Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng Việt lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.8 KB, 29 trang )

Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐNG ĐA
–––––––––––––––––––––––––––––
MÃ SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“RÈN KĨ NĂNG NÓI QUA CÁC MÔN HỌC TIẾNG VIỆT Ở LỚP2”

Lĩnh vực/Môn

: Tiếng Việt

Giáo viên môn

: Cơ bản

Năm học

: 2016 - 2017

________________________________________________________________________

0


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:


Như chúng ta đã biết, từ khi sinh ra con người đã tập nói, vì lời nói là phương tiện
quan trọng để con người có thể giao tiếp, học tập và hòa nhập vào cuộc sống. Nhưng nói
như thế nào để đạt được mục đích và gây được thiện cảm của người nghe thì phải trải
qua quá trình rèn luyện.
Chính vì vậy, việc rèn kĩ năng nói trong cấp tiểu học đặc biệt lớp đầu cấp ( lớp 1,2)
là việc làm vô cùng quan trọng vì đây là thời kỳ các em bắt đầu làm quen với một hệ
thống các tri thức mới của rất nhiều các môn học trong đó môn Tiếng Việt giúp cho các
em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học
tập tốt các môn học khác và tham gia giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi đồng thời rèn luyện các thao tác tư duy.
Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ
khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một
yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người.
Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:
“Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng
ngày với họ:
“Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”
Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều
lĩnh vực:
“Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”
Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ,
chúng ta đã rất chú trọng:
“Trẻ lên ba, cả nhà học nói”
Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được
xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước
________________________________________________________________________


1


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm:
“Tiên học lễ, hậu học văn”.
Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy
các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan
trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song
khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mọi người
thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không?
Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp và nhận
biết rõ tầm quan trọng của việc đổi mới SGK và phương pháp dạy học mới của Bộ giáo
dục- Đào tạo, là một trong những giáo viên được tiếp cận với chương trình và SGK mới,
tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những sáng kiến nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn và ứng với nhiệm vụ đào tạo con người mới có đủ Đức- Trí-Thể- Mĩ đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội.
Đó chính là lí do mà tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng
Việt cho học sinh lớp 2B-Trường Tiểu học Trung Phụng.”
2.Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất 1 số biện pháp sau khi đã được nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng vào
giảng dạy tại lớp 2B - trường Tiểu học Trung Phụng để dạy có hiệu quả rèn kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2.
Tạo hứng thú cho học sinh, rèn luyện những kĩ năng tốt cho học sinh như ,kĩ
năng ghi nhớ, tính bạo dạn, kĩ năng giao tiếp…
3.Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được khao sát và thực nghiệm trên 32 học sinh lớp 2B Trường Tiểu học
Trung Phụng trong các giờ học Tiếng Việt năm học 2015-2016.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:

-Nghiên cứu những biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và rèn kĩ năng
nói cho học sinh lớp2, tạo hứng thú cho học sinh.
-Tổ chức điều tra thực trạng dẫn đến kĩ năng giao tiếp của học sinh để thấy được
những ưu và nhược điểm cần khắc phục.
- Tổ chức thực hiện chứng minh các giải pháp đã đưa ra.

5. Phạm vi nghiên cứu:
a. Nghiên cứu tài liệu :
________________________________________________________________________

2


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

- Đọc các tài liệu sách báo, tạp chí giáo dục .... có liên quan đến nội dung đề tài.
- Đọc SGK, sách giáo viên, các loại sách tham khảo
b. Nghiên cứu thực tế :
-Trao đổi trực tiếp với học sinh để tìm hiểu nguyên nhân
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung môn học.

- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
c.Nghiên cứu thực nghiệm khoa học :
Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Soạn giáo án đã thông qua các tiết
dạy) để kiểm tra tính khả thi của đề tài.
*Thời gian nghiên cứu: Năm học 2015-2016
- Khảo sát thực trạng: Tháng 9 năm 2015
- Thu thập và xử lý các số liệu điều tra: Tháng 10 năm 2015
- Thống kê, phân tích các số liệu: Tháng 11 năm 2015
*Giới hạn nghiên cứu: Từ tháng 11 /2015 đến tháng 5 / 2016


II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
________________________________________________________________________

3


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

*Một số căn cứ khoa học của đề tài:
Trong quá trình dạy và học, rèn kĩ năng nói cho học sinh rất quan trọng. Bởi rèn
kĩ năng nói chính là rèn kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói nhằm giúp trẻ: trước hết
mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những kỹ năng, thói quen dùng lời nói biểu
cảm trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói của các tiết Tiếng Việt trong chương trình
SGK lớp 2 hiện hành.
Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong giao
tiếp hàng ngày cũng như sự bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước những vấn
đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung
bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
Qua nghiên cứu, kĩ năng nói của học sinh lớp 2 cần đạt các yêu cầu sau:
- Nói thành câu, rõ ràng, mạch lạc
- Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu, chia vui,
chia buồn…đúng ngữ điệu và đúng nghi thức giao tiếp ở gia đình, trường học, nơi công
cộng.
- Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục đích nhất
định
- Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc.
- Nói những lời nói thể hiện hành vi thanh lịch, văn minh
*Căn cứ vào thực tế giảng dạy :

