Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

skkn một số GIẢI PHÁP rèn kĩ NĂNG GIẢI TOÁN có lời văn CHO học SINH lớp 5a cơ sở nà ẾCH TRƯỜNG TIỂU học húc ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.47 KB, 14 trang )

PHÒNG GD&ĐT BÌNH LIÊU

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TH HÚC ĐỘNG

Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC
SINH LỚP 5A CƠ SỞ NÀ ẾCH TRƯỜNG TIỂU HỌC HÚC ĐỘNG
Họ và tên: NGÔ TIẾN THẢO
Dạy tại lớp 5A cơ sở Nà Ếch trường Tiểu học Húc Động
I.

Mục đích của giải pháp

Quá trình nghiên cứu giải pháp nhằm đạt được những mục đích sau:
1. Tìm hiểu những dạng toán có lời văn ở lớp 5.
2. Tìm hiểu thực trạng giải toán của học sinh .
3. Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán cho học sinh.
II.

Nội dung của giải pháp

1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
1.1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh:
* Thuận lợi:
- Trường có một khu vực chính 7 lớp và 4 khu vực lẻ có 8 lớp. Nhìn chung
cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy học ngày càng được
cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, giáo dục hiện nay.
- Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo dục đào tạo trong mấy năm gần đây.


- Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và đoàn
kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh
thân yêu.
- Trường vinh dự được ủy ban nhân dân tỉnh tặng cờ thi đua khối Tiểu học
năm học 2019 -2020.
- 100 % các em là con em nông dân,dân tộc thiểu số thật thà chất phác và
chăm học.


- Các em được cho về học tập trung tại điểm trường chính Nà Ếch và ở bán
trú tại trường.
- Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi mới.
* Khó khăn:
- Năm học này tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp tôi 100% là con
em dân tộc Dao, Tày, Sán chay. Gia đình các em phần lớn là nông dân, ngoài việc
làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở
nhà với ông bà. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em
chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó
mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất
là với môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, còn
02 em (Chiu, Hiền là học sinh khuyết tật), có những học sinh không hiểu được đề
bài toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả của bài toán sai khá nhiều.
Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh
lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm học trước
đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau
đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh.
1.2. Số liệu thống kê:
Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp mình
với kết quả như sau: năm học 2020 – 2021 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn Toán chịu ảnh
hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn).

Điểm
TSHS
30

9-10

7-8

5-6

Dưới 5

3

20

7

* Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi không
có,học sinh được 3/30 = 10%, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó
cho thấy học sinh chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn.


1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5:
Trong mạch kiến thức giải toán có lời văn bao gồm nhiều dạng bài: dạng
toán đơn, dạng toán hợp, dạng toán điển hình, dạng toán có nội dung liên quan đến
hình học,...Đa số các dạng toán đơn thì HS làm được, song các bài toán từ 2 phép
tính trở lên thì đa số học sinh yếu không làm được bởi một số nguyên nhân sau:
- Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề vội
vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán không chịu

phân tích đề toán khi đọc đề.
- Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng
túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư duy của học sinh
còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu
của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài
toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến
lười suy nghĩ.
- Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán.
- Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó
khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng
và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý.
- Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa
các dạng toán.
- Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá
giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán
giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn
đến hiệu quả thấp.
- Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó khi gặp
các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao.


- Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến
nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có
những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày nhất
là với các bài toán giải có lời văn phức tạp.
- Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các
bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời
không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để
giải bài toán.
- Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến

