Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quản lý nhà nước về kinh tế tại xã mỹ thọ, huyện bình lục, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.94 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn những năm đổi mới kinh tế ở nước ta cho thấy, việc chuyển
sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước là một chủ trương vô cùng đúng đắn, nhờ
đó mà khai thác được tiềm năng kinh tế trong nước, đi đôi với thu hút vốn, kỹ
thuật công nghệ nước ngoài, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã
hội, góp phần quyết định bảo đảm tăng trưởng của nền kinh tế, cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân.
Đối với đất nước ta, nhiệm vụ trước mắt đó chính là xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện lực
lượng sản xuất phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường, vận dụng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp
quản lý kinh tế của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích
tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất,
thúc đẩy Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đều cần sự quản lý của nhà nước, không để bàn tay vô hình của cơ chế thị
trường chi phối, bởi ở nước ta: Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do
dân, vì dân, do Đảng lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Ở nước
ta, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc kết hợp tính định
hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị trường
và cơ chế thị trường. Bởi kế hoạch và thị trường đều là công cụ, phương tiện
để phát triển kinh tế, quản lý của nhà nước là để phát huy mặt tích cực, hạn
chế tiêu cực của cơ chế thị trường.
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng trong tình hình và bối cảnh
trên thế giới, khu vực và của đất nước ta những năm qua và trong những năm
tới có rất nhiều thuận lợi cũng như khó khăn thách thức của cơ chế thị trường
khi đất nước ta mở cửa hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến và hiện đại,


trong khi chúng ta mới đang trong thời kì quá độ, nền kinh tế còn nghèo nàn,
1


lạc hậu, khoa học kỹ thuật chưa phát triển. Những yếu tố đó ít nhiều tác động,
ảnh hưởng đến cơ sở địa phương trong cơ chế nền kinh tế thị trường hiện nay.
Để đạt được mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đưa đời sống
nhân dân đến ấm no, hạnh phúc thì mỗi địa phương, cơ sở phải thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông thôn, vận dụng tốt cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Từ đó thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Là một sinh viên khoa Xây dựng Đảng, tôi luôn cảm thấy có trách
nhiệm với địa phương. Qua nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về kinh tế,
tôi nhận thấy, cần phải vận dụng tốt các quan điểm đường lối của Đảng về
quản lý nhà nước về kinh tế, từ đó vận dụng thực tế vào địa phương, cũng với
các cán bộ công chức, các ngành, các Hợp tác xã thực hiện tốt các chỉ tiêu
phát triển kinh tế của xã đi đúng định hường của Đảng, Nhà nước, thực hiện
tốt chức năng quản lý, điều hành để phát triển nền kinh tế của địa phương.
Sau khi được học tập và nghiên cứu, tôi xin chọn đề tài: “Quản lý nhà
nước về kinh tế tại xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam” để làm đề
tài tiểu luận kết thúc môn học Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu.
Từ đề tài này, tôi sẽ vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng trong
việc tham mưu với các cấp lãnh đạo xây dựng nền kinh tế của nước ta vào
thực tiễn của xã Mỹ Thọ, đánh giá được những mặt đã làm được, những mặt
chưa làm được, những thiếu sót, khuyết điểm và phương hướng giải pháp cho
nhiệm vụ phát triển kinh tế của xã những năm tiếp theo.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
- Tập trung khai thác các vấn đề về thực trạng Quản lý nhà nước về kinh
tế ở xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

- Đề ra những phương hướng, giải pháp quản lý của UBND xã Mỹ Thọ
về kinh tế
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập trung làm rõ những đặc điểm, tình hình tự nhiên , thực trạng phát
triển kinh tế- xã hội của xã Mỹ Thọ.
- Phân tích và tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm trong quản lý nhà
nước về kinh tế ở xã Mỹ Thọ.

