Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BÀI THU HOẠCH TRIẾT HỌC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.63 KB, 14 trang )

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Ngay từ khi mới ra đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu về chính
mình và về Thế giới xung quanh. Các nhà tư tưởng đã từng tiếp cận vấn đề
con người dưới nhiều hình thức, nhiều góc độ khác nhau và có nhiều đóng
góp quý báu. Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn
trong lĩnh vực khoa học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có:
thuyết tế bào của M.Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ.
Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của M.
Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph.
Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ.
Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S.
Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã
tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói
chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
Trong lễ an táng C.Mác, khi đánh giá công lao vĩ đại của C.Mác đối với
sự phát triển của nhân loại, Ph.Ăngghen đã viết: “Giống như Đácuyn đã tìm
ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển
của lịch sử loài người: cái sự thật đơn giản đã bị những tầng tầng lớp lớp tư
tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống,
chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo
và v.v. được; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp
và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay
một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà
nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm
tôn giáo của con người ta, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích
những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã
làm. Nhưng không phải chỉ có thế thôi, C.Mác cũng tìm ra quy luật vận động
riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản
do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực
này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên



cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình
xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối”.
Triết học Mác, như chúng ta đều biết, bao gồm 2 bộ phận có mối liên
hệ hữu cơ với nhau, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử (hay còn gọi là quan niệm duy vật về lịch sử). Có thể khẳng định
rằng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
là một trong những nền tảng lý luận quan trọng của lý luận về chủ nghĩa xã
hội của C.Mác và Ph.Ăngghen. Theo học thuyết đó, sự vận động của mâu
thuẫn cơ bản của xã hội bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, thượng tầng kiến trúc
phải phù hợp với hạ tầng cơ sở; trong đó, lực lượng sản xuất là yếu tố năng
động nhất, cách mạng nhất. Sự phát triển của xã hội trước hết được thể hiện
ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Điều đó
có nghĩa là, bất kỳ sự thay đổi nào trong quan hệ sản xuất đều là kết quả tất
yếu của việc quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp, trở thành xiềng xích
trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó chính là cơ sở và quy
luật khách quan để khẳng định chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế
bằng một xã hội mới, phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn. Còn trong xã hội có
giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu
hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc
lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp
đó là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội trong các xã hội có giai cấp.
Trong xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Do đó, sự
ra đời của chủ nghĩa xã hội là kết quả của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản
với giai cấp tư sản. Đó cũng là một tất yếu lịch sử.
Mặt khác của Phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong
sản xuất phát triển của lịch sử. Những Quan hệ sản xuất lỗi thời đã được

xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu Quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn
2


đến Hình thái Kinh tế - Xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất
hiện và phát triển của Hình thái Kinh tế được giải thích trước hết bằng sự
tác động của các quy luật. Trong quá trình tiến triển của các Hình thái Kinh
tế - Xã hội, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà
trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn và kế thừa và đổi mới
những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra bước phát triển.
Do đó tạo ra tình trạng chồng chất đan xen những yếu tố của Hình thái
Kinh tế - Xã hội khác, của nhiều thời kỳ lịch sử khác. LêNin đã chỉ rõ :
“Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ Chủ nghĩa Tư bản
nào là thuần tuý cả vì Chủ nghĩa Tư bản luôn luôn có lẫn những yếu tố
phong kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa”
Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra kết luận rằng, sự sụp đổ của giai cấp tư sản
và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau; cũng như vậy,
chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ phải bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản.
Với phương pháp tiếp cận thời đại ngày nay trên cơ sở nắm vững linh
hồn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác, cần phải luôn khẳng
định, thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi
toàn thế giới, được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng XHCN Tháng
Mười Nga vĩ đại năm 1917. Từ sau thắng lợi của Cách Mạng Tháng Mười
Nga, thế giới trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, gắn với sự ra đời và
phát triển của hệ thống XHCN thế giới hùng mạnh, đứng đầu là Liên Xô, với
sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong
trào công nhân và cộng sản quốc tế. Điều đó đã trở thành động lực cho các
dân tộc bị áp bức, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh chống
CNTB, chế độ áp bức, bóc lột, giành độc lập, tự do cho dân tộc, trong đó có
nhiều dân tộc lựa chọn con đường XHCN.


