Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn rèn kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH từ NHỮNG điều NHỎ NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.32 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

GIẢI PHÁP
RÈN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TỪ NHỮNG ĐIỀU NHỎ NHẤT
1. Họ và tên: Lê Thị An
2. Chức vụ : Giáo viên Tổng phụ trách
3. Đơn vị công tác: Trường tiểu học Tân Nghĩa 1
4. Lý do chọn đề tài:
Công tác chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ là điều quan tâm của toàn xã
hội. Trong xã hội phát triển mạnh mẽ đầy thách thức hiện nay, nếu thiếu kĩ năng sống
sẽ thiếu khả năng phân tích xử lí các tình huống khó khăn, xuống cấp về đạo đức, nhận
thức và ứng xử lệch lạc, có phản ứng tiêu cực dễ rơi vào bế tắc không tự mình kéo lên
được. Trong đó chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa chú trọng
đúng mức đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đáp ứng yêu cầu trên, nhân tố
con người được đặt vào vị trí trung tâm đó là lớp thiếu niên nhi đồng hôm nay sẽ là
những mầm non, những người chủ tương lai của đất nước sau này “Trẻ em hôm nay
thế giới ngày mai”. Vì vậy bồi dưỡng giáo dục chăm sóc và bảo vệ thế hệ trẻ là nhiệm
vụ của toàn xã hội trong đó ngành giáo dục và đào tạo giữ vai trò then chốt. Đất nước
ta đang trong thời gian hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
trong giai đoạn phát triển cao. Do đó nhận thức của chúng ta cũng phải thay đổi phù
hợp với thực tiến hiện nay. Ngoài việc dạy – học, chúng ta phải tạo cho các em sân
chơi hấp dẫn, phong phú để thu hút các em tạo điều kiện cho các em phát triển toàn
diện cả về “ Đức – Trí – Thể - Mỹ ” và từng bước tự hoàn thiện bản thân.
Từ năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng
ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về đạo đức,
trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ
huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối


1


với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với
đầy đủ các mặt “ Đức – Trí – Thể - Mỹ ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang
bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học
sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng
với môi trường, xã hội mới.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn
đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường
và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn
toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã chọn
đề tài về “Giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ nhất” thông
qua các chương trình hoạt động Đội.
5. Nội dung giải pháp hữu ích:
5.1- Khó khăn, thuận lợi và sự cần thiết của giải pháp hữu ích:
5.1.1- Thuận lợi:
Trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải
tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh,
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương trình. Và
đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây
là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến
hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy, cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc
giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ

nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, mà còn thường xuyên quan tâm đến đời
sống, tâm tư tình cảm của học sinh.
Học sinh chăm ngoan biết vâng lời thầy cô, ông bà, cha mẹ.
Phụ huynh luôn quan tâm đến con em trong cuộc sống nhất là việc học.
2


5.1.2- Khó khăn:
5.1.2.1- Về giáo viên:
Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu
khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm mất
sự hứng thú của học sinh.
5.1.2.2- Về học sinh:
Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng
tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc
sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy.
5.1.2.3 - Về Phụ huynh:
Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức nên không
cho con em tiếp cận các hoạt động kỹ năng thực hành xã hội.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho
con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia
đình.
Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng
hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
5.1.2.4 - Về nhà trường.
Trường tôi là một trường cách trung tâm huyện khoảng 10 ki-lô-mét, trường có
nhiều điểm trường lẻ, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Năm học 2014-2015, nhà

trường có 16 lớp với tổng số 397 học sinh. Trường chưa được công nhận trường chuẩn
Quốc gia.
5.1.3 Sự cần thiết của giải pháp hữu ích
Đất nước ta ngày càng phát triển về nhiều mặt. Đời sống người dân ngày càng
được cải thiện. Sự chăm sóc và trang bị mọi mặt cho con em là điều không thể thiếu để
các em ngày một hoàn thiện hơn. Chính vì được sự quan tâm chăm sóc đó nên tạo ra
tính ỷ lại, lười lao động, ít chịu suy nghĩ ở một số em. Bên cạnh những gia đình khá
giả thì một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hằng ngày lo kiếm sống ít quan
3


