Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bệnh viêm phế quản: Suyễn (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.46 KB, 10 trang )

Bệnh viêm phế quản: Suyễn
(Phần 1)


Suyễn là gì ?
Suyễn là tình trạng viêm mãn tính của các ống phế quản (đường dẫn khí) gây ra
sự sưng phồng và hẹp (co khít lại) đường dẫn khí. Kết quả là gây khó thở. Sự hẹp phế
quản thường là hoặc hồi phục hoàn toàn hoặc ít nhất là 1 phần với điều trị.
Các ống phế quản bị viêm mãn tính có thể trở nên nhạy cảm quá mức với các dị
nguyên (các chất khởi phát đặc hiệu) hoặc các chất kích thích (các chất khởi phát
không đặc hiệu). Ðường dẫn khí có thể trở nên bị "xoắn vặn" và vẫn cứ ở trong trạng
thái tăng nhạy cảm. Ðây được gọi là "Tăng tính nhaỵ cảm của phế quản" .
Dường như có một mức độ nào đó tăng tính nhạy cảm phế quản ở tất cả các cá
thể. Tuy nhiên, rõ ràng rằng những người bị suyễn và những cá nhân dị ứng (không có
suyễn rõ ràng) có một mức độ quá mẫn phế quản cao hơn những người không bị suyễn
và không bị dị ứng.
Ở những cá nhân nhạy cảm, các ống phế quản dễ bị sưng phồng và co thắt khi
tiếp xúc với các yếu tố khởi phát như là các dị nguyên, khói thuốc lá, hoặc gắng sức.
Trong số những người bị suyễn, vài người có thể có quá mẫn phế quản nhẹ và không
có triệu chứng trong khi những người khác có thể có quá mẫn phế quản nặng và có
triệu chứng mãn tính.
Hỗ trợ dị ứng
Suyễn ảnh hưởng mọi người một cách khác nhau. Mỗi cá nhân là đơn nhất về
mức độ phản ứng của họ với các yếu tố khởi phát của môi trường. Ðiều này ảnh hưởng
một cách tự nhiên loại và liều thuốc được cho, thuốc dùng cho mỗi người bị suyễn
không giống nhau.
Từ quá khứ đến hiện tại
Các thầy thuốc Hy Lạp cổ đại đã dùng từ "asthma" (suyễn) để mô tả khó thở
hoặc thở hổn hển. Họ tin rằng suyễn là do sự mất thăng bằng bên trong, cái mà có thể
phục hồi được bởi chế độ ăn khoẻ mạnh, các phương thuốc từ thực vật và động vật,
hoặc thay đổi cách sống.


Biệt ngữ dị ứng
Suyễn bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "Panos", nghĩa là sự thở hổn hển.
Các thầy thuốc Trung Hoa hiểu rằng "xiao-chiran", hoặc "thở khò khè", là một
dấu hiệu của sự mất thăng bằng trong lực sống mà họ gọi là "Qi". Họ khôi phục lại
"Qi" bằng các phương tiện như hương liệu, châm cứu, xoa bóp, kiêng ăn, và thể dục.
Các triết gia Ấn Ðộ kết nối tâm hồn và hơi thở như là 1 phần của sự kết nối trí
tuệ, thể xác và linh hồn. Thuật Yoga sử dụng sự kiểm soát hơi thở để tăng kích thích
sự trầm tư. Các thầy thuốc Ấn Ðộ đã dạy những kỷ thuật thở này để giúp điều trị
suyễn.
Thực tế dị ứng
Maimonides là một thầy thuốc đồng thời là giáo sĩ Do Thái nổi tiếng ở thế kỷ
20 đã hành nghề ở triều đại vua Ai Cập. Ông ta đã đề nghị với 1 trong những Hoàng
Tử bị suyễn rằng cậu ta nên ăn, uống và ngủ ít hơn. Ông ta cũng khuyên rằng Hoàng
Tử nên sinh hoạt tình dục ít hơn, tránh môi trường thành thị bị ô nhiễm, và ăn một chế
độ ăn đặc biệt - súp gà.
Sự cân bằng của "4 dịch thể", cái bắt nguồn từ thời Hy Lạp - La Mã, đã ảnh
hưởng đến y học Châu Âu cho đến giữa thế kỷ 18. Ở người khỏe mạnh, 4 dịch thể,
hoặc dịch của cơ thể là: máu, mật đen, mật vàng, và đàm dãi - ở thế cân bằng. Sự vượt
quá của 1 trong những dịch này quyết định kiểu rối loạn hiện diện. Những người bị
suyễn được ghi nhận ho, ứ đọng chất tiết, và sự tiết nhầy (đàm) quá mức vì thế được
gọi là"người nhiều đàm dãi".
Vào những năm 1800, được sự hỗ trợ bởi việc phát minh ra ống nghe, các thầy
thuốc bắt đầu nhận ra rằng suyễn là một bệnh chuyên biệt. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn
yêu cầu những cách điều trị truyền thống ngày ấy, như là sự trích máu, hương liệu và
hút thuốc lá. Những phương pháp này được dùng cho những bệnh cảnh khác nhau, bao
gồm cả suyễn. Trong số nhiều phương thức điều trị được quảng bá cho suyễn trong
suốt thế kỷ 19, không có cái nào là đặc biệt hữu ích.
Thực tế dị ứng.
Ðầu năm 1892, một thầy thuốc Canada nổi tiếng, Sir William Osler, đã gợi ý
rằng, viêm đóng một vai trò quan trọng trong bệnh suyễn.