3


Tuy nhiên, sau 74 năm tồn tại với những thành tựu vĩ đại, lịch sử cũng
đã chứng kiến sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, hệ thống
CNXH thế giới lâm vào thoái trào. Song, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu lại không hẳn là sự sụp đổ của CNXH và càng không thể coi
đây là minh chứng về sự sai lầm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội. Đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể về xây dựng CNXH, chưa
phải là mô hình CNXH mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác mong muốn.
Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của một “công trình” vĩ đại tưởng
như rất bền vững như thế? Liên Xô đã mắc phải những sai lầm sau đây: (1)sai
lầm trong nhận thức lý luận - lý luận về cách mạng vô sản, lý luận về chủ
nghĩa cộng sản (CNCS) và lý luận về thời kỳ quá độ những sai lầm mà; (2)bỏ
qua những vấn đề lý luận về xây dựng đảng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.
I. Lê-nin mà xây dựng nên một đảng theo xu hướng độc đoán, chuyên quyền,
ngày càng quan liêu, xa rời nhân dân; (3)những sai lầm trong nhận thức lý
luận về xây dựng nhà nước và quản lý xã hội dẫn đến sai lầm trong mô hình
thiết kế, cơ chế vận hành của Nhà nước Xô-viết; (4)sai lầm trong nhận thức lý
luận về kinh tế, về bản chất của xã hội mới, cũng bắt đầu từ nhận thức sai lầm
lý luận về thời kỳ quá độ; (5)sự bảo thủ, hẹp hòi trong thái độ ứng xử với
những giá trị của văn minh nhân loại, nhất là những gì liên quan đến CNTB
và đặc biệt, sự độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và chủ nghĩa cá nhân là
nguyên nhân cản trở, không cho phép phát triển hệ thống lý luận khoa học,
khách quan, đúng đắn trong điều kiện CNXH hiện thực mô hình Xô-viết; (6)
từ những sai lầm về nhận thức lý luận, CNXH hiện thực mô hình Xô-viết
trượt dài trên những sai lầm, yếu kém về thể chế chính trị, về phát triển kinh tế
và quản lý xã hội để đi đến bờ vực khủng hoảng . Suy cho cùng, sự sụp đổ của
chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là do sự thiếu hiểu biết cặn kẽ về chủ

nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác nói
riêng; cũng như tình trạng quá giáo điều, cứng nhắc, chủ quan, duy ý chí của
những thế hệ lãnh đạo sau V. I. Lê-nin trong quá trình vận dụng chủ nghĩa
Mác vào thực tiễn.

4


Sự sụp đổ của CNXH hiện thực mô hình Xô-viết là một bước lùi lịch
sử của cách mạng, của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới. Đó
cũng là một tổn thất to lớn cho phong trào đấu tranh cho những mục tiêu cao
cả và tốt đẹp của nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội
và hạnh phúc của con người. Nhưng qua đó chứng minh ý nghĩa quan trọng
của nhận thức lý luận một cách sáng tạo, chỉ ra giá trị to lớn về phương pháp
luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác và để lại cho chúng ta
bài học xương máu về nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
thực tiễn cách mạng. Cần thấy rằng, ngày nay thế giới đang chứng kiến sự
phát triển mạnh mẽ của một số nước XHCN trên con đường đổi mới, cải cách
(như Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba, Lào,...). Điều đó đã, đang và sẽ củng cố
vị thế, vai trò của CNXH trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Bên
cạnh đó, xu hướng đi lên CNXH vẫn là sự lựa chọn của không ít quốc gia, dân
tộc trên thế giới hiện nay. Đặc biệt, sự thành công của công cuộc cải cách, mở
cửa, đổi mới ở Trung Quốc và Việt Nam cũng bổ sung thêm những chi tiết
mới vào con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với những nước
thực hiện bước quá độ “rút ngắn”, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa; đồng thời, khẳng định kiên trì chủ nghĩa Mác không có nghĩa là áp
dụng một cách nguyên xi, máy móc, mà là vận dụng một cách khoa học và
sáng tạo những tư tưởng của các ông trong điều kiện lịch sử mới. Chính sự
sáng tạo trong vận dụng, sự bổ sung và hoàn thiện những nguyên lý chủ nghĩa
Mác cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại là con đường đúng

