Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thảo luận số 01 nguyên tắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.93 KB, 15 trang )

BÀI THẢO LUẬN TUẦN 1.
*Quy ước:
- Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: BLTTDS 2015.
- Cơ sở pháp lý: CSPL.
Phần 1. NHẬN ĐỊNH
1. Hội thẩm nhân dân tham gia tất cả các phiên tòa dân sự sơ thẩm.
Nhận định sai.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 BLTTDS 2015 thì: Việc xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Nói cách khác, Hội thẩm nhân dân
không tham gia xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn được quy định
theo Điều 65 BLTTDS 2015 đồng thời Hội thẩm nhân dân không tham gia vào
hội đông xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm tái thẩm vụ án dân sự và các vụ việc
dân sự.
CSPL: Điều 11, Điều 64, Điều 65, Điều 66, Điều 67 BLTTDS 2015.
2. Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ ngôn ngữ khác sang
Tiếng Việt và ngược lại.
Nhận định sai.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 81 BLTTDS 2015: “Người phiên dịch là người
có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường
hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Nghĩa là chỉ khi
người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt cần một người tham gia
tố tụng khác với tư cách người phiên dịch thì thì đương sự có thể lựa chọn một
trong hai cách là tự thỏa thuận lựa chọn người phiên dịch và đề nghị Tòa án
chấp nhận hoặc Tòa án có thể yêu cầu người phiên dịch tham gia tố tụng. Một


người có khả năng phiên dịch từ một ngôn ngữ khác sang tiếng Việt và ngược
lại nhưng không tham gia tố tụng thì không được coi là người phiên dịch.
CSPL: Khoản 1 Điều 81 BLTTDS 2015.
3. Mọi chủ thể đều có quyền khiếu nại, tố cáo.


Nhận định sai.
Vì căn cứ theo Điều 25 đối với quyền khiếu nại thì cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quyền khiếu nại đối với những hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tùng hoặc bất kì cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào trong hoạt tố tụng dân sự. Tuy nhiên đối với tố cáo thì chỉ có cá nhân
mới được quyền tố cáo. Vì vậy, không phải mọi chủ thể đều có quyền khiếu
nại, tố cáo.
CSPL: Điều 25 BLTTDS2015.
4. Thẩm phán tuyệt đối không được tham gia xét xử hai lần một vụ án.
Nhận định sai.
Căn cứ Khoản 3 Điều 53 BLTTDS 2015 thì Thẩm phán không được tham gia
xét xử hai lần một vụ án khi đáp ứng điều kiện: Thẩm phán đã tham gia giải
quyết vụ án và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự.
Ngoài ra, trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì dù đã tham gia xét xử
hai lần một vụ án và đã ra bản án, quyết định thì vẫn được tham gia giải quyết
vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì quy định số lượng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối ca, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao ít nên
Thẩm phán được quyền tham gia để đảm bảo số lượng thẩm phán.


CSPL: Khoản 3 Điều 53 BLTTDS 2015.
5. Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên toà, phiên họp dân sự.
Nhận định sai.
Không phải phiên tòa, phiên hợp dân sự nào cũng có sự tham gia của Viện
kiểm sát. Đối với phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Viện kiểm sát phải tham gia song ở phiên tòa, phiên họp sơ thẩm Viện kiểm sát

chỉ tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các vụ việc dân sự, phiên tòa sơ
thẩm vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là
tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015. Nếu không thuộc
các trường hợp đã nêu thì Viện kiểm sát sẽ không tham gia.
CSPL: Điều 21 BLTTDS 2015.


PHẦN 2. BÀI TẬP
1. Hãy xác định yêu cầu của chị V và yêu cầu của anh Jack trong vụ án
trên?
Chị V và anh Jack cùng có yêu cầu dân sự đó là thuận tình ly hôn. Theo đó:
+ Cả 2 đều yêu cầu được nuôi con chung tên Th và không yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con.
+ Yêu cầu tòa án xác nhận việc thỏa thuận anh Jack được quyền quản lý, sử
dụng nhà đất và toàn bộ máy vi tính của tiệm internet và hoàn lại chị V số tiền
150.000.000 đồng.
2. Đại diện viện kiểm sát cùng cấp có nghĩa vụ tham gia phiên toà sơ thẩm
không?
- Theo tình huống thì đây là tranh chấp về hôn nhân gia và gia đình mà cụ thể
là việc ly hôn tranh chấp về con nuôi giữa chị V và anh Jack, theo quy định tại
Khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015 đây là vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của toà án.
- Cháu Th sinh ngày 26/3/2013 tức tới thời điểm hiện tại (2020) cháu Th 7 tuổi,
Th là người chưa thành niên. Tuy nhiên xét ở góc độ pháp luật, Luật Hôn nhân
gia đình đã quy định rất rõ ràng về vấn đề quyền nuôi con sau khi ly hôn nên
cháu Th không được coi là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ
án này mà tức không phải là đương sự. Tuy nhiên cũng tại Khoản 2 Điều 21