Các thuốc dãn phế quản xuất hiện đầu tiên vào những năm 1930, và được cải
tiến trong những năm 1950. Ngay sau đó, các thuốc corticosteroid điều trị viêm xuất
hiện và trở thành trụ cột điều trị được sử dụng cho đến ngày nay.
Phạm vi của vấn đề
Ngày nay suyễn là một bệnh mãn tính thường gặp nhất ở trẻ em, ảnh hưởng 1
trong số mỗi 15 em. 5% người trưởng thành ở Bắc Mỹ cũng bị bệnh. Nói chung, có
khoảng 1 triệu người Canada và 15 triệu người Mỹ bị bệnh này.
Số ca bệnh mới và tần suất nhập viện mỗi năm vì suyễn đã tăng khoảng 30%
trong 20 năm qua. Bất chấp những tiến bộ trong điều trị, tử vong vì suyễn trong số
những người trẻ tuổi đã tăng hơn gấp đôi.
Thực tế dị ứng.
Có khoảng 5000 ca tử vong mỗi năm vì suyễn ở Mỹ và khoảng 500 ca tử vong
mỗi năm ở Canada.
Các ống phế quản bình thường.
Trước khi chúng ta có thể đánh giá suyễn ảnh hưởng đến các đường dẫn khí phế
quản như thế nào, chúng ta nên nhìn lướt qua cấu trúc và chức năng của ống phế quản
bình thường.
Không khí chúng ta hít vào qua mũi và miệng sẽ đi qua dây thanh (thanh quản)
và vào trong khí quản. Không khí sau đó vào phổi bằng 2 đường dẫn khí lớn (phế quản
gốc), 1 ở mỗi bên. Phế quản phân chia bên trong mỗi phổi thành các ống dẫn khí ngày
càng nhỏ (tiểu phế quản), giống như các nhánh của một cây ngược. Khí hít vào khí đi
qua những đường dẫn khí này đến hàng triệu túi khí nhỏ (phế nang) được chứa trong
phổi.(Những túi này ví như chùm nho, còn cuống nho là những tiểu phế quản).
Oxi đi từ các túi khí vào trong dòng máu qua nhiều mạch máu nhỏ gọi là mao
mạch. Tương tự như vậy, các sản phẩm thải của cơ thể, khí CO
2
, được quay trở lại các
túi khí sau đó được loại bỏ ở mỗi nhịp thở ra.
Các ống phế quản bình thường cho phép sự di chuyển nhanh chóng không khí
vào và ra khỏi phổi để bảo đảm rằng mức O

2
và CO
2
vẫn ổn định trong dòng máu.
Thành ngoài của ống phế quản được bao bọc bởi cơ trơn có thể co và dãn tự động với
mỗi nhịp thở. Ðiều này cho phép một lượng không khí theo yêu cầu vào và ra khỏi
phổi để đạt được sự trao đổi O
2
và CO
2
bình thường này. Sự co và dãn của cơ trơn phế
quản được kiểm soát bởi 2 hệ thần kinh khác nhau hoạt động hiệp đồng để giữ đường
dẫn khí luôn mở.
Lớp lót bên trong của các ống phế quản, được gọi là biểu mô phế quản, có chứa
: (1) các tuyến nhầy sản xuất chỉ đủ chất nhầy để bôi trơn hợp lý đường dẫn khí; và (2)
nhiều loại tế bào viêm khác nhau, như bạch cầu ái toan, tế bào limpho, và các tế bào
mast.
Các tế bào này được thiết kế để bảo vệ biểu mô phế quản với các vi trùng hít
vào, các dị nguyên và các chất kích thích chúng ta hít vào, và những thứ có thể gây
sưng phồng mô phế quản. Tuy nhiên, hãy ghi nhớ rằng các tế bào viêm này cũng đóng
vai trò quan trọng trong phản ứng dị ứng. Vì thế, sự hiện diện của những tế bào viêm
này trong các ống phế quản đã làm cho chúng là những đích đầu tiên của phản ứng
viêm dị ứng.
Suyễn ảnh hưởng đến sự thở như thế nào?
Suyễn gây ra hẹp đường thở, can thiệp vào sự chuyển động bình thường của
không khí vào và ra khỏi phổi. Suyễn chỉ liên quan đến các ống phế quản và không
ảnh hưởng đến các túi khí hoặc nhu mô phổi. Sự bít hẹp xuất hiện ở suyễn là do 3 yếu
tố chính : viêm, co thắt phế quản, và phản ứng quá mức (quá mẫn cảm).
Viêm
Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất gây ra hẹp các ống phế quản là viêm. Các

ống phế quản trở nên đỏ, bị kích thích, và sưng phồng lên. Viêm xuất hiện đáp lại một

×