đắn để bảo vệ chủ nghĩa Mác, để kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác. Đó cũng là
một nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra cho những người làm công tác lý luận ở
nước ta hiện nay.
Liên quan đến nhiệm vụ này, vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước,
cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,cùng với sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu thế kỷ XX, nhiều học
giả đã nhắc tới học thuyết về các nền văn hoá và văn minh, và câu hỏi đặt ra
đó là : Các thuyết kỹ trị về “thiên đường công nghệ” và về “các làn sóng”
có thể thay thế lý luận hình thái kinh tế xã hội của k.marx hay không?
5


Trong số đó, một số người đã coi nó là một lý thuyết khoa học và có thể thay
thế cho cách tiếp cận hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác. Công bằng mà nói,
học thuyết về các nền văn hóa, văn minh có nhiều điểm đáng được quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội,
chúng ta có thể thấy, trong khi coi trọng vai trò quyết định của nhân tố kinh tế,
C.Mác không hề bỏ qua yếu tố văn hoá trong sự phát triển xã hội. Nhưng theo
quan điểm của C.Mác, yếu tố văn hóa luôn chịu sự quy định và phụ thuộc vào
yếu tố vật chất. Đồng thời với việc khẳng định sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, trong đó hình thái
kinh tế – xã hội phát triển sau luôn tiến bộ hơn hình thái kinh tế – xã hội trước
đó, học thuyết hình thái kinh tế – xã hội còn thừa nhận sự kế thừa và phát triển
của các nền văn minh nhân loại, coi sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội
cũng chính là sự thay thế các nền văn minh. Trong bối cảnh mới có nhiều
thay đổi hiện nay, để bảo vệ tính khoa học và tính cách mạng của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta không chỉ cần khẳng định những
chân giá trị trong quan điểm của triết học Mác - Lênin mà còn phải bổ
sung, phát triển để những quan điểm đó thêm sức sống mới của thời đại.
Thí dụ, quan điểm của học thuyết kỹ trị hiện đại khi đề cao vai trò quyết

định của khoa học - công nghệ đối với sản xuất vật chất hiện nay, bản thân
C.Mác chưa bao giờ phủ nhận vai trò của khoa học bởi chính Ph.Ăngghen
đã từng khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực lịch sử, một
lực lượng cách mạng”
Trong khi khẳng định tính đúng đắn, tính nguyên giá trị của những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhiệm vụ của những người làm công
tác nghiên cứu triết học là phải cụ thể hóa và nghiên cứu sâu thêm các nguyên
lý chung đó. Điều quan trọng trước hết, theo chúng tôi, cần làm rõ hàng loạt
vấn đề về mối quan hệ giữa cái đóng vai trò quyết định (tồn tại xã hội, lực
lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, v.v.) và cái bị quyết định (ý thức xã hội, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng, v.v.). Sinh thời, V.I.Lênin đã từng khẳng định:
“Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong
6


vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái
có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là
tương đối”. Áp dụng tư tưởng trên đây của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, chúng ta có thể đặt vấn đề rằng, phải chăng các yếu tố quyết
định đã được nhắc đến ở trên luôn đóng vai trò quyết định trong mọi hoàn
cảnh, mọi điều kiện lịch sử hay chỉ đóng vai trò quyết định khi xét đến cùng?
Nếu các yếu tố quyết định chỉ đóng vai trò quyết định khi xét đến cùng thì
trong trường hợp và điều kiện nào, nhân tố bị quyết định trở thành cái có vai
trò quyết định? Điều này rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi muốn
phát huy vai trò của nhân tố chủ quan nhưng lại tránh được chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa giáo điều. Chẳng hạn, chủ nghĩa duy vật
lịch sử khẳng định rằng, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn
kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng và có tác động ngược
trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nhưng, sự tác động ngược trở lại cần được hiểu