BLTTDS 2015 quy định: “Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối
với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến
hành thu thập chứng...”. Như vậy, nếu để giải quyết tranh chấp nêu trên mà tòa
phải tự mình thu thập chứng cứ thì phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng
cấp nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động của Tòa án theo đúng pháp luật, ngược
lại nếu chị Vy và anh Jack tự mình đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
nuôi bé Th sau khi ly hôn thì Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên tòa
sơ thẩm.


- CSPL: Khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015.
3. Có bắt buộc phải có người phiên dịch tham gia tố tụng trong trường
hợp trên không?
- Anh Jack là người có quốc tích Mỹ, theo quy định tại Điều 20 BLTTDS 2015,
“Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình, trường hợp này phải có người phiên dịch”. Nếu khi tham gia tố tụng,
anh Jack sử dụng ngôn ngữ ở Mỹ thì bắt buộc phải có người phiên dịch vì
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
- Ngược lại, trường hợp anh Jack tuy có quốc tịch Mỹ, nhưng lại sử dụng thành
thạo tiếng Việt thì không bắt buộc phải có người phiên dịch.
- CSPL: Điều 21 BLTTDS 2015.


PHẦN 3. PHÂN TÍCH BẢN ÁN
- Tóm tắt bản án 366/2019/DS-PT:
Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa T và Hồng. Theo Biên bản
họp gia đình cùng thồng nhất ký tên (có tham gia bà Hồng theo xác nhận
UBND xã) thì cụ Oản chia tách cho Toản QSD 200m 2 đất (diện tích đất có 1
phần thuộc thửa đất số 304 và 305 nhưng bà Hồng không cho sang tên. Nguồn
gốc thửa đất 304, 305 do dòng họ anh T để lại. Sử dụng đất là do cụ cố và ba

người con (cụ Oản, Kỹ, Vấu) quản lý. Cụ cố, Kỹ đã chết, cụ Vấu (ông nội
Toàn) lập gia đình sống nơi khác và cụ Oản quản lý hai thửa đất trên. Cụ Oản
được cấp Giấy chứng nhân quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) hai thửa đất trên.
Tuy nhiên, hai thửa đất thuộc quyền sở hữu chung của cụ Vấu và Oản nên hai
thửa đất là tài sản thừa kế của ba Toản. Bà Hồng (con cụ Oản) chiếm giữ toàn
bộ hai thửa đất và 200m 2 anh Toàn được chia. Toàn yêu cầu hòa giải để bà
Hồng trả lại đất nhưng bà không thực hiện. Cụ Oản kết hôn với bà Bé (đã mất
không để di chúc) có con chung là bà Hồng và với cụ Chi (đã mất) có một con
chung là bà Chi đã mất tích chưa được tuyên là đã chết. Cụ Oản không thê tự
quyết định hai thửa đất trên. Bà đã tự ý thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa
kế khi đang có tranh chấp nên không được cấp GCNQSDĐ. Toàn khởi kiện đề
nghị xác định QSD 200m2 thuộc về T, buộc bà Hồng trả lại 200m2. Bà Hồng
khai hai thủa đất đã được bán và cụ Oản và Vấu chia nhau rồi Oản mua lại
mảnh đất nay là thửa 304, 305 nhưng không đủ chứng cứ. Bà yêu cầu gia đình
anh Toàn trả lại GCNQSDĐ và sổ hộ khẩu của cụ Oản đã đưa anh Toàn để anh
đi tách 200m2. Tòa án quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện mà là
Toàn được tặng cho QSDĐ nhưng biên bản không thỏa mãn về hình thức hợp
đồng tặng cho QSDĐ.