2


- Phân tích sự tiếp thu của Đảng ta về quản lý nhà nước về kinh tế trong
giai đoạn hiện nay.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước về kinh tế tại xã Mỹ Thọ,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp khoa học chủ yếu được vận
dụng trong luận văn gồm: Phương pháp phân tích tư duy, hệ thống; phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...
V. Kết cấu của tiểu luận
Chương I: Một số vấn đề chung về quản lý nhà nước về kinh tế
Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế ở xã Mỹ Thọ,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
Chương III: Phương hướng, giải pháp quản lý của UBND xã Mỹ Thọ
về kinh tế

3



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1.1. Khái niệm
Quản lý, được hiểu một cách chung nhất, là sự điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được mục đích đặt ra từ trước.
Quản lý nhà nước là quản lý mang tính quyền lực nhà nước, được sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt
động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp
luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Từ khái niệm trên ta thấy pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý
nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội
hoặc các cá nhân để họ thay mặt nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà
nước. Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá nhân mang quyền
lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý
nhà nước bao gồm: Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được
nhà nước ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
Kinh tế là một phạm trù đặc biệt quan trọng đối với đời sống xã hội của
con người. Nhắc đến kinh tế là nhắc tới tiền bạc, của cải, nguồn thu nhập, việc
làm, thất nghiệp, giàu nghèo, phúc lợi, điều kiện sống, môi trường và môi
sinh, tiết kiệm và lãng phí cũng như các hoạt động xã hội nhằm thu và sử
dụng của cải cho việc tạo ra hạnh phúc và sức khỏe của con người, sự ổn định
và phát triển bền vững của các quốc gia.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với các đơn vị kinh tế cơ sở, các ngành, các địa phương, các vùng
kinh tế cũng như tổng thể nền kinh tế quốc dân nhằm đạt tới mục tiêu kinh tếxã hội đề ra.
1.2. Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Từ khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế ta thấy quản lý kinh tế là sự
tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý.

4


Đó là quá trình phức tạp, gồm nhiều loại công việc. Mục tiêu của quản lý kinh
tế là sử dụng tối ưu các nguồn lực để phục vụ cho lợi ích của con người và đạt
hiệu quả kinh tế- xã hội cao nhất.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do đó,quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò quan trọng. Nó là
nhân tố quyết định sự thành bại của một hệ thống kinh tế, là nguồn lực quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế làm cho các hoạt động trong
hệ thống kinh tế ăn khớp, nhịp nhàng. Quản lý kinh tế góp phần định hướng
và điều tiết nền kinh tế theo mục tiêu đã xác định, đưa đường lối, chính sách,
luật pháp vào cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển năng lực cá nhân
và tinh thần tập thể.
Quản lý kinh tế định hướng phát triển kinh tế- xã hội: Trên cơ sở
nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội mà Đảng đã đề ra đường lối định hướng phát triển kinh tế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước đề ra các chính sách, lập các quy hoạch, kế hoạch,
đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu phát triển
kinh tế trong thời gian nhất định.
Quản lý kinh tế điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường: Nhà nước
vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường để điều chỉnh quan
hệ thị trường đảm bảo cho các thành phần kinh tế phát triển công bằng, ổn
định và có hiệu quả. Từ đó đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế đạt hiệu quả
cao nhất, mọi nguồn lực được sử dụng tiết kiệm nhất và cung cấp cho xã hội
các hàng hóa và dịch vụ tốt nhất.

Quản lý kinh tế tạo lập môi trường: Môi trường cho sự phát triển kinh
tế là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan, bên ngoài, bên
trong; có mối liên hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến
việc phát triển kinh tế và quyết định đến hiệu quả kinh tế. Một môi trường
thuận lợi được coi là bệ phóng, là điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của
kinh tế nói chung và cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
nói riêng. Ngược lại, môi trường kinh doanh không thuận lợi không những sẽ
kìm hãm, cản trở mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng
trì trệ và các doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản hàng loạt. Để tạo lập
môi trường Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề sau đây: đảm
5


bảo ổn định chính trị và an ninh quốc phòng; xây dựng và không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật; xây dựng mới và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng
bảo đảm điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế hiệu quả; xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng một nền khoa học
công nghệ tiên tiến cần thiết và phù hợp...
Quản lý kinh tế bằng kiểm tra, kiểm soát: Nhà nước phải xem xét,
đánh giá tình trạng tốt xấu của các hoạt động kinh tế. Theo dõi, xem xét hoạt
động kinh tế được thực thi đúng hay sai theo quy định pháp luật nhằm bảo vệ
tài sản công, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường và tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở nước ta hiện nay, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện là đại diện cho nhân dân để quản
lý nền kinh tế với tư cách là “nhạc trưởng” điều khiển nền kinh tế theo mục
tiêu đã xác định, trong đó có sản xuất, cung ứng sản phẩm và dịch vụ công
cộng. Nhà nước phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường; tổ chức và quản lý nền kinh tế nhằm thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.