tâm đến các em, việc học hành và giáo dục các em phó mặc cho thầy cô, nhà trường.
Với lứa tuổi tiểu học, đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất
của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát
triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại
“Tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”.
Năm học 2015-2016 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là
một trong những nội dung của phong trào. Chính vì vậy nhà trường chú trọng hơn đến
nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.
Nhận thấy được điều đó trong những năm học gần đây tôi luôn chú trọng đến
công tác rèn kỹ năng sống cho các em học sinh từ những điều nhỏ nhất để các em
có thể tự lo cho bản thân khi không có cha mẹ ở bên cạnh chăm sóc mình như những
bạn khác. Việc rèn kỹ năng sống cho các em học sinh từ những điều nhỏ nhất là một
việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú trong học tập, các em
thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện những năng lực
của bản thân.
5.2- Phạm vi áp dụng:
Bản thân áp dụng “Giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ nhất”
thông qua các chương trình hoạt động Đội ở Liên đội nhà trường trong suốt năm học

và những năm tiếp theo để việc giáo dục kĩ năng sống ngày một hiệu quả.
“Giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ nhất” thông qua các
chương trình hoạt động đội có thể áp dụng cho toàn bộ học sinh ở bậc tiểu học trong
toàn huyện.
5.3- Thời gian áp dụng: Năm học 2014 -2015 cho đến nay.
5.4- Giải pháp thực hiện
5.4.1.Tính mới của đề tài
Trong cuộc sống thực tế cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ
thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm mà lẽ ra chính trẻ
phải tự làm tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,... Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến
việc tự lập của học sinh là hệ thần kinh của trẻ. Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang
trong thời kì phát triển mạnh. Bộ óc của các em phát triển về khối lượng, trọng lượng
4


và cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng
của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả năng kìm hảm (khả năng ức chế) của
hệ thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của các em đang phát triển đi
dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và cha mẹ, người thân
của các em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự chủ, lòng kiên
trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết
giữ gìn trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Mặt khác không được mắng, doạ dẫm,
nạt nộ các em vì làm như thế không những bị tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác
hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc của các em. Khi trẻ bắt đầu gia nhập cuộc
sống nhà trường - đi học tiểu học, các em được học thêm những điều chưa hề có trong
6 năm đầu đời; khi gia nhập cuộc sống nhà trường các em phải tiến hành hoạt động
học – hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nề nếp với những yêu cầu nghiêm ngặt.
Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập; chắc chắn
trẻ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm lí chuẩn bị sẵn
sàng đi học.Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ

những buổi đầu các em đến trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho trẻ
trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: đòi theo bố mẹ về nhà, không dám
nói chuyện với bạn bè, không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào
lớp,... không ít những tình huống dở cười dở mếu vì trẻ lớp 1 không dám xin đi vệ sinh
rồi bậy ra quần ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ xin ra ngoài đi vệ sinh nhưng lại tranh
thủ đi chơi để giáo viên phải đi tìm, …
Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý, trí nhớ,
tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu
nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất
lớn đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sống
của trẻ. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống
sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm
quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. Học sinh tiểu học thích bắt
chước hành vi, cử chỉ, lời nói,... của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của
những người thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt
chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng không ít. Chính vì vậy những tính cách hành vi

5


của những người xung quanh là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi,
ứng xử của trẻ.
Các dạng hoạt động của trẻ được thực hiện qua các quan hệ:
Trẻ em – gia đình
Trẻ em – đồ vật
Trẻ em – nhà trường
Trẻ em – xã hội.
Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt. Nó ảnh
hưởng sâu sắc đến thái độ và cách ứng xử của các em trong quan hệ với người khác và
với xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy cô giáo nên chúng thường bắt

chước những cử chỉ tác phong của thầy cô giáo mình. Ở tiểu học, do uy tín của người
thầy giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ những hành ở trường các em còn được tiếp
xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng
không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ.
Trước thực trạng đó chúng ta là những người người làm công tác chăm lo giáo
dục thế hệ trẻ cần phải giúp các em biết phân biệt được cái tốt, cái xấu, biết từ chối
trước những cám dỗ sai trái và biết tự bảo vệ mình. Hướng các em đến cái “ Chân –
Thiện – Mĩ”. Vì thế phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
với 5 nội dung, trong đó nội dung “Rèn kỹ năng sống cho học sinh” là một trong
những nội dung quan trọng trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho các em trong
giai đoạn hiện nay.
Trong giải pháp này tôi tập trung vào giải quyết một số vấn đề sau:
5.4.1.1 Một số nội dung kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh:
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các quá trình hoạt động giáo dục
khác trong nhà trường đều có cấu trúc xác định. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh tập trung vào các kỹ năng tâm lý - xã hội là những kỹ năng được vận dụng
trong những tình huống hàng ngày để tương tác với người khác và giải quyết có hiệu
quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Những nội dung này hết sức đơn
giản, gần gũi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập... Và mục
đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống. Vì vậy khi
tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cấn:

6


- Bám sát vào nội dung của giáo dục kỹ năng sống và vận dụng linh hoạt các nội
dung của giáo dục kỹ năng sống tuỳ theo từng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và
điều kiện cụ thể của từng môn học.
- Xác định rõ các nội dung giáo dục kỹ năng sống (xác định rõ các kỹ năng sống
cần hình thành và phát triển cho học sinh) để tích hợp vào nội dung của hoạt động giáo

dục.
- Tạo ra động lực cho học sinh, làm cho học sinh tham gia một cách tích cực vào
quá trình hình thành kỹ năng sống nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra
quyết định, kỹ năng tự nhận thức về bản thân, kỹ năng ứng phó với cảm xúc...
Qua đó chúng ta giáo dục các em thông qua các bài học:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định
vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…; Thông qua tiết sinh hoạt sao nhi đồng
tôi tổ chức trò chơi chuyển đạn vào kho, sau khi chơi thì học sinh thấy rằng nếu không
ngăn nắp, gọn gàng thì sẽ dẫn đến đỗ vỡ và mất thời gian.
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..; VD: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải
có thói quen dậy sớm, có tác phong nhanh nhẹn ( rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để
đạt mục tiêu); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập (rèn
cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch).
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm
soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…; VD: Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng,
ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản
thân, kỹ năng vận động, gây ảnh hưởng);
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng
định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
5.4.1.2- Tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể để giáo dục kĩ năng sống
Ngay từ đầu năm học vào các tiết chào cờ đầu tuần tôi giới thiệu cho các em
một số quan niệm về kỹ năng sống ( khoảng 12 tiết) như:
Kỹ năng sống là gì? Tôi đã cho các em trao đổi và tìm ra câu trả lời.
Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại
và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho mỗi người vững vàng trước cuộc sống có nhiều
thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại. Kỹ năng sống đơn giản là tất cả
7



những điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay
đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống.
Kỹ năng sống được thể hiện trong kỹ năng đánh giá, quyết định, hành động,
ứng xử,... trong các mối quan hệ đa dạng như:
Mối quan hệ với bản thân (sức khoẻ, thật thà, trung thực, kiên nhẫn, tự kiềm chế,...)
Mối quan hệ của các em với những người xung quanh (ông, bà, cha, mẹ, anh chị em,
thầy cô giáo, những người lớn tuổi, bạn bè,..)
Mối quan hệ của các em với công việc (học tập, hoạt động của lớp, của trường, công
việc giúp đỡ gia đình, hoạt động xã hội,..)
Mối quan hệ của các em với thiên nhiên (môi trường, động vật, thực vật,....)
Mối quan hệ của các em với tài sản riêng, tài sản chung (tài sản riêng: đồ dùng học tập,
sách vở, quần áo,....; tài sản chung: bàn ghế, đồ vật trong lớp, trong trường, các di sản
văn hoá, di tích lịch sử,..)
Mối quan hệ của các em với xã hội (quê hương, Tổ quốc, Bác Hồ, bộ đội, thương binh,
gia đình liệt sĩ,..)
Các tuần tiếp theo tôi rèn cho các em các kỹ năng sống sau thông qua các tiết
sinh hoạt sao, đội:
Kĩ năng lao động, lao động tự phục vụ: kỹ năng thao tác những hoạt động tự phục vụ
như: tự lấy nước uống, tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự đi giầy, tất (lớp 1, 2); tắm
gội (lớp 3, 4, 5),..., kỹ năng sử dụng có hiệu quả một số dụng cụ chăm sóc cây xanh,
chăm sóc vật nuôi trong gia đình, lao động vệ sinh trường lớp … Tổ chức các hoạt
động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường,lớp học, trồng chăm sóc cây
trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ năng như: cầm
chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông qua đó học sinh biết sử dụng có hiệu quả đồ
dùng lao động
Kĩ năng vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ: trẻ tự thực hiện được một số hoạt động như: chải
đầu, đánh răng rửa mặt, tắm giặt,..., chơi trò chơi lành mạnh, ăn uống sạch sẽ hợp vệ
sinh, thực hiện giờ giấc vui chơi, học tập lao động vừa sức hợp lí thông qua tiết sinh
hoạt sao. Ví dụ trong nội dung sinh hoạt sao tháng 10 với chủ điểm chăm ngoan học
giỏi. Tôi đã lồng ghép vào tiết sinh hoạt những nội dung sau:

Về mục tiêu:

8


Giúp các em nắm và biết được một số nội nội dung về giữ gìn vệ sinh cá nhân
và lớp học sạch sẽ, biết được thế nào là khoẻ mạnh…
Giáo dục các em biết giữ gìn vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Từ đó có ý
thức thực hiện tốt trong cuộc sống.
Biết sắp xếp góc học tập cá nhân và có thời gian biểu cho cá nhân, có đầy đủ đồ
dùng cho việc học tập. Cách giữ gìn sách vở cho sạch, đẹp…
Tiến trình :
PTS

Tập trung toàn sao, hát tập thể bài bài hát: “ Hai cánh tay khéo khéo”

PTS hỏi:

- Theo các em nếu muốn được khen, muốn có điểm tốt các em cần làm
như thế nào ?

NĐ trả lời:

- NĐ: Em phải nghe lời thầy cô giao, Ông bà, Cha mẹ , phải chăm học
ạ.

PTS hỏi:

- Muốn được cô giáo khen có vở sạch và chữ đẹp em cần làm như thế
nào?

- NĐ: Em phải giữ gìn sách vở sạch sẽ, cần bọc sách vở vào ạ.

PTS hỏi:

-NĐ: Cần tập viết và rèn chữ viết nhiều ở nhà và ở lớp a.
- Ngoài việc biết giữ gìn sách vở sạch sẽ ra, chịu khó học tập các em
cần có những đồ dùng học tập nào nữa ?

PTS nói:

- NĐ: Chúng em cần có bút, thước kẻ, com pa, hộp đựng bút….
- Như vậy là các em rất ngoan và chăm học nữa chúng ta cùng khen các
bạn một tràng pháo tay nữa nào.
- Về nhà các em nhớ làm và thực hiện tốt các nội dung đã học này nhé.

PTS nói:

Dặn dò:
Vừa rồi chúng mình cùng sinh hoạt sao với chủ điểm Sạch sẽ - khoẻ
mạnh. Để thực hiện tốt điều đó, về nhà các em cần thực hiện tốt ăn
sạch, uống sạch, ở sạch để đề phòng bệnh tật, nâng cao sức khoẻ.

PTS:

Hát bài hát : Rửa tay.

PTS nói:

Nhận xét giờ sinh hoạt sao - đọc lời hứa.
Tiếp theo anh mời toàn sao cùng đọc đồng thanh Lời hứa nhi đồng.


NĐ đáp:

Giờ sinh hoạt sao đến đây là hết. anh chào các em!

Chúng em chào anh ạ!
Kĩ năng về hành vi, ứng xử: kỹ năng giao tiếp ( nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp)
9


Thông qua các hoạt động ngoại khóa tôi thường xuyên tổ chức cho học sinh
chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động
văn nghệ thể thao, qua các hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây
dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định,
biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè .
Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Rèn kỹ năng sống cho học sinh”, tạo
cho HS một sân chơi để học sinh được thực hành kỹ năng sống, được giao lưu, được tư
vấn về kỹ năng sống để hiệu quả rèn kỹ năng sống cho học sinh được nâng lên gắn liền
với thực tế cuộc sống.
Quan tâm chú ý đến việc tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhà trường. Khi
học sinh biết những điều luật cho phép làm hay những điều luật cấm (Một số nội dung
trong Luật giáo dục, Luật giao thông, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em,..v.v...), học sinh
sẽ hiểu rõ nhiệm vụ quyền hạn của mình để học tập, rèn luyện tốt hơn, biết ra những
quyết định đúng đắn, biết tự kiềm chế mình không mắc sai lầm, biết xử lý tình huống
đúng hướng, biết tự bảo vệ mình,..
5.4.2.3 Phối hợp với phụ trách sao, phụ trách chi để rèn kỹ năng sống cho học sinh
lồng ghép trong nội dung các tiết học phù hợp.
VD: Môn đạo đức: Giáo viên giáo dục, rèn cho học sinh kỹ năng giao tiếp ứng xử:
kính trọng, lễ phép với người lớn tuổi, đoàn kết hoà nhã với bạn bè, tôn trọng không tự
ý mở xem đồ đạc của người khác, giữ gìn vệ sinh môi trường, nói lời cảm ơn, xin lỗi