Qua quá trình giảng dạy nhiều năm ở lớp 2 tôi nhận thấy các em thường nói
chưa rõ ràng, nói nhỏ, trả lời câu hỏi chưa đủ câu, rụt rè và còn trả lời bằng giọng địa
phương nhiều.
Ngoài ra đa số các em chưa dám bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước
những vấn đề mà các em nhìn nhận, chưa dám bày tỏ ý kiến cá nhân của mình ….Do
vậy việc rèn kĩ năng nói cho học sinh trong các giờ dạy Tiếng Việt là việc làm cần thiết
và là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành các kĩ năng giao tiếp của trẻ sau
này.
* Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học, đặc biệt là học
sinh lớp 2
- Các em có khả năng nghi nhớ tương đối tốt. Vì vậy người giáo viên có thể cho
học sinh nghi nhớ bằng cách luyện nói, luyện nghe và luyện giao tiếp để các em học
cách giao tiếp của cô, của bạn
________________________________________________________________________

4


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

- Các em thường hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song
cũng chóng chán, Giáo viên cần tạo ra hứng thú học tậpcho học sinh qua những hoạt
động, phương pháp giảng dạy phù hợp
Vì vậy tôi nhận thấy rằng rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 phải xuất phát từ
tình hình thực tế giao tiếp của học sinh ở từng vùng, miền để giáo viên có hướng lựa
chọn nội dung giảng dạy sao cho phù hợp đối với học sinh lớp mình phụ trách. Bên
cạnh đó phần lớn cũng phải phụ thuộc vào sự nhận thức, có ý chí phấn đấu, kiên trì
nhẫn nại của mỗi học sinh.

CHƯƠNG 2: ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI

“Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2”
2.1. Một vài nét về đặc điểm và tình hình chung của nhà trường.
- Trường Tiểu học Trung Phụng thuộc phường Trung Phụng, Quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên. năm học 2015 – 2016 có 28 đồng chí, trong đó
100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn . Đội ngũ giáo viên trẻ và nhiệt
tình .
+ Tổng số lớp là 11 lớp. Do đặc điểm địa hình của phường rộng,là phường nằm
sâu trong ngõ chợ Khâm Thiên .Dân cư tập trung rải rác ở nhiều nơi nên học sinh có
nhiều em ở xa trường, bán kính có nơi 4-5 km .Trình độ HS ở các khu vực không đều
nhau.
+ Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu.
- Đặc điểm học sinh lớp 2B:
*Số lượng: 31
: Nam 22

Nữ 10

*Chất lượng đầu năm:

SL

9 - 10

%

7-8

%


5-6

%

4-3

%

32

7

21,8

5

16,6

15

50,0

5

16,7

*Thuận lợi:
Học sinh trường Tiểu học Trung Phụng được học 10 buổi trên tuần nên học sinh
có thêm buổi 2 để rèn kiến thức buổi sáng.
*Khó khăn:

Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã chủ động gần gũi
giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự nhiên. Trong các tình
________________________________________________________________________

5


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của lời nói như chào hỏi, cảm ơn,
xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối…để xem phản ứng của học sinh. Tôi thấy đa số
các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp với những tình huống giao tiếp.
Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với xung quanh do bố mẹ bận đi làm
và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp của các em rất yếu. Trong giao tiếp hàng
ngày, các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn nên trong bài học các em còn lúng
túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm ơn, khen ngợi.
Hiện tại, một số học sinh ở địa bàn phường Trung Phụng khi nói các em vẫn sai
nhiều lỗi phát âm, nhiều gia đình người lớn chưa gương mẫu khi phát ngôn điều này
cũng ảng hưởng xấu tới con cái
Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên GV không thể cho nhiều học sinh
được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp, một số giáo viên ít quan tâm đến việc rèn
kĩ năng nói cho học sinh.
-Học sinh ảnh hưởng nhiều tiếng địa phương khi nói.
-Trình độ học sinh không đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc
kèm học sinh học tập, đặc biệt khi giao tiếp.
-Việc hướng dẫn học sinh nói đúng, nói đủ câu ,nói có ngữ điệu …là tương đối
khó so với học sinh lớp 2.
-Đồ dùng học tập để sắm vai các tiết học còn chưa có
2.2. Mục đích và yêu cầu của điều tra thực trạng.
Điều tra với mục đích để thấy kĩ năng nói của học sinh ở mức độ nào? Các em

đã nói đúng, đã mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình với bạn bè và thầy cô chưa ? Đã nói
to , rõ ràng và có biểu cảm chưa? … Từ đó tìm ra giải pháp giúp cho học sinh lớp 2 nói
tốt hơn trong khi học tập và khi giao tiếp với mọi người xung quanh.
2.3. Nội dung và cách tiến hành.
- Điều tra học sinh về khả năng nói ,trả lời câu hỏi, đóng vai các tình huống và
giao tiếp với mọi người .
- Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về học tập
Vào đầu năm học 2015-2016 Trong tháng 9 sau khi thực hiện 4 tiết dạy: chính tả , tập
đọc, luyện từ và câu, tập làm văn.
Tiết 1: Tập đọc: Có công mài sắt có ngày nên kim
Tiết 2 :Chính tả: Có công mài sắt có ngày nên kim
Tiết 3: Luyện từ và câu: Từ và câu
________________________________________________________________________

6


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Tiết 4: Tập làm văn: Tự giới thiệu: Câu và bài
Tiến hành kiểm tra kĩ năng nói của học sinh (học sinh trả lời câu hỏi của bài tập
đọc: “Có công mài sắt có ngày nên kim” ,luyện đọc phân vai,nói câu tự giới thiệu về
bản thân trong tiết tập làm văn “Tự giới thiệu :Câu và bài”
2.4. Kết quả điều tra thực trạng trước khi thực hiện đề tài :
Tổng Nói to rõ ràng có
số
biểu cảm
32
SL
%

