Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số điểm cần lưu ý khi phiên dịch từ việt gốc Hán sang tiếng Hàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 6 trang )

Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

Tháng 11/2014

MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý
KHI PHIÊN DỊCH TỪ VIỆT GỐC HÁN SANG TIẾNG HÀN
Park Ji Hoon
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t t: Trong xu thế hội nhập, ngày càng nhiều
người Hàn thấy cần thiết học tiếng Việt và tiếp cận
ngôn ngữ và văn hoá Việt tại các cơ sở ñào tạo, trung
tâm dạy tiếng Việt. Tuy nhiên trong quá trình người
Hàn học tiếng Việt như một ngoại ngữ, mắc lỗi là một
ñiều không thể tránh khỏi vì giữa hệ thống tiếng Việt và
tiếng Hàn có sự khác biệt nhiều hơn sự tương ñồng.
Về từ vựng, những từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng
Hàn có thể giúp người học một cách dễ dàng tiếp thu
và áp dụng nhưng ñồng thời có thể mắc lỗi nội ngôn
như vượt tuyến theo suy luận về kiến thức từ Hàn gốc
Hán khi dịch những từ Việt gốc Hán. Bài viết trình bày
một số lỗi sai khi người Hàn dịch từ Việt gốc Hán sang
tiếng Hàn và ñưa ra một số ý kiến ñể tránh những lỗi
sai dựa trên phân tích trong quá trình giảng dạy môn
dịch Việt-Hàn dành cho sinh viên Hàn Quốc Khoa Việt
Nam học, Trường Đại học Hà Nội.

1. Nhập ñề
Trong xu thế hòa nhập, một trong những hoạt
ñộng tích cực ñể kết nối thế giới, ñóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình truyền bá kiến thức và
văn hóa, giao lưu giữa các dân tộc là công tác


phiên dịch. Trên thực tế, cho ñến nay giới chuyên
môn vẫn chưa ñạt ñến một sự nhất trí hoàn toàn về
khái niệm phiên dịch. Tuy nhiên, theo cách hiểu
ñược thừa nhận rộng rãi nhất thì phiên dịch là một
kỹ năng chuyển ý nghĩ của người nói bằng một
ngôn ngữ khác của người nghe trên cơ sở tương
ñương (equivalance)1. Để chuyển nghĩa một cách
chính xác, người phiên dịch phải ñủ trình ñộ hiểu
hai ngôn ngữ - nghĩa là phải có ñủ kiến thức về
ngôn ngữ gốc (ngôn ngữ xuất phát: source
1

Lí thuyết về sự tương ñương trong dịch thuật có thể
tham khảo các công trình của Catford (1965;27), Nida &
Taber (1964;159), Baker (1998;77). Trong ñó, Nida lập
luận rằng có hai hình thức tương ñương là tương ñương
hình thức (formal equivalance) và tương ñương chủ ñộng
(dynamic equivalance).

language) và ngôn ngữ ñích (ngôn ngữ mục tiêu:
target language) và hiểu rõ về những ñiểm khác
biệt của hai ngôn ngữ này. Mỗi ngôn ngữ có cấu
trúc và hệ thống riêng của nó nên người dịch phải
ñứng ở góc ñộ của người nghe, tránh quan ñiểm
cưỡng chế, dịch từng từ (word by word) và tránh
ñưa sự can thiệp của tri thức tiếng mẹ ñẻ vào quá
trình dịch.
Hiện nay, những công trình nghiên cứu về dịch
tiếng Anh, Pháp, Trung, Nhật... sang tiếng Việt thì
tương ñối nhiều nhưng về nghiên cứu phương