phù hợp, biết cách chào thầy cô giáo, cách xưng hô nói năng đúng mực với những
người lớn tuổi,... ), kỹ năng từ chối, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
làm việc theo nhóm, kỹ năng vận động, kỹ năng kiềm chế sự tức giận, kỹ năng biểu lộ
cảm xúc….
Trong các tiết tự nhiên và xã hội, khoa học, học sinh được rèn kỹ năng sử dụng
có hiệu quả đồ dùng dụng cụ chăm sóc cây trồng, vật nuôi, kỹ năng giữ gìn vệ sinh các
nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường,...v...v...;
Xây dựng các nhóm bạn cùng tiến: nhóm bạn giúp nhau học tập, nhóm bạn
ATGT, nhóm phòng chống ma tuý, ... trong qua trình hoạt động của các nhóm, học
sinh được rèn kỹ năng hợp tác, chia sẻ, biết đối xử, ứng xử với bạn hài hoà phù hợp,
Năm học 2014-2015 ngay từ đầu năm học tôi chọn lớp 1a1, 2a1, 3a1 và lớp 5a3
khảo sát kĩ năng sống của các em như sau
10


*Khảo sát lớp 1a1 quan sát thực tế và thông qua phụ huynh học
sinh
Tự chuẩn bị đồ dùng học tập

TSHS

34

Tự giác ngồi học bài ở nhà

Tự chuẩn bị đồ

Cần người lớn

Tự giác không


Chưa tự giác, bố

dùng học tập

giúp

cần nhắc nhở

mẹ phải nhắc
nhở nhiều

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

10


29,4

24

70,6

22

64,7

12

35.3

- Khảo sát lớp 2a1 khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một
số tiết Đạo đức.

TSHS

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
khỏi nhóm
SL
8

30

%
26,7


SL
22

%
73.3

*Khảo sát lớp 3a1 quan sát thực tế và thông qua phụ huynh học
sinh
Tự phụ giúp người lớn công việc nhà
Tự giác
TSHS

32

Ý thức học tập ở lớp

Cần người lớn

Chú ý trong học

nhắc nhở

tập

Chưa chú ý

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

14

43,8

18

56,2

17

53,1

15

46,9

- Khảo sát lớp 5a3 qua quan sát thực tế, kết hợp với GVCN, các giáo bộ môn đánh giá

HS:
TSHS

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể

11


Biết cách ứng xử hài hoà khá phù

Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi

hợp
SL
11

25

%
44

SL
14

%
56

5.4.2- Khả năng áp dụng
“Giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ nhất” thông qua các
chương trình hoạt động đội có thể áp dụng cho toàn bộ học sinh ở bậc tiểu học trong

toàn huyện. Vì đây là đề tài khá nhạy cảm, gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu và được thực hiện lần đầu tiên tại đơn vị. Nên việc
nghiên cứu đề tài “Giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ
nhất” thông qua các chương trình hoạt động Đội còn gặp nhiều khó khăn rất mong các
đồng nghiệp đóng góp và giúp đỡ.
5.4.3- Kết quả thực hiện:
Trong thời gian điều tra nghiên cứu và áp dụng thực tế cho thấy học sinh ngoan
hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lý trong ứng xử khá
phù hợp. Không còn học sinh ăn mặc quần áo bẩn, không còn tình trạng học sinh
chưa học bài khi đến lớp, học sinh biết lắng nghe và chủ động hợp tác với bạn trong
nhóm hơn.
Khảo sát cuối năm học 2014-2015 và đầu năm học 2015-2016
*Khảo sát lớp 1a1 quan sát thực tế và thông qua phụ huynh học
sinh
Tự chuẩn bị đồ dùng học tập

TSHS

34

Tự giác ngồi học bài ở nhà

Tự chuẩn bị đồ

Cần người lớn

Tự giác không

Chưa tự giác, bố


dùng học tập

giúp

cần nhắc nhở

mẹ phải nhắc
nhở nhiều

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

27

79,4

7


20,6

26

76,5

8

23,5

12


- Khảo sát lớp 2a1 khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một
số tiết Đạo đức.
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra

TSHS

khỏi nhóm
SL
21

30

%
70


SL
9

%
30

*Khảo sát lớp 3a1 quan sát thực tế và thông qua phụ huynh học
sinh
Tự phụ giúp người lớn công việc nhà
Tự giác