việc học của con em mình dẫn đến kết quả học tập còn thấp.
- Một số học sinh chưa ý thức việc học của mình.
Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giảng
dạy như sau:
2. Các giải pháp.
2.1. Công tác chuẩn bị tiết dạy giáo viên:
- Công tác chuẩn bị của giáo viên thể hiện rõ qua việc soạn giáo án, phương
pháp lên lớp, đồ dùng dạy học. Muốn giảng dạy tốt thì trước khi lên lớp giáo viên
cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, hiểu rõ ý đồ của sách giáo khoa, lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học tốt nhất nhằm phát huy tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh. Cụ thể trong giáo án phải thể hiện rõ hoạt động của thầy và
hoạt động của trò, phải chú ý đến các đối tượng học sinh để đưa ra các tình huống,
câu hỏi hợp lí cho từng đối tượng khá - giỏi, trung bình, yếu.
- Trong khâu chuẩn bị bài giáo viên cũng cần chú ý đến việc chuẩn bị đồ
dùng dạy học làm sao phát huy được sự sáng tạo, kích thích óc tưởng tượng và tư
duy của học sinh. Mỗi tuần nên chuẩn bị tối thiểu 2 giáo án dạng trình chiếu.
2.2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải
các bài toán có lời văn:


Điều tôi trăn trở nhất là làm thế nào để các em thấy được niềm vui, sự say
mê khi giải toán có lời văn. Các em không chỉ hiểu mà phải làm bài theo nhiều
cách khác nhau. Biết vận dụng vào thực tế một cách có hiệu quả. Vì vậy tôi xem
xét kỹ và giúp đỡ các em từng bước cụ thể.
Bước 1. Tìm hiểu đề:
- Việc tìm hiểu nội dung đề toán thường thông qua việc đọc bài toán dù bài
toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh hoặc bằng dạng tóm tắt (sơ đồ). Tập cho
học sinh có thói quen tự tìm hiểu bài toán. Tránh tình trạng vừa đọc xong đã bắt tay
vào giải bài toán ngay mà phải xác định được dữ liệu đã cho và cái phải tìm và ghi
vào vở nháp 2 yêu cầu cơ bản ấy. Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào mà học sinh

chưa hiểu rõ, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa
của từ đó trong bài toán đang làm, chẳng hạn từ “tiết kiệm”, “năng suất”, “sản
lượng”…
Ví dụ 1: Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam bằng 2/5 số
học sinh nữ. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam? (Bài 1- trang
22 - Luyện tập chung)
- Dữ liệu đã cho: Lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam bằng 2/5
số học sinh nữ.
- Yêu cầu phải tìm: Số học sinh nam, số học sinh nữ của lớp học đó.
* Tuy nhiên, trong quá trình giải toán không phải tất cả các đề bài đều cho
dữ liệu trước và yêu cầu phải tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa ra câu hỏi trước
rồi mới cho dữ liệu.
Ví dụ 2: Tính chu vi một mảnh đất hình chữ nhật, biết chiều dài gấp 2 lần
chiều rộng và hơn chiếu rộng 15m. (Bài 2- trang 22 - Luyện tập chung)
- Dữ liệu đã cho: Chiều dài gấp 2 lần chiều rộng và hơn chiếu rộng 15m.
- Yêu cầu cần tìm: Chu vi mảnh đất hình chữ nhật.


* Học sinh phải phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất, những gì không
thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần
thiết, cụ thể.
Ví dụ 3: Một trường có 639 học sinh, trong đó có 1/3 số học sinh là đội viên.
Nhân ngày 15 tháng 5 có thêm 72 em nữa được kết nạp vào Đội. Hiện nay có tất cả
bao nhiêu em đã vào Đội?
- Dữ liệu đã cho: 1/3 của 639 học sinh, thêm 72 học sinh.
- Yêu cầu phải tìm: Số đội viên có tất cả.
Bước 2. Tóm tắt đề:
Trong giải toán có lời văn, tóm tắt đề toán cũng là một việc rất cần thiết và
quan trọng. Vì có tóm tắt được đề toán các em mới biết tìm ra mối quan hệ giữa cái
đã cho và cái cần tìm để tìm ra cách giải bài toán.