HS
5
12

Nói to ,rõ ràng

Nói nhỏ chưa
đủ câu

không trả lời
được

SL

%

SL

%

SL

%

5

16,7

14


46,7

8

26,7

* Nhận xét về mức độ hoàn thành của học sinh:
Ưu điểm:
- Một số học sinh đã biết cách trình bày ý kiến ,nói to, rõ.
-có 26,7% học sinh nói tốt .
Tồn tại:
-Học sinh chưa hứng thú học tập
Học sinh nói nhỏ , rụt rè, đặc biêt có nhiều em còn nói ngọng, phát âm chưa
chuẩn.
Nhiều học sinh chưa biết nói lời cảm ơn ,xin lỗi thông thường,khó khăn trong
khi phát âm vần khó ( ch,/ tr; s/x ; v/d ; r / gi ; ai/ay – ai ; ut – uc ; at – ac ; an –
ang ; iu – iêu – yêu/ uênh ,oan, oang, oăn, oen, eo, oeo, uyên, uyêt,
Từ những tồn tại đó nếu chúng ta không có biện pháp uốn nắn kịp thời thì dẫn
đến hình thành thói quen không tốt ở học sinh.
Sở dĩ kết quả thấp như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một
số nguyên nhân chủ yếu sau:
Về phía học sinh
+ Học sinh chưa có kĩ năng nói, phát âm không chuẩn, chưa nắm được cách nói
một câu đầy đủ. Một số em chưa biết sử dụng từ ngữ phù hợp.
+ Các em chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giao tiếp, còn ngại khi đóng
vai, chưa thấy được sự tác động qua lại của học nói với các môn học khácvà trong giao
tiếp hằng ngày.
Về phía giáo viên

________________________________________________________________________


7


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

+ Trong các tiết học, giáo viên chưa dành nhiều thời gian cho học sinh luyện nói,
chưa uốn nắn cho học sinh khi nói và trả lời miệng.
+GV chưa quan tâm nhiều tới việc hướng dẫn học sinh cách nói thoát li văn bản,
nói theo ý hiểu và nói bằng lời của mình.
+ Phương pháp truyền thụ của GV thiếu linh hoạt, cụ thể, tỉ mỉ; chưa có biện
pháp động viên, khích lệ, cuốn hút HS vào bài giảng.
+ Do sự kết hợp giáo dục giữa GV và gia đình HS có mặt còn hạn chế.
2.5. Đề xuất giải pháp.
- Những điều kiện về cơ sở vật chất:
- Làm tốt việc chuẩn bị bài của học sinh
- Hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập tình huống,phân vai,giới thiệu,bày
tỏ ý kiến….
-Tổ chức dạy học tạo hứng thú cho học sinh

CHƯƠNG 3: TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM KHOA HỌC
3.1. Mục đích, yêu cầu.
Thực hiện một số giải pháp rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng Việt cho học
sinh lớp 2B-Trường tiểu học Trung Phụng.
3.2 Nội dung và cách tiến hành
Từ thực trang nêu trên ,căn cứ vào thực tế học tập và giao tiếp hằng ngày của
học sinh .Tôi đã nghiên cứu và tham khảo ý kiến của tập thể giáo viên trong khối 2 và
đã tiến hành một số biện pháp nhằm rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng Việt cho
học sinh lớp 2B –Trường Tiểu học Trung Phụng như sau:
a. Biện pháp 1:Sử dụng Phương pháp quan sát:

Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục nhằm quan sát
giờ dạy của giáo viên và học tập của học sinh trên lớp đánh giá kết quả học tập của học
sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong giờ luyện nói của mỗi tiết học,
qua lời nói của học sinh với mọi người xung quanh mọi nơi, mọi lúc qua các bài tập
thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt in.
Cách thực hiện:
- Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định, giáo viên có thêm một quyển sổ ghi
chép những điều quan sát, nhận xét từng học sinh trong lớp. Đó là cuốn sổ: “Theo dõi
________________________________________________________________________

8


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

đánh giá hành vi, cử chỉ, lời nói học sinh”. Trong cuốn sổ này, giáo viên ghi chép những
hành vi, lời nói giao tiếp, những thói quen và cả những khuyết điểm còn khiếm khuyết
của học sinh, để từ đó có cái nhìn khái quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của
học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng học sinh giỏi
và học sinh xuất sắc, luyện kĩ năng nói sao cho đạt trình độ chuẩn cho học sinh khá và
học sinh trung bình. Quan sát phản ánh khá trung thực tình trạng của học sinh.
- Ưu điểm của phương pháp này là: Sau khi phân loại học sinh, giáo viên chọn lọc
những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em phát
huy hết khả năng giao tiếp của bản thân trong phần luyện nói của tiết học môn tập đọc
và các môn khác trong chương trình.
b. Biện pháp 2: Sử dụng Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Qua những ghi chép cá nhân của giáo viên và những số liệu thống kê, giáo viên
xử lý những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp những mẫu lời nói thu thập
được từ phía học sinh. Từ đó có thể có sự đánh giá sát thực hơn về tình trạng học sinh.
Cách thực hiện:

- Giáo viên tiến hành phân nhóm học sinh theo những nhóm sau:
+ Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong
giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương trình trong các
giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng
Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói trên lớp.
+ Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên chưa thể hiện
được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
+ Nhóm học sinh ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém.
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh trong
lớp, giáo viên tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối
tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
Ưu điểm của biện pháp này là: Sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập của
học sinh là việc làm hết sức bổ ích và mang tính khả quan. Như ta từng nói: “Học thày
không tày học bạn”.
Sự phấn khích trong quá trình học tập, học thầy, đua bạn sẽ giúp trẻ mạnh dạn,
năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn nói.
Sự cổ vũ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp trẻ tự tin hơn trước
lời phát biểu của mình.
c. Biện pháp 3:Sử dụng Phương pháp thực hành luyện tập:
________________________________________________________________________

9


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Với phương pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện tập “nói”
trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp của các em ngày
càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời văn thể hiện biểu cảm
rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác khả năng học tập của học sinh.

