vực của Mỹ, Thái Lan và
Philippine không thể sáng với đồng minh Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia.

Thứ năm, chính sách của Mỹ ở ĐNA và châu Á cũng thiếu nhất quán
trong nhiều vấn đề.
4.1.4. Mỹ là quốc gia "bị lôi kéo" vào các cơ chế hợp tác an ninh đa
phương của ASEAN nhưng Mỹ cũng là nước "chủ động can dự" vào
khu vực
Thắt chặt quan hệ an ninh với Mỹ là một chủ trương quan trọng của
ASEAN, đặc biệt là từ thập niên đầu thế kỷ XXI.
20


Mặc dù Mỹ không thích các cơ chế an ninh đa phương và coi trọng cơ
chế tay đôi hơn nhưng các diễn đàn đa phương mà ASEAN tổ chức lại đáp
ứng những vấn đề Mỹ quan tâm như: chống phổ biến vũ khí hạt nhân,
chống buôn bán vũ khí hủy diệt, tình hình Biển Đông, hạt nhân Triều
Tiên,v.v. Chính sự hấp dẫn đó đã thu hút, lôi kéo và gắn kết Mỹ xích lại gần
ASEAN hơn.
Việc lôi kéo Mỹ tham gia vào các cơ chế hợp tác an ninh đa phương
của ASEAN đã giúp ASEAN đạt được nhiều mục tiêu quan trọng.
Tuy nhiên, không chỉ "bị lôi kéo", Mỹ cũng đã "chủ động can dự" tích
cực vào các vấn đề an ninh của ĐNA như tăng cường hợp tác chống khủng
bố, hợp tác thực thi an ninh, an toàn hàng hải và đặc biệt là vấn đề Biển
Đông.
Trong quan hệ với các nước đồng minh, đối tác thuộc khối ASEAN, Mỹ
không ngừng nâng cấp quan hệ thông qua các thỏa thuận, cam kết quân sự.
4.1.5. Hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ chủ yếu dựa trên
các tham vấn, ủng hộ, chia sẻ kinh nghiệm, tính pháp lý và hiệu quả
chưa cao
Hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN và Mỹ trong thời gian qua nhất
là từ thập niên đầu của thế kỷ XXI có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành quả, thì quan hệ giữa hai bên vẫn còn bộc lộ

nhiều hạn chế, các hoạt động hợp tác chủ yếu dựa trên sự tham vấn, ủng hộ,
giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm vì vậy tính pháp lý và hiệu quả hợp tác chưa
cao.
Nguyên nhân chính của những hạn chế là do Mỹ và ASEAN có khác
nhau về lợi ích và cách tiếp cận về an ninh.
4.2. Tác động của quan hệ an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ
4.2.1. Đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
4.2.1.1. Mặt tích cực
Một là, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ đã mở ra
cơ hội tăng cường hợp tác và khuyến khích xu hướng giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình.
Hai là, quan hệ an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ đã khuyến
khích các bên đưa ra những sáng kiến, cơ chế hợp tác an ninh có hiệu quả ở
khu vực châu Á.
Ba là, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ được tăng
cường là cơ sở thúc đẩy các cường quốc điều chỉnh chính sách an ninh ở
khu vực theo hướng cạnh tranh ảnh hưởng.
4.2.1.2. Mặt hạn chế
Một là, việc Mỹ tăng cường hợp tác an ninh – quốc phòng với
ASEAN cũng góp phần kích động các phản ứng đến từ Trung Quốc.
Hai là, các nước lớn tăng cường can dự, dính líu vào khu vực làm cho
cấu trúc an ninh, trật tự khu vực CA – TBD không ngừng biến động.
21


Ba là, ở phạm vi hẹp, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc
tộc – điểm Mỹ coi là còn yếu ở một số nước châu Á sẽ được Mỹ triệt để lợi
dụng để gây áp lực lên một số nước châu Á có xung đột lợi ích với Mỹ.
4.2.2. Đối với ASEAN
4.2.2.1. Mặt tích cực