pháp dịch hai ngôn ngữ Việt-Hàn thì hầu như
chưa có. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
không thể nêu ra hết các vấn ñề nảy sinh trong quá
trình dịch Việt-Hàn, mà chỉ giới hạn phạm vi khảo
sát một nhóm các từ Việt gốc Hán mà sinh viên
học tiếng Hàn hay mắc lỗi khi dịch.
2. Đặc ñiểm của từ gốc Hán trong tiếng Việt
và tiếng Hàn
Trong kho từ vựng của tiếng Việt và tiếng Hàn,
hiện còn lưu giữ một khối lượng khá lớn từ gốc
Hán. Từ gốc Hán là hệ quả của sự ảnh hưởng tiếp
xúc tiếng Hán và chữ Hán. Vay mượn từ vựng là
hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Nó không
những bổ sung, làm giàu thêm vốn từ của ngôn
ngữ vay mượn mà còn giúp chúng ta hiểu thêm
những khái niệm trong nhiều lĩnh vực (văn hóa,
khoa học, kĩ thuật…). Đặc ñiểm chung của những
từ Hán Việt và Hán Hàn là tồn tại khá nhiều dị
biệt về cách ñọc, sắc thái ý nghĩa... bởi trong quá
trình tiếp xúc với ngôn ngữ Hán, từ gốc Hán trong
tiếng Việt và tiếng Hàn ñều chịu sự chi phối nhất
ñịnh của hệ thống qui tắc ngôn ngữ của từng nước,
cho phù hợp ngôn ngữ vay mượn.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong lớp từ gốc Hán
trong tiếng Việt và tiếng Hàn cũng có ít nhiều
tương ñồng về hình thức cấu tạo, ngữ nghĩa và
thậm chí cách ñọc na ná nhau như “chính trị (<政
471



Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài

c ̒i/)”, “kinh tế (<經濟. 경제/ki̯əŋ ce/)”,
“văn hóa (<文化. 문화/mun hu̯a/)”... Nhưng cần
phải nói ngay rằng, những trường hợp này xuất
hiện rất ít. Chúng chủ yếu là những từ do người
Nhật sáng tạo vào thời cận ñại và một số trường
hợp vay mượn từ những tư tưởng Trung Quốc cổ
ñại. Trên bình diện ngữ âm, Hán Việt phản ánh
âm Hán Trung cổ - âm thời cuối ñời Đường
(khoảng thế kỉ VIII-IX) và Hán Hàn phản ánh âm
Hán Trung cổ - hệ thống Thiết vận ñời Tùy Đường (khoảng thế kỉ VI-VIII). Như vậy, cũng có
thể hiểu rằng cách ñọc Hán Việt và Hán Hàn
tương ñối một cách hệ thống. Song, nếu không tìm
hiểu cặn kẽ những sự phức tạp trong quá trình
hình thành cách ñọc từ gốc Hán trong tiếng Việt
và tiếng Hàn thì không thể giải quyết ñược những
trường hợp ngoại lệ. Trên bình diện ý nghĩa, có
thể nói, các từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng
Hàn ñều ñã trải qua một thời gian dài, ñi theo
nhiều chặng ñường khác nhau, ý nghĩa (sắc thái ý
nghĩa) của từ gốc Hán cũng diễn biến và hoạt
ñộng theo ngữ nghĩa của ngôn ngữ vay mượn nên
bên cạnh những trường hợp tương ñồng không thể
không có những trường hợp dị biệt.
治.정치/cəŋ

3. Lỗi trong quá trình dịch từ gốc Hán
Lỗi là một hiện tượng tích cực trong quá trình
học ngoại ngữ, thể hiện quá trình tìm hiểu ngôn

ngữ ñích và xây dựng hệ thống ngôn ngữ riêng
của người học ngoại ngữ.
Những lỗi người dịch từ Việt gốc Hán sang
tiếng tiếng Hàn thường mắc phải chủ yếu là do tri
thức về ngôn ngữ ñích của người dịch còn hạn chế.
Do ñó, người dịch mượn những tri thức ñã có
trong tiếng mẹ ñẻ hoặc mượn những tri thức ñã
biết về ngôn ngữ ñích ñể xử lí những trường hợp
họ không biết dịch sang ngôn ngữ như thế nào, vfa
khi bản thân họ cũng không rõ cách xử lí ñó có
ñúng hay không. Trong khi tập trung “chuyển ý
nghĩ”, họ quên ñi mất sự khác biệt giữa hai ngôn
ngữ về ngữ nghĩa cũng như khả năng hoạt ñộng
của từ. Vì thấy trong tiếng Hàn rất nhiều từ có
nguồn gốc từ tiếng Hán (hoặc chữ Hán) giống như
từ Việt gốc Hán nên người dịch hay lầm tưởng
472