1.3. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản như: xây
dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước; xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế; tổ chức
hệ thống các doanh nghiệp; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt
động kinh tế cuát đất nước; kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh
tế; thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công dân.
Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: Trong đó cần
xác định cụ thể địa vị pháp lý, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan Nhà nước
đối với lĩnh vực quản lý kinh tế.
Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước: Xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước; xây dựng hệ thống các dự án
đầu tư nhằm cụ thể hóa các chương trình, mục tiêu chiến lược; xây dựng hệ
thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ đạo thực hiện các mục tiêu đó.
Xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế: Hệ thống pháp luật kinh tế bao
gồm rất nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính là hệ
6


thống pháp luật theo chủ thể và hệ thống pháp luật theo khách thể hoạt động
kinh tế. Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như: luật Doanh
nghiệp; luật Hợp tác xã, luật Đầu tư... Loại hình pháp luật này về thực chất là
luật tổ chức các đơn vị kinh tế, theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước
các loại chủ thể tham gia cuộc chơi do Nhà nước làm trọng tài. Hệ thống pháp
luật theo khách thể như: luật Đất đai, các luật về tài nguyên và môi trường,
được Nhà nước đặt ra cho mọi thành yếu tố nhân tài, vật lực và tác động vào
môi trường thiên nhiên.
Tổ chức hệ thống các doanh nghiệp: Nhà nước cần tập trung tổ chức
và không ngừng hoàn thiện tổ chức hệ thống doanh nghiệp Nhà nước cho phù
hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đồng thời, xúc

tiến các hoạt động pháp lý và hỗ trợ để các đơn vị kinh tế dân doanh ra đời.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của
đất nước: Bao gồm việc xây dựng quy hoạch, thiết kế tổng thể, thực hiện các
dự án phát triển kết cấu hạ tầng của nền kinh tế; tổ chức việc xây dựng và
quản lý khai thác, sử dụng.
Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế: Nhà nước kiểm
tra việc tuân thủ pháp luật kinh doanh, các pháp luật lao động, tài nguyên và
môi trường; kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê...
và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công
dân: Các loại lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội chịu sự ảnh hưởng của hoạt động
kinh tế mà Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện và bảo vệ như: phần vốn của Nhà
nước trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; các khoản được thu của Nhà nước
vào ngân sách Nhà nước từ các hoạt động kinh tế của công dân. Nội dung
công tác bảo vệ bao gồm: tổ chức bảo vệ công sản; thực hiện việc thu thuế,
phí và các khoản lợi ích khác.
1.4. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Một là, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Thể chế kinh tế thị trường tạo ra khung pháp luật để thực hiện quyền của
mỗi công dân được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm, mưu
cầu lợi ích của người khác, đồng thời góp phần vào sự phồn vinh và tiến bộ xã
7


hội. Mọi thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác đấu tranh trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế nhiều thành phần,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân

phát triển ổn định và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề quan trọng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế khác,
ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích
phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật
không cấm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển hướng vào sản xuất
các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng
nền kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm.
Đảng và Nhà nước khuyến khích sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, nhất
là giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác, xem đó là con đường
dẫn tới xã hội hóa quan hệ sản xuất phù hợp với tiến trình xã hội hóa lực lượng
sản xuất, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần.
Hai là, tiếp tục tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
cơ bản theo cơ chế cạnh tranh.
Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt,
điều tiết và định hướng của nền kinh tế nhà nước trên thị trường, mở rộng thị
trường mới ở nước ngoài, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mở rộng thị trường lao động trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động,
tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt
bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh các dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ.
Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, thị trường chứng khoán,
thị trường bảo hiểm, hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng
chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
Hình thành và phát triển thị trường bất động sản bao gồm cả quyền sử
dụng đất, từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam pử nước
ngoài tham gia đầu tư.