Cách thực hiện:
Các bài thực hành rèn luyện kĩ năng nói ở lớp 2:
 Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn:
Ở phần này, giáo viên chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các từ tiếng
khó cần rèn luyện đọc trong phần luyện đọc ở tiết 1.
Lập danh sách những học sinh phát âm chưa chuẩn, để rèn cho các em trước hết
phải phát âm đúng chính xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra
những ý kiến riêng của bản thân và lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên,
trong sáng.
Cách tiến hành: Giáo viên lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm
sai chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác. Điều
quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn và chính xác.
Đa số học sinh trong lớp 2B các em thường phát âm sai dấu hỏi, dấu ngã,vần
anh,oa, âm l/n.
Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc tôi luôn quan
tâm lựa chọn những từ ngữ có chứa dấu hỏi, ngã, nặng, vần anh, oa Bên cạnh đó, tùy
theo nội dung của bài học, tôi đưa ra những trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui
chơi thoải mái
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
Thi đọc nhanh và đúng
Câu có âm đầu, vần, thanh dễ lẫn
Chuẩn bị:
Giáo viên và học sinh có thể tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ, câu văn có
những cặp âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do đặc điểm của cách phát âm ở địa
phương) rồi ghi vào mảnh giấy “làm đề bài” thi đọc trong nhóm.
Cách tiến hành:
- Đưa ra từng “đề bài” để lần lượt từng người đọc to trước các bạn. Nhóm cử ra
một người theo dõi và đánh giá, hoặc cả nhóm cùng nghe và thống nhất đánh giá kết

________________________________________________________________________


10


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát âm đúng (có thể xếp loại theo 3 loại
A, B, C)
- Khi đọc xong tất cả “đề bài”, thống kê từng loại A, B,C để chọn ra các bạn đạt
giải nhất, nhì, ba. Cả nhóm có thể bình chọn để tuyên dương bạn nào sưu tầm (hoặc tự
nghĩ ra) được nhiều câu hay, có nhiều tiếng mang cặp âm đầu, vần, thanh dễ lẫn.
Ví dụ minh họa:
1. Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn
a) Phân biệt l/n:
+ Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
+ Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng
+ Anh ta leo lên lưng chim, chim đập cánh ba lần không lên nổi.
b) Phân biệt ch/tr
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón là nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
c) Phân biệt s/x
Anh bộ đội xúng xính trong bộ quần áo mới, vai súng nom thật oai vệ
d) Phân biệt ac/at
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Lúa nặng hạt sây bông trên cánh đồng mênh mông bát ngát

2. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn (Thanh hỏi/ thanh ngã)
Tôi đi qua ngõ thấy nhà bạn cửa còn bỏ ngỏ
Cây đã đổ, những chú chim chẳng còn nơi đến đỗ
Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ đến
những người thân ở quê.
3. Đọc phân biệt các tiếng có vần dễ lẫn
________________________________________________________________________

11


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

a. Phân biệt anh/âng
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh trưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi
b. Phân biệt ươn/ương
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư
b.Loại bài tập tình huống:
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn ngữ nói.
Chương trình SGK mới đặc biệt đã tạo điều kiện cho học sinh lớp 2 được thực hành rất
nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở các bài học tập đọc, kể chuyện và tập
làm văn, luyện từ và câu học sinh được chơi đóng vai, đóng kịch kể lại. Theo từng chủ
đề của bài học, học sinh được tham gia chơi đóng vai ông bà, cha mẹ và các cháu nhỏ,
người bán hàng, người mua hàng…để luyện tập các nghi thức của lời nói (chào hỏi khi
gặp mặt, chia tay; nói lời cảm ơn, xin lỗi; yêu cầu đề nghị một việc gì…). Hoạt động
này là một cách luyện tập phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa phát
triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Với loại bài tập này, hình
thức tổ chức lớp học sẽ thay đổi, không còn tính chất “cổ điển”. Chương trình Tiếng

Việt tiểu học mới chú trọng đến loại bài tập tình huống để học các nghi thức lời nói và
phát triển khẩu ngữ.
Cách tiến hành:
Trước hết để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên
cứu nội dung của bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội
dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Với từng nội dung của bài
luyện nói, giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo đưa ra những tiểu phẩm, tình huống ngắn gọn
phù hợp với nội dung bài để học sinh tập sắm vai thể hiện ngôn ngữ của bản thân thật tự
nhiên, trong sáng…
Ví dụ: Trò chơi về Tập làm văn
Chọn lời cho đúng
Chuẩn bị:
- 4 tranh ảnh (hoặc hình vẽ) minh họa 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời cảm
ơn và lời đáp lại lời cảm ơn:
+Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới để xách giúp
+Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy.
________________________________________________________________________

12


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

+Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn chiếc bút chì.
+Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống
- 1 túi sách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống
- GV làm trọng tài, cử hai học sinh trong lớp giúp việc cho trọng tài.
- Chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm ít nhất 8 học sinh); phân công 2 học sinh tham
gia 1 tình huống của trò chơi
1. Nêu cách chơi và tính điểm:

Mỗi nhóm cử hai học sinh tham gia trò chơi ở tình huống thứ nhất. Học sinh tham
gia trò chơi bước lên trước bảng lớp để các học sinh khác tiện theo dõi.
Học sinh đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống
đã cho trong khoảng 1 phút.
Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho hai nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai bạn gái
đang xách một cái túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một em đóng vai bạn trai đến
bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái.
Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ
thôi mà!”.
+ Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, trọng tài yêu cầu
hai học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong nhóm để cả lớp cùng nghe lại
và bình chọn lời nói đúng.
+ Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên
2. Thực hành chơi
- 4 học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống thứ nhất đến tình huống thứ tư
theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống thứ nhất thì
nhóm cử 2 học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở
4 tình huống.
Lưu ý: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kết hợp cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ để thể hiện
lời nói của mình với từng tình huống giao tiếp khác nhau.
c.Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại:
Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện cùng nhau, trả lời phỏng vấn,lời
chúc mừng, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình
Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui).
Chuẩn bị:
________________________________________________________________________

13



Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

- Giáo viên cần đưa ra các tình huống phù hợp giúp các em sắm vai vào các tình
huống được dễ dàng và thuận tiện.
- 3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh họa 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc
mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
* Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Giải nhất viết chữ đẹp”; một bạn
tặng hoa chúc mừng bạn đoạt giải.
* Bạn trai tay ôm quả bong, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Đội vô địch”;
một bạn gái đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch.
* Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn trai là
tiêu đề cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”; một em mang hoa lên tặng bạn trai được giải
thưởng và nói lời chúc mừng.
- Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 em đóng
vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh.
- GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp trọng tài làm việc.
Cách tiến hành:
1. Nêu cách chơi và tính điểm.
Ví dụ: 2 học sinh đại điện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một học sinh đóng vai bạn
gái đoạt giải nhất trong kỳ thi “Viết chữ đẹp” của trường. Một học sinh đóng vai bạn gái
lên chúc mừng bạn được giải và nói: “Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm!” rồi xiết chặt
tay bạn. Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”.
2. Thực hành trò chơi:
- 3 nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống cuối
theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì
nhóm lại cử hai học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như
vậy ở 3 tình huống.
- 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của hai bạn tham gia trò chơi ở từng
tình huống, mỗi học sinh giúp việc trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai
chúc mừng hoặc vai đáp lời chúc mừng).

- Sau mỗi tình huống, trọng tài nhận xét từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã
chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài công bố nhóm hay nhất để khen
thưởng.
c.

Loại bài tập kể chuyện:

(Kể chuyện đã nghe, đã đọc, kể chuyện về bản thân và những người xung
quanh…)
________________________________________________________________________

14


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Loại bài tập này được áp dụng ở phân môn kể chuyện. Cần chú ý hướng dẫn học
sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt
nẵm vững câu chuyện định kể.
Ví dụ: Phân vai dựng chuyện
Chuẩn bị:
GV lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng lại câu chuyện
(Trong SGK Tiếng Việt lớp 2); có thể dựa vào văn truyện kể ở SGK, soạn thành “Màn
kịch ngắn” như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn
trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo
dựng bài trí khung cảnh…)
Ví dụ minh họa:
Câu chuyện Những quả đào, Tiếng Việt 2, Tập 2, Trang 91 có thể được dựng lại
thành kịch bản cho màn kịch ngắn như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng
lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ, hành động của

nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh…)
Những quả đào
Nhân vật:
- Ông
- Bà
- Cậu bé Xuân
- Cô bé Vân
- Cậu bé Việt
Cảnh 1:
(Bà và các cháu Xuân, Vân, Việt đang ngồi trò chuyện trên ghế băng. Ông vừa đi
xa về, từ ngoài cửa đi vào, trên tay cầm 4 quả đào: một quả to, 3 quả nhỏ)
Ông (đưa quả đào to cho bà, 3 quả nhỏ chia cho 3 cháu):
- Quả to này xin phần bà. Ba quả nhỏ chia cho 3 cháu.
Cảnh 2:
(Khung cảnh trong nhà vào buổi chiều, cả nhà ngồi trên 5 chiếc ghế quây quanh
bàn).
Ông (Hỏi các cháu):
- Thế nào, các cháu thấy đào có ngon không?
________________________________________________________________________

15


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Xuân:
- Đào có vị rất ngon và mùi thật là thơm, ông ạ. Cháu đã đem trồng vào một cái
vò. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ mọc thành một cây đào to đấy ông nhỉ?
- Ông (mỉm cười, gật đầu, vẻ hài lòng):
- Ừ, mai sau cháu sẽ làm vườn giỏi đấy!