những từ gốc Hán trong hai ngôn ngữ là “một”.
Trường hợp từ Hàn gốc Hán hoạt ñộng “y hệt” từ
Việt gốc Hán (cả về ngữ nghĩa, ngữ dụng và về
cách ñọc cũng na ná) không phải là không có,
nhưng người dịch luôn phải ý thức ñược rằng, quá
trình hình thành những từ gốc Hán trong hai ngôn
ngữ này là quá trình hết sức phức tạp.
3.1. Lỗi tự ngữ ñích (Intralingual error)
Lỗi tự ngữ ñích là loại lỗi xảy ra do sự can
thiệp (interference) các yếu tố của ngôn ngữ ñích.
Theo ñó, người học tiếng nước ngoài áp dụng
những qui tắc ngôn ngữ không chính xác và ñôi

khi vượt tuyến (overgeneralization) theo suy luận
(inference) trên cơ sở những kiến thức ngôn ngữ
ñích mà người học ñã biết từ trước ñể dịch.
Lỗi vượt tuyến trong khi dịch những từ gốc
Hán, có thể xảy ra trong trường hợp ñồng từ ñồng
nghĩa mà ñều ñược mượn từ cùng một từ (hoặc
cụm từ) với ý nghĩa giống nhau trong hai ngôn
ngữ: “giao thông” (< 交通 . 교통/ki̯o tʻoŋ/), “lãnh
thổ” (< 領 土 .영토/i̯əŋ tʻo/), “ngôn ngữ” (< 言
語 .언어/ən ə/), “quảng cáo” (< 廣 告 .광고/ku̯aŋ
ko/), “tốc ñộ” (<速度.속도/sok to/), “xu thế” (<趨
勢.추세/cʻu se/) v.v. là những từ trong trường hợp
một từ tiếng Việt tương ñương một từ tiếng Hàn.
Tuy nhiên, cần phải nói ngay rằng, những
trường hợp này rất ít so với những trường hợp
khác. Về nguyên tắc, các từ gốc Hán khi du nhập
vào tiếng Việt và tiếng Hàn ít nhiều ñều ñã bị thay
ñổi ý nghĩa, trật tự từ theo qui tắc mỗi ngôn ngữ.
Nhiều người dịch hay quên ñiều này nên khi gặp
một từ (hoặc cụm từ) gốc Hán mà mình chưa rõ
hoặc không biết thì ngay lập tức dịch từng chữ
một (có nghĩa là chỉ ñọc từng yếu tố tạo từ) theo
kiến thức cách ñọc chữ Hán của ngôn ngữ ñích mà
không nghĩ ñến những hoạt ñộng riêng của ngôn
ngữ ñích. Chẳng hạn, trường hợp dịch “thương
mại ( 商賣 )” sang “상매/saŋ mɛ/” là trường hợp
người dịch sáng tạo từ Hàn mới chỉ với kiến thức
cách ñọc Hán Hàn, không ñể ý ñến qui tắc cấu tạo
từ Hàn gốc Hán. Minh hoạ quá trình lỗi:



Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

Tháng 11/2014

Từ mới này là kết quả của việc người dịch
không biết từ “thương mại” trong ngôn ngữ ñích
(tiếng Hàn) nên chỉ dựa vào tri thức về âm Hán
Việt và Hán Hàn ñể dịch từng chữ một. Trên thực
tế, chữ “thương(商)” trong Hán Việt ñối ứng với
Hán Hàn là “상/saŋ/” còn “mại(賣)” là “매/mɛ/”.
Tuy nhiên, trường hợp này chỉ là một trường hợp
ngẫu nhiên chứ không phải là một kết quả có ñược
do người dịch ñủ kiến thức về từ gốc Hán trong
tiếng Hàn. Khi tiếng Việt dùng từ “thương mại”,
tiếng Hàn dùng từ “무역( 貿易 ) /mu i̯ək/ - mậu
dịch”, “교역(交易) /ki̯o i̯ək/ - giao dịch”, “통상(通
商 ) /t ̒ong sang/ - thông thương”, “상업( 商 業 )
/sang əp/ - thương nghiệp” theo từng trường hợp.