như thế nào và đến mức độ nào, có khi nào kiến trúc thượng tầng làm thay đổi
cơ sở hạ tầng không hay nó chỉ luôn là yếu tố chịu sự tác động, bị động trong
quan hệ với cơ sở hạ tầng? Hoặc, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã
hội cũng cần được lý giải thấu đáo về mặt triết học. Văn hóa, theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, bị quy định bởi những điều kiện sinh hoạt vật
chất của con người. Vậy, cần lý giải như thế nào vai trò của văn hóa với tư
cách động lực của sự phát triển xã hội, v.v..
Tất cả những điều trình bày trên đây đã khẳng định những đóng góp vĩ đại
của C.Mác đối với thời đại của ông và cả với thời đại chúng ta đang sống.
Trách nhiệm của chúng ta là phải vận dụng và phát triển sáng tạo triết học của
C.Mác để giải quyết những vấn đề mà thời đại đang đặt ra cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới. Thành công hay thất bại trong thực tiễn đều phụ thuộc
vào thế hệ chúng ta và do chính chúng ta quyết định.
C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên". V.I.Lênin giải thích thêm: "Chỉ có đem quy
những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan
hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có
7


được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm
như thế thì không thể có một khoa học xã hội được".
Chúng ta đều biết, quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm là tác động
thông qua con người. Song, không phải vì thế mà nó không mang tính khách
quan. Ngược lại, xã hội vận động theo những quy luật không những không
phụ thuộc, mà còn quyết định cả ý chí, ý thức và ý định của con người.
Nhìn chung, cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế xã hội kế tiếp nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và đang quá độ sang xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng, xét từng quốc gia

dân tộc thì do những đặc điểm về lịch sử, không phải quốc gia nào cũng phải
trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung. Nghiên cứu
lịch sử các nước cho thấy, có những nước đã bỏ qua một hình thái kinh tế - xã
hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn như ở Italia, Pháp,
Tây Ban Nha..., chế độ phong kiến đã bắt đầu hình thành trong lòng chế độ nô
lệ. Trong khi đó, ở Nga, Ba Lan, Đức..., chế độ phong kiến ra đời không phải
từ chế độ nô lệ. Ở Mỹ, do đặc điểm lịch sử của nó, chế độ tư bản hình thành
trong điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong kiến. Ngay ở Việt Nam,
trong tiến trình phát triển lịch sử của mình, chúng ta đã không trải qua chế độ
nô lệ. Các nước không qua hình thái này hay hình thái khác là sự thật lịch sử
và là quá trình lịch sử - tự nhiên của các quốc gia đó. Sở dĩ có tình hình ấy là
vì: sự vận động của xã hội diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, giữa các
vùng. Lịch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản
xuất vật chất, về kỹ thuật hoặc về văn hóa và chính trị... Sự giao lưu, xâm
nhập, tác động qua lại giữa các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng một số
nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không lặp lại một cách tuần
tự các quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đây chính là vai trò và ý
nghĩa của thời đại đối với sự phát triển các quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử
nhất định. Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả trường
8


hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh
lịch sử - cụ thể nhất định. Từ lâu (và ngay cả hiện nay), có một số người do
không nhận thức được vấn đề này hoặc với dụng ý xấu hòng phủ định con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã nói rằng, con đường mà chúng
ta đã lựa chọn dường như trái với lý luận của C. Mác về "quá trình lịch sử - tự
nhiên". Họ cho rằng, ở nước ta, quá trình lịch sử - tự nhiên nhất thiết phải phát
triển tuần tự và tất nhiên, hướng trước mắt phải là chủ nghĩa tư bản. Thật là

phi lịch sử và không phù hợp với quan niệm của C.Mác về quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và điều kiện cụ thể
của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra và hoàn thiện dần mô hình chủ
nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Sau 5 năm đổi mới, bằng sự kết hợp việc nhận thức lại các quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, với
những kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nước ta, Đảng đã xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6
đặc trưng cơ bản, và trình bày trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (Cương lĩnh 1991):
(1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu; (3) Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc; (4)
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Từ những đặc trưng của mô hình
XHCN ban đầu Đảng ta không ngừng hoàn thiện mô hình qua từng kỳ đại hội
và thực tiễn xây dựng nhà nước XHCN. Quán triệt nội dung khoa học và bản
chất cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, không ngừng tổng
9


kết thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là tổng kết
thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, tổng kết thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Các văn kiện Đại hội