Vân (Nói với ông, vẻ tiếc rẻ):
- Đào ngon quá, cháu ăn hết mà vẫn thèm. Còn hạt thì cháu vứt đi rồi ông ạ.
Ông (xoa đầu Vân nhẹ nhàng, cười độ lượng):
- Ôi, cháu của ông còn thơ dại quá!
(Lúc này, Việt chỉ chăm chú vào chiếc khăn trải bàn, không nói gì)
Ông (Nhìn Việt vẻ ngạc nhiên, hỏi):
- Còn Việt? sao cháu chẳng thấy gì thế?
Việt (hơi bẽn lẽn nhưng giọng nói tỏ vẻ rất vui):
Cháu ấy ạ? Cháu mang đào cho bạn Sơn. Bạn ấy bị ốm. Nhưng bạn ấy lại chẳng
muốn nhận quả đào cháu tặng. Cháu lén đặt quả đào lên giường bạn ấy rồi trốn về ông
ạ.
Ông (thốt lên phấn khởi, xoa đầu Việt một cách âu yếm):
Ôi chao, cháu yêu quý của ông, cháu là người có tấm lòng thật là nhân hậu. Ông
rất hài lòng về việc làm của cháu đấy!
* Một số đồ vật phục vụ cho việc bài trí khung cảnh và diễn xuất:
- 1 chiếc ghế dài (cảnh 1); 1 chiếc bàn tròn (hoặc chữ nhật) và 5 chiếc ghế đơn
(ghế đẩu hoặc ghế tựa); 4 quả đào thật hoặc đào giả bằng nhựa (1 quả to, 3 quả nhỏ).
- Quần áo cho học sinh đóng vai người ông, vai người bà(nếu có), (có thể hóa
trang về râu, tóc cho phù hợp); trang phục thích hợp tính cách từng nhân vật: Vân (ngây
thơ, hồn nhiên), Việt (hiền từ, nhân hậu), Xuân (cẩn thận, chu đáo).
Cách tiến hành:
GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình
cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng nói…) của nhân vật trong chuyện.
Học sinh trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; GV cho cả lớp nhận xét, bình
chọn những học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng.
d.Loại bài tập nói theo cảm nghĩ.
________________________________________________________________________

16



Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Loại bài tập này thường được thực hiện ở câu hỏi cuối cùng
một số bài tập đọc.

của

Ví dụ:
Câu hỏi 5 trang 134 SGK tiếng việt 2: “Hãy đoán xem bác Nhân sẽ nói gì với
bạn nhỏ ấy nếu bác biết vì sao hôm đó đắt hàng?’’
Hoặc câu hỏi 3 trang 137 SGH tiếng việt 2: “Theo em vì sao đàn bê yêu quý anh
Hồ Giáo như vậy?”
Với những câu hỏi này là dạng câu hỏi suy luận ,thoát ly sách vở,nói theo ý hiểu.
muốn cho học sinh trả lời tốt câu hỏi, Giáo viên nên tổ chức cho học sinh suy nghĩ độc
lập trong một thời gian nhất định sau đó gọi học sinh khá giỏi trả lời trước,giáo viên sửa
chữa, uốn nắn,tiếp theo gọi học sinh trung bình,học sinh yếu sao cho nhiều học sinh
được trả lơì theo ý hiểu, giáo viên nhận xét, động viên khen ngợi học sinh.
d. Biện pháp 4: Tổ chức dạy học tạo hứng thú cho học sinh:
Với học sinh tiều học ,nhất là học sinh đầu cấp, việc rèn cho học sinh kĩ năng nói
là việc làm vô cùng cần thiết.Vì vậy, để giờ dạy đạt hiệu quả cao,diễn ra nhẹ nhàng và
vui tươi giáo viên cần lựa chọn hình thức luyện tập phù hợp đối tượng học sinh và phù
hợp với nội dung của từng bài tập nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh.
Ví dụ : Tổ chức nhóm lớn, nhóm đôi, thi tiếp sức, nói cá nhân
Trong quá trình học sinh nói,trả lời, giáo viên quan sát đôn đốc, phát hiện những
em nói chưa tốt để tổ chức cho học sinh nhận xét và sửa chữa.
- Giáo viên nên tuyên dương, khen thưởng động viên kịp thời những em nói có
tiến bộ tạo hứng thú và động lực cho các em.
-Khi giáo viên đọc hoặc nói cho học sinh viết hoặc nghe, giọng đọc rõ ràng,phát

âm chuẩn, tốc độ đọc vừa phải, diễn cảm
-Việc tổ chức cho học sinh nhận xét ,bổ sung cho bạn cần được thực hiện đầy đủ,
có hiệu quả để học sinh tự nhận ra lỗi của mình và tự hoc bạn tạo sự tự tin cho học
sinh.
- Sau khi đọc hoặc nói xong ,giáo viên cần phân ra các nhóm như : nói tốt, có
biểu cảm, nói chậm, để nhận xét ,tuyên dương các nhóm tạo không khí thi đua cho
học sinh.
- Để giúp học sinh nói tốt giáo viên phải lựa chọn và phối hợp các hình thức tổ
chức học tập khác nhau trong lớp học để tạo nên sự mềm dẻo, linh hoạt và sinh động
cho quá trình dạy học, đồng thời giáo viên có thể sử dụng nhiều biện pháp và phương
________________________________________________________________________

17


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

pháp dạy khác nhau nhất là phần luyện nói. Từ đó tạo cơ hội cho học sinh đều được
tham gia vào hoạt động học tập, tạo cho học sinh cách làm việc tập thể theo nhóm,
cách chủ động tự tin trình bày ý kiến cá nhân từ đó tạo nên môi trường học tập thuận
lợi cho học sinh. Sau đó tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để tiết học thêm phong
phú và khắc sâu kiến thức rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ ,nói thoát li sách vở cho học
sinh:
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Giáo án minh họa: Giáo án phân môn Tập làm văn
Tập làm văn
Tiết 4:

Cảm ơn, xin lỗi


I. Mục tiêu
- Biết nói lời cảm ơn xin lỗi phù hợp với tình huống giao tiếp đơn giản.
- Biết nói 3, 4 câu ngắn về nội dung bức tranh, trong đó có dùng lời cảm ơn hay
xin lỗi thích hợp.
- HS yêu thích môn học.
II. Các hoạt động dạy học
TG Nội dung
3’

28’

Hoạt động của GV

Hoạt động của GV

A. Kiểm - GV yêu cầu 2 HS kể lại chuyện Kiến -HS kể trước lớp
tra bài và chim gáy.

2 HS đọc danh sách 1 nhóm HS trong - Nêu danh sách các bạn
tổ học tập.
trong nhóm học tập của
- GV gọi HS nhận xét.
mình
B.
Bài -GV nhận xét
mới
1. Giới
thiệu bài