본권

- Trường hợp “bản quyển (版權)” dịch ra “
/pʻan ku̯ən/”
/pon ku̯ən/” (nếu dịch ñúng là “
著 作 權 /cə cak ku̯ən/ - trước tác
hay “
quyền”) là dịch yếu tố tạo từ không ñúng do sự
can thiệp của thói quen dịch những từ quen thuộc
như “nguyên bản ( 原 本 ) -> 원본 /u̯ən pon/”,

“Nhật bản ( 日本 ) -> 일본/il pon/”… và trường
hợp “hiệu ñính (校訂)” dịch ra “효정 /hi̯o cəŋ/”
(tiếng Hàn là “교정 /kiʢo cəŋ/”) do quen dịch
“hiệu” là “효 /hi̯o/” trong trường hợp các từ “hiệu
quả (效果) -> 효과 /hi̯o ku̯a/”, “hiệu lực (效力) > 효력 /hi̯oli̯ək/”…

저작권

판권

- Trường hợp “dân số (民數)” thành “민수 /min
su/” cũng là trường hợp sáng tạo từ mới. Tuy một
số trường hợp dịch “dân số” là “민수/min su/” như
“민수기 /min su ki/<民數記 - Dân số kí”- quyển
thứ 4 trong Kinh Cựu Ước hay “헌민수 /hən min
su/ <獻民數. hiến dân số” - việc ñiều tra hộ khẩu
thời ñại Triều Tiên… nhưng ñối với người Hàn
hiện nay, từ “민수/min su/” này là hoàn toàn mới.
Trong tiếng Hàn hiện nay, từ “dân số” tương
ñương với từ “인구/in ku/ <人口 - nhân khẩu”.
Cũng như vậy, “ñào tạo” tiếng Hàn là “양성/i ̯aŋ
səŋ/. 養 成 - dưỡng thành” chứ không phải là

“도조 /to co/. 陶造 - ñào tạo”. Trong tiếng Hàn,
“도조 /to co/. 刀俎. ñao trở” là từ cổ, với nghĩa
duy nhất chỉ “những nơi nguy hiểm’ và cũng ít
người Hàn biết nghĩa này.
- Ngoài ra, có một trường hợp rất ñặc biệt ‘dịch ñúng mà sai’. Ví dụ, có người dịch chưa biết
từ “nhập siêu” bằng tiếng Hàn là gì thì dịch là
“입초 /ip cʻo/”. Trường hợp này, người dịch chỉ

dịch từng từ một như “nhập(入)” sang “/ip/” và
“siêu (超)” sang “/cʻo/”.
Từ “nhập siêu” là hình thức viết tắt “nhập khẩu
siêu quá (入口超過)”. Nếu tra từ ñiển, tuy từ “nhập
siêu” cũng tồn tại trong tiếng Hàn với hình thức
“입초 /ip cʻo/” (thường kết hợp với từ “hiện
tượng” tạo thành cụm từ “입초현상入超現像 /ip
cʻo hi̯ən sang/”. Tuy hình thức là viết tắt của “thâu
nhập siêu quá ( 輸 入 超 過 )” nhưng từ này quá
chuyên môn nên ít người biết ñến nên ñã dịch
thành một từ hoàn toàn mới, ngay cả người Hàn
cũng không nhiều người sử dụng. Vì vậy, ñể thực
hiện mục ñích của phiên dịch, nên dịch “nhập
siêu” sang tiếng Hàn một cách phổ biến hơn như
“무역적자 /mu i̯ək cək ca/” (tùy trường hợp, có
thể dịch là “무역불균형 /mu i̯ək pul ki̯un hi̯əŋ/”
hoặc “수입초과/su ip cʻo ku̯a/”) thì tốt hơn. Từ
“nhập siêu” trong tiếng Việt tuy là một từ chuyên
môn duy nhất ñể diễn ñạt ý nghĩa “chỉ số nhập
khẩu vượt qua xuất khẩu; nhập khẩu nhiều hơn
xuất khẩu trong quá trình thương mại” nhưng từ
/ip
cũng là một từ hoàn toàn phổ biến. Còn “
cʻo/” trong tiếng Hàn thì ít ñược dùng hoặc phải
ñược hiểu sau khi nghiên cứu tổng thể các nội
dung rồi rút ra ý nghĩa của từ ñó. Đây là trường
hợp lỗi khi người dịch chỉ suy diễn từ một từ theo
kiến thức về cách ñọc chữ Hán của hai ngôn ngữ,
nhưng không ñể ý ñến những từ khác mà người
Hàn thường dùng. Hình dung như sau:


입초

473


Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài

Tiếng Việt

Tiếng Hàn
무역적자

(貿易

赤子- mậu dịch xích tử)
무역불균형

nhập
siêu

입초

(貿易不均衡 - mậu dịch bất quân hành)

(入超)
수입초과

(輸入超過 - thâu nhập siêu quá)


3.2. Lỗi giao thoa (interlingual error)
Lỗi giao thoa là loại lỗi sai giữa hai ngôn ngữ
mà xảy ra do sự can thiệp của những kiến thức mà
người dịch có trước về ngôn ngữ gốc (trong bài
này là tiếng Việt) và người dịch chuyển ñổi
(transfer) tức áp dụng những kiến thức của tiếng
mẹ ñẻ vào ngôn ngữ ñích (ở ñây là tiếng Hàn).
Khác với lỗi từ ngữ ñích, lỗi giao thoa khi dịch từ
Việt gốc Hán sang tiếng Hàn xảy ra trong trường
hợp người dịch nhầm lẫn các sắc thái nghĩa của từ
gốc Hán trong hai ngôn ngữ. Nói cách khác, người
dịch tuy có ñủ kiến thức về cách cấu tạo từ gốc
Hán nhưng “áp ñặt” nghĩa của từ gốc Hán trong
tiếng Việt vào tiếng Hàn. Lỗi này thường xảy ra
trong trường hợp ñồng từ dị nghĩa, ñồng nghĩa dị
từ và ñồng nghĩa nhưng trật tự cấu tạo ngược nhau.
- Trường hợp ñồng từ dị nghĩa là những từ gốc
Hán có nguồn gốc từ cùng một từ, nhưng sắc thái
và ý nghĩa của chúng lại khác nhau. Ví dụ, từ
“hợp ñồng” trong tiếng Việt có nghĩa là sự thỏa
thuận; giao ước giữa hai hay nhiều bên qui ñịnh
các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia.
“Hợp ñồng’ thường ñược viết thành văn bản. Thế
nhưng, “hợp ñồng 合 同 ” trong tiếng Hàn –
“합동/hap toŋ/” không có ý nghĩa như vậy mà chỉ
có ý nghĩa “cùng”, “cùng nhau” hay “chung”. Vì
vậy, nếu người dịch theo nghĩa của từ Việt gốc
Hán mà không ñể ý ñến sắc thái của từ Hàn gốc
Hán thì “hợp ñồng” sẽ thành “cùng nhau”. Từ
“hợp ñồng” tiếng Việt dịch sang tiếng Hàn phải là

“계약서 /ki̯e i̯aksə/.
- khế ước thư”. Cũng

契約書

474

như vậy, “ma túy (痲醉)” trong tiếng Việt là tên
gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ảo
giác như thuốc phiện, hêrôin… nhưng “마취/ma
cʻu̯i/ < 痲醉 - ma túy” trong tiếng Hàn có nghĩa
“gây mê”, “gây tê toàn bộ hoặc một phần cơ thể
ñể tiến hành phẫu thuật”. Trường hợp “cấp cứu
(急求)” dịch ra “급구 /kɨp ku/ <急求 - cấp cứu”
cũng như vậy. “Cấp cứu” có nghĩa “cứu nguy”,
“cứu sống”. Trong tiếng Hàn, từ gốc Hán có nghĩa
tương tự với “cấp cứu” của tiếng Việt là “응급 /ɨŋ
kɨp/ < 應急 - ứng cấp” - ñáp ứng (hoặc xử lí)
những trường hợp khẩn cấp còn “급구 /kɨp ku/ <
急求 - cấp cứu” trong tiếng Hàn có nghĩa “tìm người
một cách khẩn cấp” chứ không phải là “cứu sống”.