Đảng, đặc biệt là các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI và XII đã dần dần làm
sáng rõ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cách thức hiện thực hóa mô
hình đó trong bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế có những biến đổi mới
dưới sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và sâu rộng của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện đại. Lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong những năm vừa qua đòi hỏi chúng ta phải luôn có những nhận thức
mới, cách tiếp cận mới về các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội; phải nắm
vững đời sống vật chất và đời sống tinh thần cũng như những mối quan hệ
giữa chúng và biết tìm kiếm những cách giải quyết mới cho những vấn đề đó
nhằm tận dụng những ngoại lực phát huy nội lực để gìn giữ, bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững đất nước vì con ngưòi. Việc không ngừng bổ sung
và hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải chỉ xuất phát
từ sự tổng kết lý luận về chủ nghĩa xã hội mà trước hết từ sự tổng kết thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và từ sự thành công hay thất bại của
chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới nên mô hình này có một sức sống hiện
thực. Nếu việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất khó khăn,
lâu dài, phức tạp thì việc hiện thực hóa mô hình đó cũng sẽ là một quá trình
khó khăn, phức tạp, lâu dài hơn. Tuy nhiên, chúng ta tin tưởng sâu sắc vào
thành công cuối cùng – một chủ nghĩa xã hội kiểu Việt Nam sẽ tồn tại trong
hiện thực, trong cuộc sống của con người Việt Nam chứ không phải chỉ trong
đầu của ngững người cộng sản Việt Nam.
Từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 101930) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
8-1990), thời kỳ quá độ(TKQĐ) luôn được xác định là: “do được các nước
XHCN giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, tức là nửa trực
tiếp. Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: TKQĐ ở
Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn hơn. Đại
10


hội VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện đa

dạng hóa sở hữu - một trong những nội dung quan trọng nhất của “Chính
sách kinh tế mới” (NEP), nhưng vẫn nêu TKQĐ ở nước ta là “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện TKQĐ
được xác định là “bỏ qua chế độ TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp, và được
xây dựng, phát triển ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII
(tháng 1-1995) khẳng định: trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các
nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập
kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh
nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX của Đảng nêu rõ, bỏ
qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN, nhưng tiếp thu thành tựu khoa
học và công nghệ trong CNTB...
Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn
với CNXH, Việt Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng,
đường lối của V. I. Lê-nin về TKQĐ gián tiếp với một số điểm chú ý sau:
Thực tế thành công lẫn thất bại của CNXH hiện thực trên thế giới một
thế kỷ qua đều chứng minh lý luận của V. I. Lê-nin về TKQĐ gián tiếp là
đúng đắn. Để phát triển, tiến bộ nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại
những hạn chế của CNTB, các nước đang phát triển vẫn có thể và cần phải
thực hiện TKQĐ này. Điều đổi mới nhận thức về TKQĐ đó là bỏ qua chính
trị TBCN, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh tế CNTB để phục vụ cho CNXH,
đặc biệt là phát triển lực lượng sản xuất, kinh nghiệm quản lý, trình độ
khoa học - công nghệ... đồng thời với vai trò của nhà nước pháp quyền
XHCN sẽ điều tiết sự phát triển nhân văn hơn. Để giữ được bản chất và
định hướng XHCN trong thực hiện đường lối về TKQĐ gián tiếp, thì phải
bảo đảm: một là, khi thực hiện, quan hệ sản xuất TBCN và giai cấp tư sản
tuyệt nhiên không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện (nhà nước
XHCN) cho chủ sở hữu (quần chúng nhân dân) không thể thay thế hoàn
toàn chính người chủ sở hữu này, để trở thành một chủ sở hữu mới trên
thực tế. Những điều này phụ thuộc vào việc, Đảng phải luôn kiên định và