8



Ba là, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của
Nhà nước không những không giảm mà còn đòi hỏi Nhà nước phải quản lý
một cách hiệu lực và hiệu quả hơn. Cẩn đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh
tế thị trường, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt tiêu
để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của
Nhà nước; tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp
cạnh tranh, hợp tác để phát triển. Nhà nước định hướng phát triển kinh tế - xã
hội, khai thác hợp lý các nguồn lực, bảo đảm các cân đối vĩ mô, điều tiết thu
nhập, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó,
phải đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, như: công tác kế
hoạch hóa, nâng cao chất lượng xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường thông tin kinh tế, ứng dụng các
khoa học và công nghệ trong dự báo, kiểm tra. Bảo đảm minh bạch công bằng
trong thu chi ngân sách, nâng cao hiệu quả các chương trình quốc gia; hoàn
thiện phương thức quản lý vốn Nhà nước đầu tư phát triển, vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, tăng cường quản lý nợ Chính phủ, nợ nước ngoài. Xây dựng hệ
thống ngân hàng thương mại Nhà nước thành các doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín đủ sức cạnh tranh; thực hiện
chính sách tỷ giá linh hoạt; tách tín dụng ưu đãi của Nhà nước khỏi tín dụng
thương mại, lập các ngân hàng chính sách.
Bốn là, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Giải quyết việc làm là vấn đề chính sách xã hội cơ bản. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần giải quyết tốt các vấn đề xã hội sau: cải cách cơ bản chế độ tiền
lương; thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với những người có công, gia đình chính sách; xây dựng các
công trình hạ tầng ở nông thôn; chủ động kiểm soát quy mô và tăng cường
chất lượng dân số phù hợp; thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe nhân dân...

1.5. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế ở UBND xã
Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp thông qua để trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt tổ
chức thực hiện kế hoạch đó.
9


Lập dự toán thu chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi
ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, dự
toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết
toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và
báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp
Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà
nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã và báo
cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các
nhu cầu công ích ở địa phương, xây dựng và quản lý các công trình công
cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện nước
theo quy định của pháp luật.
Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng của xã trên nguyên tắc dân chủ tự nguyện. Việc
quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra, kiểm soát và bảo
đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
Tổ chức việc hướng dẫn và thực hiện các chương trình kế hoạch đề án
khuyến khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ để
phát triển sản xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh
dịch đối với cây trồng và vật nuôi.
Tổ chức xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ, thực hiện việc tu bổ, bảo
vệ đê điều, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, ngăn chặn

kịp thời những hành vi, vi phạm pháp luật, bảo vệ đê điều.
Tổ chức hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành nghề truyền
thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ
để phát triển các ngành nghề mới.

10


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Ở XÃ MỸ THỌ, HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
2.1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội của xã.
Xã Mỹ Thọ mang nét đặc trưng của khu đồng chiêm trũng huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam, nằm sát ngay trung tâm huyện, có vị trí: phía Đông giáp xã
An Đổ; phía Tây giáp xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm; phía Nam giáp xã
La Sơn; phía Bắc giáp xã Đồn Xá và thị trấn Bình Mỹ. Xã nằm trên trục
đường 21A, nằm trong vị trí địa lý thuận lợi, hệ thống đường bộ thuận tiện
cho việc giao lưu các hoạt động thương mại, do vậy đã tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển văn hóa - xã hội của địa phương.
Xã Mỹ Thọ với diện tích tự nhiên là 1376,54 ha, diện tích canh tác là
754,5 ha. Xã có 5 thôn, 2365 hộ, 8499 nhân khẩu, có 10 chi bộ Đảng với tổng
số Đảng viên là 210 đồng chí.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng
bộ, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân huyện Bình Lục, với tinh thần đoàn
kết nhất trí cao trong lãnh đạo và điều hành của Đảng bộ và chính quyền xã
đã nỗ lực phấn đấu phát huy những thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nghị quyết đại hội Đảng bộ đã
đề ra, đã đưa đời sống nhân dân xã Mỹ Thọ không ngừng được cải thiện và
nâng lên đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh”.
2.1.1.Những kết quả đã đạt được:
Quán triệt quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm trong
những năm qua xã Mỹ Thọ đã tập trung quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư
đúng mức cho phép phát triển kinh tế, tạo ra phát triển nhanh và mạnh trên tất
cả các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tốc độ giá trị
sản xuất tăng bình quân 12,2%/ năm. Trong đó giá trị sản xuất tăng 11%, tiểu
thủ công nghiệp và xây dựng tăng 10,7%/năm, dịch vụ tăng 15%/năm.
Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng
trong nông nghiệp từ 72,4% xuống còn 70,2%, tiểu thủ công nghiệp 9,2%
11