- Xác định vấn đề pháp lý liên quan.
+ Đây là vụ án tranh chấp QSDĐ phần diện tích 200m 2 (hiện còn 180,7m2)
thuộc thửa đất số 304, 305 giữa anh Toàn và bà Hồng. Vấn đề pháp lý vụ án


dân sự nêu trên là diện tích 200m 2 (hiện còn 180,7m2) thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của anh Toàn hay bà Hồng .
+ Quyền quyết định cụ Oản đối với tài sản chung vợ chồng và tài sản thừa kế
đối với con chung cụ Oản và cụ Bé, cụ Chi.
+ Yêu cầu của bà Hồng tuyên bố bà Chi mất tích và Tòa án tuyên bố bà Chi đã
chết.

+ Hình thức và nội dung Biên bản họp gia đình.
+ Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và thay đổi yêu cầu khởi kiện.
Trong quá trình xét xử, Tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều theo hướng không chấp
nhận yêu cầu của phía bị đơn và cho rằng anh Toàn không phải là chủ sở hữu
hợp pháp mảnh đất 200m2:
- Theo Biên bản họp gia đình ngày 20/5/2008 thì anh Toàn trình bày là biên bản
này do cụ Phạm Oản, cụ Phạm Thị Cặn, bà Phạm Thị H và anh Phạm T cùng
họp, cùng ký tên thống nhất chia tách cho cháu được toàn quyền sử dụng
200m2 (trong đó có 46m2 đất vườn) về phía giáp nhà bà Năm. Nhưng bà Hồng
không đồng ý và cho rằng thời điểm lập Biên bản họp gia đình cụ Phạm Oản đã
95 tuổi, nên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vì vậy không thể lập Biên bản
họp gia đình theo nội dung trong biên bản, bà không tham gia và không ký vào
Biên bản. Tuy nhiên theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết luận của Viện
khoa học hình sự - Bộ Công an; cung cấp của UBND xã Đ. Cấp sơ thẩm xác
định chữ ký của bà Hồng trong Biên bản họp gia đình ngày 20/5/2008 là do bà
Hồng ký là có căn cứ.
- Theo lời khai của anh Toàn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đều khẳng
định: Diện tích đất 200m2 (theo sơ đồ hiện trạng là 180,7m2 ) mà anh Phạm T
được phân chia theo Biên bản họp gia đình ngày 20/5/2008 thuộc thửa đất số
304, 305 do cụ cố Xã và cụ cố Xiển để lại. Tuy nhiên chưa có bất kỳ văn bản
hoặc thỏa thuận phân chia khối di sản này cho cá nhân cụ Oản nên cụ Oản


không phải là người đương nhiên hưởng thừa kế toàn bộ di sản của cụ cố Xã và
cụ cố Xiển để lại; do vậy cụ Oản không phải đương nhiên là chủ sử dụng toàn
bộ thửa đất số 304, 305 là di sản của cụ cố Xã và cụ cố Xiển để lại. Như vậy cụ
Oản không phải là chủ sử dụng toàn bộ thửa đất số 304, 305 do vậy cụ không
có quyền định đoạt khối di sản thừa kế chưa chia này.
- Ngoài ra cụ Oản có kết hôn với cụ Bé thì kỷ phần của cụ Oản trong khối di
sản thừa kế (nếu được chia) là tài sản chung vợ chồng với cụ Bé theo quy định

tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 , có nghĩa là kỷ phần của cụ
Oản có phần của cụ Bé. Cụ Bé chết không để lại di chúc. Cụ Bé và cụ Oản có
một người con chung là bà Hồng, bà Hồng và cụ Oản được hưởng thừa kế theo
pháp luật di sản của cụ Bé.
- Và sau khi cụ Bé chết, cụ Oản tiếp tục kết hôn với cụ Chỉ có người con chung
là bà Chi, cụ Chỉ chết, không để lại di chúc. Cụ Chỉ và cụ Oản có một người
con chung là bà Phạm Thị Chi. Phần di sản của cụ Chỉ trong khối tài sản chung
với cụ Oản do bà Chi và cụ Oản được hưởng thừa kế. Tại thời điểm lập “Biên
bản họp gia đình” ngày 20/5/2008, người thừa kế phần di sản của cụ Chỉ là bà
Chi không tham gia và không ký vào Biên bản họp gia đình ngày 20/5/2008.
Cụ Oản không được toàn quyền quyết định di sản do cụ Chỉ để lại.