11


sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục tiêu, con đường lên CNXH dựa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng sáng
tạo tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của V. I. Lê-nin về TKQĐ gián
tiếp, cần kết hợp thống nhất, chặt chẽ, chuyển đổi linh hoạt, hợp lý hai
chính sách chủ yếu trên. Đồng thời, phải đổi mới, phát triển chúng phù hợp
với điều kiện trong nước.
Từ những dữ kiện về quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước
ta qua các kỳ đại hội và sau 30 năm đổi mới và phát triển thì Việt Nam vẫn
là một trong những nước XHCN đạt được những thành tựu trong thời kỳ
quá độ, qua đó cũng chứng tỏ lời nói của ngoại trưởng Mỹ john kerry: 'chỉ
có chủ nghĩa tư bản' ở việt nam” là hoàn toàn chưa chính xác.
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội trong bối cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn và sâu sắc. Chủ nghĩa Xã hội đứng trước nhiều khó
khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song
chúng ta vẫn kiên định, giữ vững lập trường, quan điểm, tư tưởng. Áp dụng
linh hoạt và có sáng tạo chủ nghĩa Mác - LêNin mà cụ thể ở đây là lý luận
Hình thái Kinh tế - Xã hội của C.Mác vào thực tiễn nhằm xây dựng Xã hội
Chủ nghĩa mà xã hội đó : Do nhân dân lao động làm chủ.
Lịch sử đã chứng minh, không phải bất kì nước nào cũng phải tuần
tự trải qua các hình thái Kinh tế - Xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ
qua một Hình thái Kinh tế - Xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết
định, xong đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên
ngoài. Ở nước ta cũng đã có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta
lựa chọn con đường Xã hội Chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, nhanh chóng thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
12



Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
những nhân tố của xã hội mới và tân tiến của xã hội cũ đan xen lẫn nhau và
đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã
hội, tư tưởng... trong xã hội. Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ là sự
quá độ về chính trị. Ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập,
củng cố và ngày càng hoàn thiện.
Tóm lại, lý luận Hình thái Kinh tế - Xã hội là một trong những
thành tựu khoa học mà C.Mác đã đề ra cho nhân loại. Lý luận đó đã chỉ ra:
Xã hội là một hệ thống mà trong đó Quan hệ sản xuất phải phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của Lực lượng sản xuất và các Quan hệ sản
xuất tạo thành một kết cấu Kinh tế - Xã hội nhất định mà trên đó dựng nên
một Kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị cũng như các hình thái ý
thức xã hội tương ứng. Đồng thời lý luận cũng chỉ ra rằng sự vận động và
phát triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Thông qua cách mạng xã hội, các Hình thái Kinh tế - Xã hội thay thế
nhau từ thấp đến cao. Tuy nhiên sự vận động và phát triển của các Hình
thái Kinh tế - Xã hội vừa bị chi phối của các quy luật chung, vừa bị tác
động bởi điều kiện lịch sử cụ thể.
Ngày nay xã hội loài người đã có những phát triển mạnh mẽ hơn rất
nhiều so với thời C.Mác nhưng sự phát triển đó vẫn dựa trên cơ sở lý luận
Hình thái Kinh tế - Xã hội, điều đó chứng tỏ rằng lý luận Hình thái Kinh tế
- Xã hội vẫn giữ nguyên giá trị của nó trong mọi giai đoạn. Tuy nhiên lý
luận Hình thái Kinh tế - Xã hội không có tham vọng giải thích được tất cả
13


các hiện tượng của đời sống xã hội mà nó đòi hỏi được bổ sung bằng
những phương pháp tiếp cận khoa học khác nhưng đồng thời với những

phương pháp tiếp cận mới về xã hội, không phải vì thế mà lý luận Hình thái
Kinh tế - Xã hội trở nên lỗi thời.
Lý luận về Hình thái Kinh tế - Xã hội đã chỉ ra con đường đi đến Chủ
nghĩa Xã hội là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng
đi đúng đắn và từ đó đưa ra những giải pháp cho công cuộc xây dựng đất
nước ta ngày càng phát triển tới một đỉnh cao mới.
Tất cả những điều trình bày trên đây đã khẳng định những đóng góp
vĩ đại của C.Mác đối với thời đại của ông và cả với thời đại chúng ta đang
sống. Trách nhiệm của chúng ta là phải vận dụng và phát triển sáng tạo triết
học của C.Mác để giải quyết những vấn đề mà thời đại đang đặt ra cho phù
hợp với điều kiện lịch sử mới. Thành công hay thất bại trong thực tiễn đều
phụ thuộc vào thế hệ chúng ta và do chính chúng ta quyết định.
Bài thu hoạch – Triết học thầy Bùi Văn Mưa

14



×