tăng lên 9,4%, dịch vụ từ 16,2% tăng lên 20,4%, trong nông nghiệp trồng trọt
giảm từ 76,5% xuống còn 62,9%, chăn nuôi từ 23,5% lên 37,1%. Giá trị bình
quân đầu người tăng từ 2,7 triệu đồng lên 4,3 triệu đồng/ người/ năm.
* Sản xuất nông nghiệp:
Là một xã thuần nông có trình độ thâm canh ở mức trung bình, có điều
kiện địa lý thuận lợi, mặc dù có những khó khăn thiên nhiên thời tiết, Đảng
ủy, chính quyền cùng các cơ sở luôn coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị sản
xuât nông nghiệp tăng bình quân 12,2%/năm, trong đó trồng trọt tăng bình
quân 7,5%/năm, chăn nuôi tăng 18,2%/năm.
Về trồng trọt: Tuy diện tích canh tác giảm do xây dựng một số công
trình của địa phương song vẫn đảm bảo cấy hết diện tích gieo trồng 754,5 ha,
năng suất lúa tăng từ 120 tạ/ha năm 2010 lên 138 tạ/ha năm 2015, lương thực
bình quân đầu người tăng từ 350kg năm 2010 lên 450kg năm 2015, tích cực
đẩy mạnh phát triển trồng cây ăn quả và cây có giá trị kinh tế cao.
Chăn nuôi phát triển ổn định, đàn lợn tăng từ 5838 con năm 2010 lên
8790 con năm 2015, đàn trâu bò giảm, đàn bò tăng từ 865 con năm 2010 lên

1230 con năm 2015, đàn gia cầm tăng nhanh đạt từ 61200 con lên 72353 con,
sản lượng cá và con đặc sản tăng từ 60-65 tấn/năm đưa giá trị thu nhập từ
chăn nuôi thủy sản tăng bình quân 7%/năm.
Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn từng bước được đẩy mạnh các
ngành nghề và dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Lao động thủ
công giảm đi và được thay thế bằng các thiết bị máy móc hiện đại góp phần
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm, diện
tích cây vụ đông phát triển mạnh, song chất lượng giá trị chưa cao, kết cấu hạ
tầng khu vực nông thôn còn chưa đồng bộ. Do vậy chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóahiện đại hóa.
* Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng:
Tiếp tục phát huy được tiềm năng thế mạnh của địa phương và một số
ngành nghề truyền thống như sản xuất nón lá, sản xuất gạch nung và các nghề
cơ khí sửa chữa, mộ dân dụng, khai thác đá vôi... Đại bộ phận là tư nhân trên
12


địa bàn đã không ngừng mở rộng quy mô hiện đại hóa các dây truyền và công
nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả lao động. Hàng năm
thu hút được nhiều lao động về địa phương vào làm việc có thu nhập ổn định.
Trong xây dựng luôn được địa phương quan tâm chú trọng từ năm 2010
đến nay, xã Mỹ Thọ đã đầu tư nguồn vốn cho xây dựng cơ bản với số tiền lên
tới 7 tỷ đồng, trong đó gồm các công trình chính như Trường mầm non bán
công, Trường THCS, Trường THPT. Ngoài ra còn mở rộng các khuôn viên
của các trường, sân vận động ở các thôn và trung tâm, cùng các công trình
xây dựng trong dân cũng được phát triển tương đối mạnh, góp phần làm cho
bộ mặt nông thôn và xã Mỹ Thọ ngày một khang trang đổi mới.
Tuy nhiên trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp vẫn chưa phát triển được
những ngành nghề mới. Sản xuất gạch đất nung còn thủ công theo công nghệ