Căn cứ theo Điều 650 BLDS 2015 thì do khối tài sản này không có di chúc
cũng như không có bất kỳ văn bản hoặc thỏa thuận phân chia khối di sản này
cho cá nhân cụ Oản nên khối tài sản này sẽ được phân chia theo pháp luật, cụ
Oản chỉ có quyền định đoạt đối với phần tài sản của mình.

Và căn cứ theo Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về Giải quyết
tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết thì các vợ của ông Oản
chết và không có di chúc nên ông Oản sẽ quản lý tài sản chung của vợ chồng.
Và khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi.


Phần tài sản của vợ ông Oản chết được chia theo quy định của pháp luật về
thừa kế. Do bà Chi với bà Hồng đều là người được hưởng thừa kế do mẹ mình
để lại nên ông Oản không có quyền quyết định chia cho anh Toàn được toàn
quyền sử dụng 200m2.
Trả lời câu hỏi:
1. Anh (chị) hiểu như thế nào là “thay đổi yêu cầu”, “thay đổi vượt quá
yêu cầu”, “thay đổi trong phạm vi yêu cầu”. Cho ví dụ minh họa.

- “Thay đổi yêu cầu” là việc đương sự đưa ra một yêu cầu khác với yêu cầu ban
đầu của họ để Tòa án xem xét giải quyết trong cùng vụ án. Việc thay đổi này
không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật tranh chấp mà chỉ là thay đổi quan
hệ pháp luật tranh chấp này sang quan hệ pháp luật tranh chấp khác.
+ Ví dụ: Theo đơn khởi kiện ban đầu nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại tài sản
đã mượn trước đó nhưng vì tài sản này không còn hoặc không còn giá trị sử
dụng được nữa nên nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu bị đơn trả
lại giá trị của tài sản mà nguyên đơn cho bị đơn mượn.
- “Thay đổi vượt quá yêu cầu” là khi người khởi kiện yêu cầu thêm, “lớn hơn”,
“rộng hơn” , “nhiều hơn” so với yêu cầu khởi kiện cụ thể từ ban đầu.
+ Ví dụ: A khởi kiện B cho rằng B lấn chiếm của A 20m 2 đất, trong quá trình
giải quyết vụ án, A cho rằng B lấn chiếm diện tích lớn hơn nên thay đổi yêu cầu
khởi kiện, đòi B phải trả lại diện tích 25m2.
- “Thay đổi trong phạm vi yêu cầu” là việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nhưng không làm phát sinh thêm
quan hệ pháp luật tranh chấp khác ngoài một hoặc nhiều quan hệ pháp luật mà
Tòa án đang xem xét giải quyết trong cùng một vụ án hoặc không làm tăng
thêm giá trị tranh chấp trong cùng quan hệ pháp luật tranh chấp mà Tòa án
đang xem xét giải quyết.


+ Ví dụ: A khởi kiện B yêu cầu trả 500 triệu mà A cho B mượn trong vòng 1
tháng. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, vì nhận thấy B không thể xoay
xở kịp thời số tiền 500 triệu đồng trong vòng 1 tháng như yêu câu ban đầu nên
A thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu câu B hoàn trả số tiền 500 triệu đồng trong
vòng 2 tháng kể từ ngày có quyết định của tòa án.
2. Trường hợp nào thì chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn?
- Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm chỉ được Hội

đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt
quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu
được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn,
đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Tuy nhiên quy định này chưa thể hiện rõ ràng cụ thể mốc thời điểm xe xét
việc chấp nhân hoặc không chấp nhận việc thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Vì vậy căn cứ theo công văn số 01/2017/GĐ - TANDTC ngày
07/4/2017quy định: “Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu
cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu”.
 Như vậy:
- Trường hợp nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước thời điểm
Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải thì sẽ được chấp nhận.


- Trường hợp nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện từ thời điểm Tòa
án mở phiên họp trở đi thì việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ
được chấp nhận nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu.
3. Khi đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình, đương sự có phải nộp
tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu mới đó hay không? Nêu cơ sở?
Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 235, Khoản 1 Điều 236, Khoản 1 Điều 244
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố

hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên
đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
Tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi được Chủ tọa hỏi có thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không thì đương sự có
quyền trình bày về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu mà không phải làm lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và không phải nộp tiền
tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự thì phải ghi
rõ trong bản án.
4.

Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có thể được thực hiện

trong giai đoạn phúc thẩm vụ án dân sự hay không?
- Về nguyên tắc pháp luật dân sự luôn đề cao, tôn trọng sự tự nguyện và thỏa
thuận. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2015:
“Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
...


2.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,

thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”
- Theo đó, trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự tức là có thể ở giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tại phiên tòa xử sơ thẩm hay phúc thẩm đương

sự có quyền quyết định thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu tự nguyện và
không vi phạm điều cấm của luật hay không trái đạo đức xã hội.
- Ngoài ra, quy định tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015:
“Điều 244. Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.”
-Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu phải được Hội đồng xét xử xem xét nếu việc
thay đổi, bổ sung đó không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu thì mới được Hội động xét xử chấp nhận.
- Mặc khác theo quy định tại Điều 284 thì trong trường hợp chưa hết thời hạn
kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật này thì người đã kháng cáo
có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng
cáo ban đầu. –
- Ngoài ra theo quy định tại Khoản 2 thì trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại
phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo.
Như vậy quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có thể được thực hiện trong
giai đoạn phúc thẩm vụ án dân sự.
5.

So sánh với quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của bị đơn,

quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
- Giống nhau: Đều là yêu cầu khởi kiện nên yêu cầu này có thể được khởi kiện
bằng vụ án độc lập.


- Khác nhau:


Tiêu chí

Yêu cầu phản tố của bị đơn

Yêu cầu độc lập của người có

CSPL

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Khoản 4 Điều 72 và Điều Khoản 4 điều 56; Điều 73; Điều

200 BLTTDS 2015.
201 BLTTDS 2015.
Phạm vi Liên quan đến yêu cầu của Theo Điểm b Khoản 1 Điều 73,
yêu cầu

nguyên đơn hoặc đề nghị đối Khoản 1 Điều 201 BLTTDS,
trừ với nghĩa vụ của nguyên người có quyền lợi và nghĩa vụ
đơn.

liên quan có thể có yêu cầu độc
lập hoặc tham gia tố tụng với bên
nguyên đơn hoặc với bên bị
đơn. Với quy định trên thì yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan có thể đối với

Thay
đổi


nguyên đơn hoặc đối với bị đơn.
Đưa ra yêu cầu phản tố đối Theo Khoản 2 Điều 73 BLTTDS
tư với nguyên đơn, nếu có liên 2015, khi đưa ra yêu cầu độc lập

cách

quan đến yêu cầu của nguyên thì người có quyền lợi và nghĩa vụ

tham

đơn hoặc đề nghị đối trừ với liên quan có các quyền, nghĩa vụ

gia
tụng

tố nghĩa vụ của nguyên đơn. của nguyên đơn quy định tại Điều
Đối với yêu cầu phản tố thì bị 71 của BLTTDS 2015.
đơn có quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn quy định tại Điều

Thời

71 của Bộ luật này.
– Cùng với việc phải nộp cho Theo khoản 2 Điều 201 Người có

điểm

Tòa án văn bản ghi ý kiến quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có

đưa yêu của mình đối với yêu cầu của quyền đưa ra yêu cầu độc lập

cầu

nguyên đơn, bị đơn có quyền trước thời điểm mở phiên họp
yêu cầu phản tố đối với kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
nguyên đơn, người có quyền công khai chứng cứ và hòa giải.


lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập.- Bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố
trước thời điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải.=> Như vậy, thời
điểm đưa ra yêu cầu phản tố
là Từ khi nhận được thông
báo thụ lý vụ án của Tòa án
cho đến trước thời điểm Tòa
án ban hành quyết định đưa
Điều

vụ án ra xét xử.
– Yêu cầu phản tố để bù trừ – Việc giải quyết vụ án có liên

kiện

nghĩa vụ với yêu cầu của quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
nguyên đơn, người có quyền họ;- Yêu cầu độc lập của họ có
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu liên quan đến vụ án đang được
cầu độc lập;- Yêu cầu phản tố giải quyết- Yêu cầu độc lập của

được chấp nhận dẫn đến loại họ được giải quyết trong cùng một
trừ việc chấp nhận một phần vụ án làm cho việc giải quyết vụ
hoặc toàn bộ yêu cầu của án được chính xác và nhanh hơn.
nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập;- Giữa yêu cầu
phản tố và yêu cầu của
nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập có sự liên quan
với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án
thì làm cho việc giải quyết vụ


án được chính xác và nhanh
hơn.



×