- GV nêu mục tiêu của tiết học


- HS ghi đầu bài vào vở

2.Hướng
dẫn làm
- Gọi HS đọc yêu cầu của bài
bài tập
* Bài tập - GV nêu từng tình huống
1
-GV phân cho các nhóm ở 3 tổ mỗi tổ

- Nói lời cảm ơn

________________________________________________________________________

18


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

nói một tình huống
-GV gọi các nhóm trình bày

-HS Trao đổi theo nhóm
đôi,

- Cả lớp và GV nhận xét, khen những -Nói những lời cảm ơn phù
HS biết nói lời cảm ơn lịch sự, hợp với hợp với tình huống a, b, c
tình huống.
- Nhiều em nối tiếp nhau

nói lời cảm ơn
a) Với bạn đi chung áo mưa.
(Thái độ chân thành, thân mật)

b) Với cô giáo cho mượn sách.
(lễ phép, kính trọng)
c) Với em bé nhặt hộ chiếc bút
(nói lời thân ái )
*Bài tập
2 (trang - Gọi HS đọc yêu cầu của bài
38)
- Bài yêu cầu gì?
- GV nêu từng tình huống

- Cảm ơn bạn nhé!
Hoặc: May quá, không có
bạn thì mình ướt hết!..
- Em cảm ơn cô ạ!
Hoặc: Em xin cảm ơn cô!..

- Em ngoan lắm! Anh (chị)
cảm ơn em nhiều

- Nói lời xin lỗi
- HS trao đổi theo cặp

- Cả lớp và GV nhận xét, khen những
HS biết nói những lời xin lỗi thành
- Đại diện các nhóm nói lời
thực, hợp tình huống.

xin lỗi
a) Với người bạn bị em lỡ giẫm vào
chân.
- Tương tự các tình huống còn lại
- Xin lỗi bạn, mình vội

* Bài tập
- GV gọi HS đọc yêu cầu
3 (38 )
- Bài yêu cầu gì?

- GV nêu yêu cầu và hướng dẫn HS
quan sát tranh .

quá./ Bạn có đau không?
Cho mình xin lỗi nhé!...
- Con xin lỗi mẹ, con đã sai
rồi.
- Cháu xin lỗi cụ.

-GV hỏi tranh vẽ gì?
-HS xem việc gì xảy ra. Sau đó đoán
________________________________________________________________________

19


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

việc trong mỗi tranh bằng 3, 4 câu. Nhớ

dùng lời cảm ơn hay xin lỗi thích hợp.
-GV tổ chức cho HS thảo luận theo cặp
-GV gọi đại diện các cặp nói

- HS quan sát từng tranh

-GV cho HS làm bài vào vở

trong SGK và trả lời

-GV gọi HS đọc bài làm của mình, HS
khác nhận xét
- GV nhận xét

* Bài tập HS đọc yêu cầu
Bài yêu cầu gì?
4 ( 38 )

-HS thi đua trả lời miệng
nội dung từng tranh.

- HS làm vở

- GV cho HS chọn nội dung1 trong 2 - Đổi vở cho bạn, nhận x
bức tranh để kể lại nội dung từng tranh
- GV gọi mỗi làn 5 HS lên thi nhìn
tranh kể bằng lời của mình .
-GV phân công trọng tài và nhận xét

- Nhiều em kể, nhận xét


+ Tranh 1: Sinh nhật Hà,
-GV nhận xét bổ sung và khen ngợi
mẹ tặng Hà một con gấu
những HS có tiến bộ.
bông thật đẹp. Hà vui
3. Củng

sướng nói:
- GV chốt kiến thức:
- Biết nói lời cảm ơn xin lỗi phù hợp
với tình huống giao tiếp đơn giản trong
thực tế cuộc sống.

- Con cảm ơn mẹ!

+ Tranh 2: Chẳng may Tú
làm vỡ lọ hoa.Tú vội
khoanh tay:
- Con xin lỗi mẹ.

4’

- GV nhận xét giờ học,
- Dặn dò: Ôn lại bài
3.3.Kết quả đạt được của thực nghiệm khoa học:

________________________________________________________________________

20



Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Qua một số phương pháp luyện nói cho học sinh đã nêu ở trên, tôi đã thu được
những kết quả trong dạy học như sau:
Đa số học sinh trong lớp có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt
như: các em nhận thức được cần phải lễ phép với người trên, phải xưng hô đúng cách,
phải biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc. Khi giao tiếp với thầy
cô giáo trong trường theo đúng nghi thức, hầu hết học sinh đều biết sử dụng lời nói biểu
cảm để bày tỏ sự lễ phép của mình.
Trong tất cả các giờ học trên lớp, học sinh đã biết trả lời các câu hỏi của giáo viên
với nội dung đầy đủ ý nghĩa, biết cách trả lời câu hỏi một cách rõ ràng, trả lời cả câu…
Việc giao tiếp với bạn bè trong lớp cởi mở, tự tin hơn rất nhiều.
+ Các giờ học diễn ra sôi nổi, nhẹ nhàng thu hút được sự chú ý của học sinh đến
tận cuối giờ học .
+ Giáo viên không phải gò bó học sinh tiếp thu kiến thức mà học sinh chủ động,
hào hứng, tự tin trong học tập .
+ Các hình thức dạy học này có thể áp dụng ở nhiều môn học khác và các khối
lớp khác mà vẫn có thể đạt hiệu quả cao .
Bảng thống kê khả năng nói – giao tiếp của học sinh lớp 2B đến cuối học kỳ
II năm học 2015-2016
Khả năng