- Trường hợp “diễn ñàn (演壇)” và “연단 /i̯ən
tan/” có khác biệt một chút về trường nghĩa
(semantic field). “Diễn ñàn” có hai nghĩa: 1. Nơi
ñứng cao ñể diễn thuyết, phát biểu trước ñông
người (Platform) và 2. Nơi ñể cho nhiều người có
thể phát biểu ý kiến một cách công khai và rộng
rãi (Forum).”연단/i̯ən tan/” trong tiếng Hàn chỉ có
nghĩa (1) của “diễn ñàn” tiếng Việt. Vì vậy, nếu

dịch ý nghĩa thứ hai của “diễn ñàn” thì phải dùng
từ khác là “포럼/pʻo rəm/ hay “칼럼/cʻal rəm/< column (tiếng Anh)’ tùy
từng trường hợp.
- Trường hợp ñồng nghĩa dị từ là trường hợp
cùng nghĩa nhưng hình thức dùng từ khác nhau.
Ví dụ, “bộ trưởng” tiếng Hàn là “장관/caŋ ku ̯an/.
長官 - trưởng quan” chứ không phải là “부장 /pu
caŋ/. 副長 - bộ trưởng”. Cũng như vậy, “ñịnh cư”


Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

tiếng Hàn là “정착 /cəŋ c ̒ak/. 定着 - ñịnh trước”
chứ không phải là “정거/cəŋ kə/. 定居 - ñịnh cư”.
Như vậy, những trường hợp này ñược hiểu rằng
tuy tiếng Việt và tiếng Hàn ñều mượn cùng một
hình thức nhưng cách thể hiện trong trường ý
nghĩa là hoàn toàn khác nhau.
- Một ví dụ nữa, rất nhiều sinh viên dịch từ
“bảo dưỡng ( 保 養 )” sang tiếng Hàn là “보양
/poiʢaŋ/” khi họ chưa biết sự khác biệt ý nghĩa
“bảo dưỡng ( 保 養 )” trong tiếng Việt và “보양
/poiʢaŋ/ (保養)” trong tiếng Hàn. Từ “bảo dưỡng”
có thể dịch sang tiếng Hàn là “검사 /kəm sa/< 檢
査 - kiểm tra”, “검진/kəm cin/ < 檢診- kiểm chẩn”
hoặc “보수/po su/ < 補 修 - bổ tu”… tùy từng
trường hợp chứ không thể chỉ dịch thành
“보양/poiʢaŋ/” ñược. “보양/poiʢaŋ/” chỉ có nghĩa là
“chăm sóc, nuôi nấng” mà không có nghĩa “kiểm tra”

hay “bảo trì” như từ “bảo dưỡng” trong tiếng Việt.

- Trường hợp từ ñồng nghĩa nhưng trật tự cấu
tạo ngược nhau cũng một trường hợp người dịch
hay nhầm bởi tưởng rằng trật tự cấu tạo Hán Hàn
cũng giống trật tự cấu tạo của từ Hán Việt. “Đơn
giản” Hán Việt ñược thể hiện bằng “giản ñơn”,
“hạn chế” Hán Việt ñược thể hiện bằng “chế hạn”
trong Hán Hàn. Cũng như vậy, “ngoại lệ” Hán
Việt dịch là “lệ ngoại”, “triệu chứng” Hán Việt
phải dịch là “chứng triệu” thì người Hàn mới hiểu
ñược. Người dịch nói “외례 /Οri ʢe/. 外例 - ngoại
lệ” hay “외례 /Οri ̯e/. 外例 - ngoại lệ” là do ảnh
hưởng bởi tiếng mẹ ñẻ.