cũ, chưa đảm bảo vệ sinh môi trường và đảm bảo an toàn cho sản xuất. Các
nghệ cơ khí, mộc, khâu nón lá... vẫn chỉ dừng lại ở quy mô hộ gia đình là
chính, chưa liên doanh liên kết để sản xuất, tiến độ xây dựng ở một số dự án
công trình còn chậm, thiếu vốn.
* Dịch vụ:
Giá trị sản xuất dịch vụ tăng bình quân 15%/năm. Trong đó tập trung
chủ yếu là các dịch vụ vận tải như tàu thuyền công nông, máy làm đất, xay
xát và tuốt lúa... Ngoài ra địa phương còn tạo điều kiện khuyến khích cho các
dịch vụ buôn bán kinh doanh vừa và nhỏ phát triển mạnh, như các dịch vụ
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sinh hoạt đời sống, chợ nông thôn,...đáp
ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tuy vậy các dịch vụ buôn bán kinh doanh vốn đầu tư còn thấp, hàng
hóa chưa phong phú và đa dạng. Do vậy chưa tạo ra được sức cạnh tranh
trong thị trường cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của nhân dân.
* Giao thông thủy lợi:
Giao thông: Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, Đảng
ủy, chính quyền đã phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn
bằng bê tông hóa, trong toàn xã đã hoàn thành được 8,5km, mở rộng và áp
trúc các tuyến đường liên thôn đảm bảo thuận tiện cho việc đi lại trong sinh
hoạt và giao lưu hàng hóa.

13


Thủy lợi: Tu bổ kênh mương, đê điều, xây dựng kiên cố hóa kênh
mương cấp III được 3,5km, nạo vét hàng trăm mét khối mương máng phục vụ
tốt cho việc tưới tiêu, đảm bảo sản xuất.
* Về quản lý đất đai môi trường:
Quản lý đất đai theo đúng luật, sử dụng đúng mục đích, đề nghị trên
cấp sổ đỏ sử dụng đất, thực hiện tốt việc dồn ô đổi thửa, bổ sung quy hoạch

sử dụng đất đai đến năm 2015 đồng thời giải quyết xử lý vi phạm luật đất đai
theo thẩm quyền.
* Về quản lý thu chi ngân sách:
Hàng năm đều hoàn thành 100% chỉ tiêu giao nộp các loại quỹ và thuế
với nhà nước, tăng cường chỉ đạo, khai thác các nguồn thu, đảm bảo thu đúng,
thu đủ, tổng thu ngân sách hàng năm tăng bình quân từ 10-15%/năm. Công
tác chi ngân sách luôn được thực hiện, tiết kiệm đúng mục đích, hàng năm
đều xây dựng dự toán cân đối ngân sách đảm bảo kịp thời cho các hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương. Ước tính 5 năm tổng
thu Ngân sách của xã đạt 8,256 tỷ.
2.1.2. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan: do nền kinh tế của xã xuất phát điểm thấp,
cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng, diện tích canh tác chưa đồng đều, áp dụng khoa
học kỹ thuật còn thấp, chưa mạnh dạn đưa các loại cây con mới vào sản xuất
đại trà, nên giá trị sản xuất nông nghiệp chưa cao. Trong sản xuất tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ vốn đầu tư thấp, máy móc, thiết bị lạc hậu, không đáp
ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành
của chính quyền ở một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế, chưa thật sự tích cực,
chủ động để khai thác hết tiềm năng thế mạnh của địa phương trong việc phát
triển kinh tế.
Trình độ nhận thức và chuyên môn của cán bộ chuyên trách và công
chức còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới hiện nay, chưa tích cực
sáng tạo trong công việc, thiếu tham mưu, đề xuất giải pháp...đã ít nhiều ảnh
hưởng đến sự phát triển của địa phương.
Từ đặc điểm tình hình trên rút ra một số thuận lợi, khó khăn trong phát
triển kinh tế - xã hội của xã như sau:
14