Số học sinh

Tỷ lệ %

Nói tốt,có biểu cảm


20

62,5

Nói to rõ ràng

10

31,2

Nói đủ câu

2

6,2

- Qua quá trình thực hiện đề tài : “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiếng Việt
cho học sinh lớp 2B - Trường Tiểu học Trung Phụng” cho thấy:
-Kĩ năng nói và giao tiếp của học sinh tốt hơn so với đầu năm
-Kết quả học tập môn Tiếng Việt và các môn học khác cũng tăng lên rõ rệt.
Cụ thể:
Trong đợt kiểm tra cuối năm học 2015-2016 phòng GD Quận kiểm tra khảo sát chất
lượng môn Tiếng Việt lớp 2B kết quả như sau:
Lớp Sĩ số

Xếp loại môn Tiếng Việt
9 - 10

2B


32

7-8

5-6

4-3

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

18

56,2

9


28,1

4

12,5

0

0

________________________________________________________________________

21


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

Kết quả học lực cuối năm của lớp 2B như sau:
TSHS

Lực học
9 - 10

32
Học kì II

7-8

5-6


4-3

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

20

62,5

8

25

4

12,5


0

0

- Kêt quả khảo sát chữ đẹp cuối năm do PGD khảo sát lớp 2B có 30 em đạt chữ
loại đạt = 93,7 % .
Trong cuộc thi chữ đẹp cấp Quận lớp 2B có một em tham gia và đạt giải 3
cấp Quận.

III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận chung:
Rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo
dục toàn diện cho học sinh. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải
không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi
của học sinh. Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phối hợp linh hoạt các
phương pháp và có các hình thức dạy học tạo không khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi
để học sinh tiếp thu bài học với hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha
mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp
học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh, lịch
sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Có thể nói, việc áp dụng một số hình thức dạy học khi hướng dẫn cho học sinh
làm bài tập là một việc làm rất thiết thực. Nó giúp cho người giáo viên thể hiện được tài
năng sư phạm của mình đồng thời giúp cho học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp
thu kiến thức. Để đạt được hiệu quả như mong muốn,yêu cầu mỗi học sinh:
khi làm việc theo nhóm phải tích cực suy nghĩ động não, tránh ỷ lại các bạn nhóm
trưởng. Tuy nhiên, đối với học sinh còn chậm, tự kỷ, học sinh yếu kém cần phải có sự hỗ
trợ tích cực của các bạn trong nhóm.
Khi tham gia chơi tránh hò hét quá to ảnh hưởng tới các lớp học xung quanh.
2.Khuyến nghị:
________________________________________________________________________


22


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

* Đối với giáo viên :
+ Phải đọc kỹ sách giáo khoa , sách hướng dẫn để nắm chắc mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học từ đó sẽ có sự lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp và chuẩn
bị ĐDDH đầy đủ.
+ Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng
dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng
sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực, chính xác, trong sáng.
+ Khi thiết kế bài giảng, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng hệ thống câu hỏi gợi ý
phù hợp từng đối tượng học sinh, đặc biệt chú trọng tới học sinh còn chậm, tự kỷ, học
sinh yếu kém.
+ Khi thực hiện giáo viên phải phân tích kỹ nội dung, yêu cầu của từng bài để học
sinh không lúng túng ( đối với bài quá khó có thể làm mẫu cho học sinh )
+ Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức để tránh nhàm chán cho học
sinh .
+ Khi tổ chức hình thức trò chơi cần đánh giá công bằng, chính xác, không nên có
thái độ thiên vị. Giáo viên cũng nên động viên, khuyến khích để các em học sinh còn
chậm, tự kỷ, học sinh yếu kém có điều kiện hoà đồng, tích cực tham gia học tập cùng với
các bạn trong lớp.
+Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp tốt với gia đình học sinh để trao đổi
cùng có biện pháp rèn tré giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày.
* Đối với nhà trường và xã hội:
1.Từ khi trẻ bập bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình phải luôn lưu
tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói của con em mình. Các cụ đã dạy “Uốn cây từ thuở còn
non”. Không những thế, người lớn còn là tấm gương cho trẻ noi theo.

2.Khi trẻ bắt đầu đến trường, thì cùng với gia đình, nhà trường và xã hội cần giáo
dục trẻ ngay từ những thói quen trong giao tiếp mạnh dạn, tự tin, thanh lịch văn minh,
thể hiện tác phong, tư cách đạo đức con người có văn hóa. Do đó sự phối kết hợp ăn ý
nhịp nhàng giữa nhà trường và gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết.
*Với phòng giáo dục và đào tạo:
Hằng năm có thể tổ chức các buổi giao lưu học sinh “văn minh –thanh lịch ”để
học sinh được học tập lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết và kĩ năng sống .
Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng nói qua các giờ học Tiếng Việt cho học
sinh lớp 2B –Trường Tiểu học Trung Phụng mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng trong năm
học qua .Tôi tin rằng, nếu mõi giáo viên luôn chú ý thực hiện các biện pháp trên một cách
________________________________________________________________________

23


Đề tài ; “Rèn kĩ năng nói qua các môn học Tiêng Việt cho học sinh lớp 2”

liên tục , thường xuyên vả phù hợp trong các tiết dạy thì chắc chắn sẽ thu những kết quả
như mong muốn.
Trong quá trình viết và trình bày đề tài không tránh khỏi những thiếu sót .Tôi rất
mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2016

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Nguyễn Thị Huyền

________________________________________________________________________

24


×