Mỗi bài toán đều có nhiều cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên các em cần lựa
chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp với nội dung từng bài để dễ hiểu, đơn giản và
ngắn gọn nhất. Có những bài toán nên tóm tắt bằng lời song cũng có nhiều bài toán
nên tóm tắt sơ đồ hoặc vừa tóm tắt bằng sơ đồ vừa tóm tắt bằng lời cũng vẫn dễ
hiểu như nhau.
Ví dụ 1: Một thùng đựng 28,75 kg đường. Người ta lấy từ thùng đó ra 10,5
kg đường sau đó lại lấy ra 8 kg đường nữa. Hỏi trong thùng còn bao nhiêu ki- lôgam đường? (Bài 3- trang 54 - Trừ hai số thập phân)
Tóm tắt bằng lời:
Trong thùng có: 28,75kg đường
Lần đầu lấy ra: 10,5 kg đường
Lần sau lấy ra: 8 kg đường
Còn lại:….kg đường?
Ví dụ 2: Một người thợ dệt, ngày thứ nhất dệt được 28,4m vải, ngày thứ hai
dệt nhiều hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt hơn ngày thứ hai 1,5m vải.


Hỏi cả ba ngày người đó dệt được bao nhiêu mét vải? (Bài 4- trang 52 - Luyện
tập).
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ngày thứ nhất:
Ngày thứ hai:
Ngày thứ ba:

28,4m
2,2m

? m vải
1,5m

Phần tóm tắt đề tôi yêu cầu học sinh tự làm vào vở và kiểm tra từng em. Sau

khi tóm tắt xong, yêu cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại một bài toán hoàn chỉnh
đúng theo ý đề đã cho.
Bước 3. Phân tích bài toán để tìm cách giải:
Cũng như tất cả các môn học khác, để làm được bài thì học sinh cần xác
định xem bài yêu cầu chúng ta làm gì? Vì thế sau khi cho học sinh nhìn tóm tắt đọc
lại đề bài giáo viên nên nêu câu hỏi: Bài toán hỏi gì? để học sinh suy nghĩ.
- Tiếp đó yêu cầu học sinh suy nghĩ: Muốn trả lời được câu hỏi của bài toán
thì cần phải biết những gì? Trong những điều ấy cái gì đã biết, cái gì chưa biết?
- Học sinh nêu ý kiến giáo viên chưa vội kết luận ngay mà nên khuyến khích
để các em tự làm bài theo ý hiểu của mình.
Ví dụ: Một người đã bán được 150 quả cam và quýt, trong đó số cam bằng
2/3 số quýt. Tìm số cam, số quýt đã bán?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề:
+ Bài toán cho biết gì? (Số cam và số quýt có tất cả là 150 quả, trong đó số
cam bằng 2/3 số quýt)
+ Bài toán hỏi gỉ? (Tìm số cam, số quýt đã bán)
+ Số cam và quýt là 150 qủa nghĩa là gì? (Số cam cộng với số quýt bằng 150
quả)


+ Số cam bằng 2/3 số quýt nghĩa là gì? ( Số quýt được chia làm ba phần thì
số cam chiếm 2 phần).
- Hãy vẽ đoạn thẳng biểu diễn số cam và số quýt (Một học sinh lên bảng
thực hiện, lớp làm nháp).
? qủa
Số cam
150 quả
Số quýt
? qủa
+ Muốn tìm số cam ta làm như thế nào? (Lấy 150 : (2 + 3) x 2 )

+ Muốn tìm số quýt ta làm như thế nào? (Lấy 150 - số cam)
- Sau khi phân tích xong đề toán học sinh sẽ tự rút ra được trình tự giải dạng
toán này như sau:
Bước 1: Vẽ sơ đồ
Bước 2: Tìm tổng số phần bằng nhau
Bước 3: Tìm số bé bằng cách lấy tổng hai số chia cho tỉ số phần bằng nhau
và nhân với số phần bằng nhau của số bé.
Bước 4: Tìm số lớn bằng cách lấy tổng hai số trừ số bé vừa tìm được
Bước 4. Tổng hợp giải toán:
Yêu cầu các em dựa vào kết quả phân tích bài toán ở trên kết hợp với những
điều kiện đã chọn trong bài toán rối lần lượt thực hiện các phép tính để đi đến đáp
số của bài. Trong quá trình học sinh cả lớp làm bài, tôi luôn kiểm tra những học
sinh còn yếu kém trong lớp nhằm giúp học sinh củng cố và hướng dẫn theo từng
bước cụ thể để các em hiểu ra vấn đề và nắm bài một cách chắc chắn.
Ví dụ: Một người bỏ ra 42.000 đồng tiền vốn mua rau. Sau khi bán hết số
rau người đó thu được 52.500 đồng. Hỏi:
a) Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn?
b) Người đó lãi bao nhiêu phần trăm? (Bài 3- trang 76 - Luyện tập)