4. Phân tích lỗi
Có thể nói, lỗi là một hiện tượng tích cực thúc
ñẩy người dịch khám phá ngôn ngữ ñích. Những
hình thức lỗi này thường xảy ra khi tri thức ngoại
ngữ của người dịch ñang trong quá trình phát
triểnngjkhi tâm trạng mệt mỏi, không tập trung. Vì
vậy, quá trình phân tích lỗi có thể giúp cho người
dịch hiểu thêm một cách rõ hơn về ngôn ngữ ñích.
Dưới ñây, chúng tôi thử phân tích lỗi trong khi
dịch những từ gốc Hán của người dịch có tri thức
về Hán Việt và Hán Hàn.
Trường hợp lỗi dịch “thương mại” sang
“상매/saŋ mǫ/”, có thể phân tích như sau:

Tháng 11/2014


với “thương mại”.
- Trong quá trình dịch, người dịch không
phân tích ý nghĩa của từ và không nỗ lực tìm hiểu
từ tương ñương trong ngôn ngữ ñích.
- Người dịch thiếu kiến thức về chữ Hán
nhưng biết chuyển từ gốc Hán trong tiếng Việt
sang từ Hán Hàn dựa trên tri thức ngữ âm của
ngôn ngữ ñích.
Để tránh trường hợp như vậy, người dịch nên:
- Tìm hiểu thêm những từ tương tự hoặc cố
gắng giải thích ý nghĩa từ gốc nếu không biết hay
không nhớ tự ngữ ñích tương ñương. Ví dụ,
“thương mại” có nghĩa là ngành kinh tế thực hiện
lưu thông hàng hóa bằng mua bán; từ ñồng nghĩa
là “thương nghiệp”. Vì vậy, với ý nghĩa ñó, người
dịch có thể giải thích ñược bằng những từ khóa
(keyword) như “kinh tế”, “lưu thông hàng hóa”,
“mua bán”.
- Tìm hiểu kĩ ngữ cảnh. Từ “thương mại”
trong tiếng Việt có nghĩa hơi khác nhau tùy bối
cảnh xuất hiện như “Đại học thương mại’, “Ngân
hàng thương mại’, “Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam”, “Cục xúc tiến thương mại”...
- Tìm hiểu sâu về ñặc ñiểm của từ gốc Hán.
Trước hết, người dịch phải hiểu sự khác biệt quá
trình hình thành Hán Việt và Hán Hàn. Về mặt
ngữ âm, Hán Việt và Hán Hàn ñều phản ánh âm
Trung cổ Hán nhưng có nhiều ñiểm hết sức phức
tạp do thời ñiểm hình thành cách ñọc chữ Hán,

ñặc ñiểm riêng của hai ngôn ngữ Việt và Hàn, hệ
thống âm Trung cổ Hán,... nên người dịch cần
phải nắm ñược những sự khác biệt ñó và phải hiểu
cách ñọc chữ Hán. Ví dụ, “thương” Hán Việt có
thể dịch sang tiếng Hàn là “/saŋ/” ñược nhưng trên
thực tế, chữ “thương” Hán Việt ñối ứng với những
chữ 商, 傷, 倉, 凔... và trong ñó, chữ 倉, 凔 ñược
ñọc là “창/c ̒aŋ/” trong Hán Hàn. Tuy nhiên,
“thương” Hán Việt ñối ứng với “/saŋ/”, “mại” ñối
ứng với “/mɛ/” tiếng Hàn nhưng dịch “/saŋ mɛ/”
thì hoàn toàn không phù hợp với mục ñích dịch vì
người nghe không hiểu nên người dịch bỏ thói quen
chuyển từng chữ một khi gặp những từ gốc Hán.