Cần người lớn

Chú ý trong học

nhắc nhở

tập

TSHS

32

Ý thức học tập ở lớp
Chưa chú ý

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

22

68,8

10

31,2

25

78,1

7

21,9

- Khảo sát lớp 5a3 qua quan sát thực tế, kết hợp với GVCN, các giáo bộ môn

đánh giá HS:

TSHS

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hoà khá phù
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi
hợp

SL
25
19
6.Bài học kinh nghiệm:

%
76

SL
6

%
24

Trong quá trình khảo sát và thực hiện giải pháp rèn kỹ năng sống cho các em
học sinh từ những điều nhỏ nhất bản thân tôi rút ra một số bài học sau:
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước
trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội
được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng
xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại,phát triển của mỗi tập thể,
cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã

hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế
13


mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một
môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ
trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ
bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát
triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy
dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh
tế,quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại,
phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế
lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản
thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ
không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá
nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kỹ năng sống biết
phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự
quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác
động tốt đến gia đình, xã hội.
Trong các nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi
nhau, chửi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong
tập thể lớp, trốn học đi chơi,...
Trong thực tế hiện nay việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn
kỹ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng
phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng
cả về nội dung, biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh. Nhận thức
của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kỹ năng
sống cho học sinh là rèn những kỹ năng gì; vì nhận thức chưa đủ,
chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu
hiệu để rèn kỹ năng sống cho học sinh.

Nhà trường đã có tổ chức một số hoạt động nhằm rèn kỹ năng sống
cho học sinh nhưng còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện
thường xuyên rõ nét.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường, ngoài việc lồng ghép
vào các môn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những con
đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì
14


thế ngoài việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường,
bằng nhiều hình thức khác nhau nhà trường thường xuyên tổ chức những buổi sinh
hoạt ngoại khóa với các cuộc thi như "Giao lưu Tiếng Việt của chúng em", trò chơi dân
gian, trò chơi vận động,… tham gia các hoạt động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường, tổ
chức các hoạt động quyên góp ủng hộ bạn nghèo, bạn bị bệnh tật hiểm nghèo...Thông
qua những hoạt động này, nhà trường muốn rèn luyện cho các em học sinh tính đoàn
kết tập thể, khả năng làm việc theo nhóm. Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức
trách nhiệm cho các em.
Chính nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà trường đã
tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, học sinh nỗ
lực tiếp thu bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến bài học để liên hệ áp
dụng vào thực tiễn, qua đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Các em cảm thấy rất vui và biết thêm nhiều kiến thức. Nhờ đó các em biết tự chăm sóc
bản thân như là tự sắp xếp góc học tập thật ngăn nắp, tự giặt quần áo cho mình, vệ sinh
cá nhân và môi trường sống.... Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà. Đây được
xem là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem
học sinh là trung tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách học sinh
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Sau giải pháp này tôi dự định sẽ tiếp tục nghiên cứu để thiết kế thêm hình thức và
tìm thêm biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được phong phú hơn.
7. Kết luận

Từ thực tiễn tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu
học tôi đã có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học sinh tự cảm
nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ năng; thực hiện sự
phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho học
sinh sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó với các
sức ép, thách thức trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm bớt tỷ lệ
phạm pháp.

15


Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy, trò, sự
hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn phận và nghĩa vụ của
mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người
thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của người thầy. Vì
vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy thì trước hết “Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận động.
Giáo dục kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn
cần học kỹ năng sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “Một sớm, một
chiều” mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở mọi lúc, mọi
nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống rất đa dạng và mang
đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng
tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà

trường, địa phương.
Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà
của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra được những thế hệ trẻ phát
triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế.
Từ những kết luận trên đây, thì việc " rèn kỹ năng sống cho các em học sinh từ
những điều nhỏ nhất " là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê,
hứng thú trong học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong
việc thể hiện những năng lực của bản thân.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức thực
hiện " Rèn kỹ năng sống cho các em học sinh từ những điều nhỏ nhất " ở trường
chúng tôi. Tuy nhiên do năng lực bản thân nên chắc chắn rằng sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung thêm của các
đồng nghiệp.
Tân Nghĩa , ngày

tháng

năm 20

Người thực hiện
16


Ý kiến của lãnh đạo đơn vị

Hội đồng chấm sáng kiến hội thi

17




×