Thứ nhất, phát triển quan hệ an ninh với Mỹ đã giúp ASEAN và các
nước thành viên tiếp cận các khí tài quân sự hiện đại, nâng cao thực lực quốc
phòng, xây dựng môi trường hòa bình ở khu vực.
Thứ hai, mặc dù quan hệ ASEAN - Mỹ trong thập niên cuối của thế kỷ
XX có suy giảm nhưng ngay sau đó hai bên đã dần tìm thấy những giá trị
chung để xích lại gần nhau hơn.
Thứ ba, việc Mỹ tăng cường giúp đỡ và ủng hộ ASEAN trong tiến
trình liên kết khu vực và hoàn thiện tổ chức đã giúp ASEAN trưởng thành
nhanh
4.2.2.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất, bên cạnh lợi ích chung trong vấn đề an ninh khu vực, giữa
Mỹ và ASEAN cũng có những lợi ích hết sức khác nhau.
Thứ hai, việc Mỹ tăng cường quan hệ với ASEAN và can dự sâu vào
nhiều vấn đề ở khu vực đã gây ra những khó xử nhất định cho ASEAN
trong quan hệ với Trung Quốc.
Thứ ba, lợi dụng lý do hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực
quốc phòng, chống lại âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, Mỹ
đã bán vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại cho các nước ĐNA, đẩy
cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực ngày một leo thang.
Bốn là, ASEAN và các nước thành viên tiếp tục phải đối mặt với nguy
cơ bị Mỹ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc
nội bộ của ASEAN.
Năm là, cả Mỹ và Trung Quốc đều đánh giá cao vai trò của ASEAN,
muốn sử dụng cơ chế an ninh của ASEAN phục vụ cho lợi ích của mình nên
hai quốc gia này luôn tìm mọi cách để phân hóa và gây sức ép lên ASEAN và
các nước thành viên trong một số vấn đề mang lợi ích chiến lược.
4.2.3. Đối với Mỹ
4.2.3.1. Mặt tích cực
Thứ nhất, trên lĩnh vực an ninh quân sự, mở rộng hợp tác song phương
và đa phương với ASEAN cũng như các nước thành viên ngoài việc giúp

Mỹ tăng cường sự hiện diện về quân sự ở ĐNA, còn giúp Mỹ can dự có
hiệu quả vào nhiều vấn đề nóng của khu vực như vấn đề Biển Đông.
Thứ hai, trên phương diện chính trị - ngoại giao, tăng cường hợp tác
với ASEAN giúp Mỹ thay đổi được tình hình từ việc để lại "khoảng trống
quyền lực" ở ĐNA sau Chiến tranh Lạnh đến chỗ "quay trở lại ĐNA", có
được vị trí đáng kể hơn ở khu vực.
22


Thứ ba, trên phương diện cạnh tranh chiến lược, tăng cường hợp tác
an ninh với ASEAN và các quốc gia thành viên đã phần nào giúp Mỹ thực
thi được chính sách "bao vây Trung Quốc", kiềm chế Trung Quốc mở rộng
ảnh hưởng ở ĐNA.
4.2.3.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất, ASEAN và Mỹ không gần gũi nhau về mặt địa lý, ĐNA
quan trọng nhưng chưa phải là ưu tiên của Mỹ như ở khu vực Đông Bắc Á
hay Trung Đông.
Thứ hai, cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung ở khu vực ASEAN ngày càng
phức tạp.
Thứ ba, hợp tác an ninh với ASEAN vừa mang đến những cơ hội nhưng
cũng đem lại những rủi ro cho Mỹ.
4.3. Một số khuyến nghị cho Việt Nam
4.3.1. Trong quan hệ với Mỹ
20 năm qua (1995 – 2015), quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ đã đạt được
nhiều thành quả quan trọng, tuy nhiên quan hệ giữa hai nước trong thời gian
qua vẫn còn những tồn tại nhất định cần phải tháo gỡ. Vì vậy, phát triển quan
hệ hợp tác an ninh - quốc phòng với Mỹ, Việt Nam cần thận trọng:
Thứ nhất, Việt Nam cần nhận diện, nắm bắt được chính sách an ninh –
quốc phòng của Mỹ đối với Việt Nam để xây dựng mối quan hệ phù hợp dựa
trên lợi ích chung của hai nước và cả ASEAN.

Hai là, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa công tác đối ngoại quân sự
quốc phòng với Mỹ.
Ba là, tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ nhưng Việt Nam phải
hết sức tỉnh táo, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH và tuân
thủ nguyên tắc "ba không" trong quốc phòng.
Bốn là, tăng cường quan hệ quân sự quốc phòng với Mỹ, Việt Nam
cần phải khôn ngoan xử lý khéo léo, cân bằng quan hệ và tránh xung đột lợi
ích giữa cả Mỹ và Trung Quốc.
4.3.2. Trong quan hệ với ASEAN
Một là, Việt Nam với tư cách là thành viên của ASEAN cần tích cực,
chủ động và sáng tạo trong tham gia thúc đẩy các nỗ lực hợp tác an ninh
chung của ASEAN.
Hai là, tăng cường hợp tác với ASEAN nhưng Việt Nam phải luôn
quán triệt các nguyên tắc và tư tường chủ đạo cơ bản.
Ba là, Việt Nam chủ động cùng với ASEAN thúc đẩy và tăng cường
hợp tác, liên kết khu vực trong xây dựng Cộng đồng ASEAN trong đó có
xây dựng và hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ và các nội dung hoạt
động của Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN.
Bốn là, để đảm bảo mục tiêu duy trì môi trường hòa bình, an ninh và
phát triển ở khu vực, Việt Nam cần kiên trì thúc đẩy ASEAN giữ vững
những định hướng đã thống nhất.
23


×