- Giáo viên hỏi: Bài toán cho biết gì? (Số tiền vốn là 42.000 đồng, số tiền
sau khi bán rau là 52.500 đồng).
+ Bài toán hỏi gì? (Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn? Người
đó lãi bao nhiêu phần trăm?).
- Gọi 1 HS lên bảng tóm tắt bài toán và trình bày lời giải vào bảng phụ, lớp
làm vào vở.
Tóm tắt:
Tiền vốn: 42.000 đồng
Tiền bán: 52.500 đồng
a) Tìm tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn.

b) Tìm xem người đó lãi bao nhiêu phần trăm.
Bài giải:
a) Tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn là:
52.500: 42.000 = 1,25
1,25 = 125%
b) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và số tiền vốn là 125% nghĩa là coi tiền
vốn là 100% thì tiền bán rau là 125%. Do đó, số phần trăm tiền lãi là:
125% - 100% = 25%
Đáp số: a) 125%; b) 25%
* Như chúng ta đã biết, mỗi bài toán không chỉ một cách giải duy nhất nên
để phát huy thêm cách giải mới, tôi có thể nêu câu hỏi: Trên đây là cách giải của
bạn, ngoài cách giải này bạn nào có cách giải khác?
Sau đó tôi thu tất cả các bài giải của học sinh (theo cách khác trên bảng) để
kiểm tra và cho học sinh tham khảo trong tiết sinh hoạt tập thể.
* Cách giải khác của bài toán trên:
a) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và tiền vốn là:
52.500: 42.000 = 1,25


1,25 = 125%
b) Số tiền lãi sau khi bán rau là:
52.500 - 42.000 = 10.500 (đồng)
Số phần trăm tiền lãi là:
10.500 : 42.000 = 0,25 = 25%
Đáp số: a) 125%; b) 25%
5. Kiểm tra - thử lại:
Thông thường để có được đáp số đúng thì phải làm đúng các phép tính trong
bài giải. Muốn thế thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính toán. Nhưng trong
thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy tắc tính toán vẫn có thể phạm
lầm lẫn, sai sót... để tránh được những lầm lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại

sau khi làm xong từng phép tính.
Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn có
đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000 đồng. Nếu ra
đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết quả tìm được là đúng.
Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng.
2. 3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải
toán:
- Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không nên dẫn
dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu hỏi khéo léo cho
học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp giải toán.
- Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm, bài sửa
của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra điểm đúng, điểm sai
qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài làm một cách rõ ràng, sạch
đẹp, khoa học.


- Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà chu đáo,
thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các tính chất, các quy
tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài một cách có hiệu quả.
- Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm làm rõ
thêm kiến thức bài học.
2.4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh:
- Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan
tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán), phải làm cho mọi
học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân tích đề một cách chính
xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học
sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân.
- Trong giờ học giáo viên không nên chú ý đến đối tượng học sinh yếu hoặc
chú ý đến học sinh khá giỏi, mà cần có sự chú ý đến cả 3 đối tượng nhằm khắc
phục tình trạng nhằm chán, mất hứng thú trong giờ học của mọi đối tượng học sinh

vì thấy cô chỉ chỉ chú ý bạn mà không để ý gì đến mình. Nếu trong giờ học giáo
viên chỉ chú ý đến một đối tượng thì dần dần chất lượng của lớp sẽ đi xuống hoặc
là đối tượng học sinh yếu ngày càng yếu, hoặc là đồi tượng học sinh khá giỏi tụt
dần dẫn đến không bồi dưỡng được mũi nhọn trong lớp. Vì vậy trong tiết học giáo
viên cần quan tâm đến cả ba đối tượng. Do đó, giáo viên phải khéo léo để làm sao
cho mọi học sinh trong lớp đề thấy mình được giáo viên quan tâm. Chỉ có như vậy,
tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt, xây
dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì các em suy
nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng của từng em, tạo
không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh khá giỏi làm xong ngồi
chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp.
2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học:


- Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng
tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc,
đồng loạt. Không có phương pháp nào là “vạn năng”. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài
dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới
trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú để các em tự khai thác, khám phá
tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học
sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng riêng của mình.
- Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều. Vì thế
giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức
tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải mái, xây dựng môi
trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau
giữa các đối tượng học sinh.
- Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả
bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và

lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập.
- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương
khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học
sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học.
- Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả
bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và
lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập.
- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương
khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học
sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học.
- Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động viên
khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là đối với


nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng tạo, linh hoạt, tự
tin trong làm bài.
- Giáo viên cần tổ chức và hướng dẫn chu đáo cho học sinh biết các khái
niệm như “Tổng”, “hiệu”, “tỉ”, “quãng đường”, “thời gian”, “vận tốc”; thấy được
mối liên quan giữa cái đã biết và cái phải tìm; biết cách giải các dạng bài toán
trong chương trình lớp 5.
- Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội dung của
bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học sinh có đủ trình độ
(khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn nhau hoặc nhóm theo trình độ
(nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình, nhóm học sinh yếu).
- Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức “học mà chơi, chơi
mà học”, thực hành để phát hiện kiến thức.
III. Hiệu quả đạt được sau khi thực hiện giải pháp
* Hiệu quả của sáng kiến:
Qua quá trình nghiên cứu biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn tôi đã áp
dụng một số giải pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được những

kết quả đáng khích lệ sau thời gian áp dụng được hơn 1 tháng với dạng toán tìm hai
số khi biết tổng (hiệu) và và tỉ, Tìm tỉ số, rút về đơn vị. Những học sinh yếu toán
(có lời văn) có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả kiểm tra ngày 09/10/2020 được thống kê
như sau:
Điểm
TSHS

9-10

7-8

5-6

Dưới 5

30

4

6

15

5
(02 em KT)

Thực tế giảng dạy cho tôi nhận thấy việc sử dụng phát huy tính tích cực
trong giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu quả cao.
Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng bước phát triển
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy luận logic, vận dụng tri

thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng thông qua giải toán luyện cho học


sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý chí khắc
phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có
kế hoạch. Chất lượng học tập môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán
có lời văn ban đầu rất sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán
IV. Kiến nghị, đề xuất
Sau khi tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học Toán lớp 5A, trường Tiểu
học Húc Động, cũng như xác định được một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng
đó. Tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào biện pháp rèn kĩ năng
giải toán cho học sinh lớp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn
Toán .Để làm được điều đó, tôi mong muốn các cấp lãnh đạo, các ban ngành giáo
dục:
+ Tổ chức các buổi chuyên đề về nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 5 nói chung và các khối lớp trong cấp Tiểu học.
+ Tập huấn cho giáo viên sử dụng thành thạo các dụng cụ trong phầm mềm
SMART Notebook để sử dụng và vận dụng mang lại hiệu quả ngày càng cao hơn.
Trên đây là một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp
5A cơ sở Nà Ếch trường Tiểu học Húc Động được tôi đã áp dụng có hiệu quả ban
đầu tại lớp 5A, trường Tiểu học Húc Động, huyện Bình Liêu.
Biện pháp này lần đầu được dùng để đăng ký thi giáo viên dạy giỏi cơ sở
giáo Tiểu học cấp huyện năm học 2020 – 2021 và chưa được dùng để xét thành
tích khen cá nhân lớp đó.
Xác nhận của Lãnh đạo
Trường Tiểu học Húc Động
(Ký, đóng dấu)

Người báo cáo
(Ký tên)


Ngô Tiến Thảo



×