- Người dịch không biết từ tiếng Hàn ñối ứng
475


Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài

Trường hợp lỗi dịch “chất lượng” sang
“질량/cil li ̯aŋ/”, có thể phân tích như sau:

- Người dịch biết trong tiếng Hàn có từ
“질량/cil li ̯aŋ/” dù không biết “chất lượng” tương
ñương với “질량/cil li ̯aŋ/” hay không.
- Người dịch không ñể ý trong tiếng Hàn có
từ ñối ứng với “chất lượng” là “품질/p ̒um cil/. 品
質 - phẩm chất” hoặc biết từ “품질/p ̒um cil/”
nhưng nhầm tưởng từ này tương ñương với “phẩm

chất” của tiếng Việt nên không chọn từ này.
Để tránh trường hợp như vậy, người dịch cần:
- Phân biệt rõ sự khác biệt giữa hoạt ñộng của
từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng Hàn. Người
dịch phải nhớ những trường hợp ñồng từ ñồng
nghĩa như “hạnh phúc”, “lãnh thổ”, “ñiện thoại”,
“quảng cáo”, “giao thông”... xuất hiện rất ít so với
trường hợp ñồng từ dị nghĩa hay ñồng nghĩa dị từ,
ñồng nghĩa nhưng trật tự yếu tố cấu tạo trong từ
khác nhau.
- Chú ý ñến nghĩa trước chứ không phải chú ý

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ
giới thiệu ñược một phần nhỏ trong rất nhiều lỗi
mà sinh viên có thể mắc phải khi tiến hành chuyển
ngữ từ Hán Việt sang Hán Hàn, hy vọng những
ñiều ñã trình bày có thể ñóng góp thêm ý kiến
nhằm giúp ñỡ sinh viên cũng như các nhà nghiên
cứu bổ sung vào cơ sở dữ liệu, thêm kinh nghiệm
trong quá trình phiên dịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình
thành cách ñọc Hán Việt, Nxb KHXH, 1979.
2. Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng
Việt (sơ thảo), Nxb Giáo dục, 1995.
3. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử,
Nxb Giáo dục, 1993.
476


ñến hình thức cấu tạo từ khi gặp từ gốc Hán ñể
tránh sự nhầm lẫn trường hợp như trên.
5. Kết luận
Lớp từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng Hàn
là hệ quả của quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ
lâu ñời. Sự tiếp xúc với chữ Hán trong quá trình
phát triển của cả hai ngôn ngữ là một trong những
yếu tố thuận lợi giúp người dịch Việt - Hàn cảm
thấy dễ dàng hơn so với những ngôn ngữ khác.
Tuy nhiên, cũng chính những yếu tố tương ñồng
giữa tiếng Việt và tiếng Hàn lại có thể gây trở ngại
cho hoạt ñộng dịch. Những tri thức về từ gốc Hán
sẵn có trong ngôn ngữ nguồn (tiếng Việt) sẽ ảnh
hưởng ñến sự tiếp nhận ngôn ngữ ñích (tiếng Hàn)
và những tri thức về từ gốc Hán trong ngôn ngữ
ñích nhiều khi khiến người dịch vượt tuyến ngữ
liệu ngôn ngữ ñích. Vì vậy, người dịch cần lưu ý
trước khi áp dụng những tri thức về từ gốc Hán,
phải phân tích từ trong ngôn ngữ ñích và tìm ra
nghĩa phù hợp với từng trường hợp ñể tránh
những lỗi hay mắc phải. Minh hoạ:

4. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt (bản in lần
thứ 2), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980.
Tiếng nước ngoài:
5. J.C. Catford, A Linguistic theory of translation
(Fifth impression), Oxford University Press, 1978.
6. S.P.Corder, The significance of learner’s errors,
International review of Applied Linguistics, (5), 1963.
7. Jeong, Ho Jeong (2008), Tìm hiểu biên, phiên dịch

(
), Nxb Văn hóa Hàn
Quốc (韓國文化社), 2008.
8. Peter Newmark, A textbook of translation, Prentice
Hall International, 1988.
9. Eugene A. Nida and Charles R. Taber, The theory
and practice of translation (Volume VIII), United Bible
Societies, 1982.
10. Park, Byung Chae, Lịch sử tiếng Hàn
), Nxb Thế Anh (世英社), 1989.
(
11. Park Ji Hoon, So sánh ý nghĩa từ Hán Việt và Hán
Hàn, Tạp chí Ngôn ngữ, (7), 2007.

제대로 된 통역 번역의 이해

國語發達史



×