Thuận lợi:
Do có chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết,
chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành kịp thời, hợp lòng dân, có
sự lãnh đạo trực tiếp của huyện ủy, sự quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện về mọi
mặt của Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân huyện.
Là một xã gần trung tâm huyện, có đường giao thông thuận lợi, có
truyền thống thâm canh tăng năng suất cây trồng vật nuôi nhiều năm. Do vậy
việc giao lưu các hoạt động kinh tế được mở rộng, tạo điều kiện cho sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ của địa phương phát triển.
Đảng bộ và chính quyền xã Mỹ Thọ đã cụ thể hóa được các chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên bằng các chương trình hành động cụ thể, phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương, có sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ đảng viên
và các ban ngành đoàn thể nhân dân trong xã, nội bộ luôn đoàn kết thống nhất
cao, nâng cao vai trò lãnh đạo và quản lý điều hành của chính quyền trong
việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế ở địa phương.
Khó khăn:
Điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng thấp và chưa đồng bộ, diện tích
canh tác chưa đồng đều, chưa dám mạnh dạn đi sâu chế biến tiêu thụ nông sản
thực phẩm, nên giá trị nông nghiệp thu nhập không cao. Trong sản xuất tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ, vốn đầu tư thấp, máy móc thiết bị không đáp ứng
cho sản xuất kinh doanh.
Trình độ năng lực điều hành còn thấp, cán bộ công chức chuyên môn
còn hạn chế chưa theo kịp với nhu cầu phát triển quản lý nhà nước về kinh tế
hiện nay.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền xã Mỹ Thọ
trong những năm vừa qua
2.2.1. Kết quả đạt được
* Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã.
- Về kinh tế:
+ Phát triển nông nghiệp: Đã gieo trồng các loại cây màu là 754,5 ha,

trong đó có 20,0 ha chuyển sang nuôi trồng thủy sản với năng suất đạt 230,2
tạ/ha, gieo trồng tích cực chuyển đổi cây trồng quan tâm phát triển cây rau
màu vụ đông, tập trung vào các loại cây hành tỏi và rau màu khác, phát huy
15


tốt chăn nuôi bò lai, gia súc, gia cầm với quy mô lớn, cơ cấu nông nghiệp là
70,2%.
+ Tiểu thủ công nghiệp: Tiếp tục xây dựng các ngành nghề truyền
thống như gạch đất nung, khai thác đá, vận chuyển với cơ cấu là 9,2%.
+ Dịch vụ: Trong đó tập trung chủ yếu các dịch vụ vận tải như xe công
nông, máy làm đất, xay xát và tuốt lúa, ngoài ra khuyến khích các dịch vụ
kinh doanh khác như các hàng quán, chợ....với cơ cấu là 14,3%.
+ Giao thông : Thực hiện kiên cố hóa các tuyến đường giao thông liên
thôn và các thôn xóm bằng bê tông đạt 72,0%.
+ Thủy lợi: Từng bước kiên cố hóa kênh mương và nạo vét kênh
mương đảm bảo tưới tiêu.
+ Đất đai: Quy hoạch sử dụng đất đai để sử dụng có hiệu quả.
+ Ngân sách: Hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu thu, chi tài chính đúng
nguyên tắc, hàng năm đã tăng thu từ 10%-20%.
- Về xã hội: Hàng năm luôn quan tâ thúc đẩy làm tốt công tác giáo dục,
số trẻ đến trường cao, cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo việc học tập của học
sinh.
+ Y tế: Làm tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.
+ Văn hóa truyền thanh: Cơ sở vật chất đảm bảo công tác tuyên truyền
được thường xuyên, đảm bảo chất lượng tin bài, phục vụ tốt cho nhiệm vụ
chính trị địa phương.
+ Thực hiện chính sách xã hội trong những năm qua, quan tâm thường
xuyên và làm tốt công tác chính sách xã hội đối với các đối tượng thương
binh, liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng, các đối tượng cứu trợ xã

hội.
* Xây dựng và quản lý ngân sách xã:
Lập dự toán ngân sách xã hàng năm chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng
Nhân dân xã, Ủy ban Nhân dân xã đều lập dự toán thu, chi ngân sách cho năm
tiếp theo của kế hoạch theo quy định của cấp trên và của địa phương.
Cụ thể như phần dự toán thu, chi ngân sách của xã 6 tháng cuối năm
2010 như sau:
16


2.2.1.1. Dự toán thu ngân sách xã cuối năm 2010:
- Tổng thu ngân sách xã:
1.164.384.200 đ
+ Các khoản thu 100%:
182.934.000 đ
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %:
652.555.200 đ
+ Thu từ bổ xung ngân sách cấp trên:
328.895.000 đ
2.2.1.2. Dự toán chi ngân sách xã cuối năm 2010:
- Tổng chi ngân sách xã:
1.164.384.200 đ
+ Chi đầu tư XDCB:
634.251.000 đ
+ Chi thường xuyên:
530.133.200 đ
2.2.1.3. Dự toán thu và sử dụng các quỹ 6 tháng cuối năm 2010:
- Quỹ NVLĐ công ích:
76.875.000 đ
dự kiến chi:

76.875.000 đ
- Quỹ PCLB:
10.750.000 đ
dự kiến chi:
10.750.000 đ
- Quỹ KTM:
10.478.000 đ
dự kiến chi:
10.478.000 đ
2.2.1.4. Dự toán thu chi hoạt động tài chính khác:
- Các quỹ chuyên dùng:
280.200.000 đ
Dự kiến chi:
280.200.000 đ
- Các hoạt động sự nghiệp:
277.700.000 đ
Dự kiến chi:
277.700.000 đ
- Sự nghiệp văn hóa:
277.700.000 đ
Dự kiến chi:
277.700.000 đ
- Sự nghiệp y tế:
90.000.000 đ
Dự kiến chi:
90.000.000 đ
- Giáo dục mầm non:
187.700.000 đ
Dự kiến chi:
187.700.000 đ


17


Phần thu:
BIỂU TỔNG HỢP
STT
A
I
II
III
IV

CHỈ TIÊU

DỰ TOÁN (Đ)

Tổng thu ngân sách
1.427.406.000
Các khoản thu 100%
165.399.000
Các khoản thu phân chia
666.267.000
theo %
Thu từ bổ sung ngân sách
506.480.000
cấp trên
Thu chuyển nguồn ngân
89.260.000
sách chuyển sang


THU (Đ)
598.844.300
72.892.500
13.711.800

TỶ LỆ
ĐẠT %
42
44
2

422.980.000

84

89.260.000

100

Phần chi:
BIỂU TỔNG HỢP
STT
A
I
II

CHỈ TIÊU
Tổng chi ngân sách
Chi đầu tư XDCB

Chi thường xuyên

DỰ TOÁN (Đ)
1.427.406.000
733.841.000
693.565.000

18

THU (Đ)
506.175.830
99.590.700
406.585.130

TỶ LỆ
ĐẠT %
35
14
59


- Quyết toán ngân sách xã năm 2009:
BIỂU TỔNG HỢP
STT
I
1
2
3
4
II

1
2
3

CHỈ TIÊU
Tổng thu ngân sách
Các khoản thu xã hưởng 100%
Các khoản phân chia theo tỷ lệ %
Thu bổ sung từ ngân sách cấp huyện
Thu chuyển nguồn từ năm trước sang
Tổng chi ngân sách
Chi đầu tư
Chi thường xuyên
Chi chuyển nguồn ngân sách sang năm
sau
kết dư ngân sách

QUYẾT TOÁN
2.066.263.310
566.639.540
46.215.770
1.333.408.000
120.000.000
2.065.878.286
1.377.079.100
599.539.186
89.260.000

GHI CHÚ


285.026

* Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
- Xây dựng đường giao thông những năm vừa qua Ủy ban Nhân dân xã
chỉ đạo tập trung xây dựng đường bê tông thôn xóm bằng nguồn vốn hỗ trợ
của tỉnh là 20%, xã đầu tư 10% còn lại nhân dân đóng góp bằng ngày công và
tiền. Đến năm 2010 đã làm được 15km, với tổng kinh phí gần 5 tỷ đồng.
Đến nay Ủy ban Nhân dân xã tiếp tục chỉ đạo tuyên truyền vận động
nhân dân ở một số cơ sở thôn chưa hoàn thành kế hoạch tiếp tục đăng ký hoàn
thành vào năm 2011.
- Xây dựng kênh mương thủy lợi và các phương tiện phòng chống lụt
bão.
Kênh mương phục vụ tưới tiêu đã xây dựng được trên 3 km kênh cấp
III, kinh phí hỗ trợ của cấp trên là 50% còn lại do nhân dân đóng góp.
- Quản lý và xây dựng cơ sở vật chất trường học từ năm 2010 đến nay
đã xây dựng được 12 phòng học cho trường THCS với kinh phí hỗ trợ của cấp
trên, ngân sách xã và nhân dân đóng góp. Ngoài ra còn tu sửa trụ sở UBND,
trạm y tế xã, sân vận động với kinh phí ngân sách xã hàng trăm triệu đồng từ
nguồn đấu giá đất. Các công trình xây dựng đều đảm bảo nguyên tắc và sử
dụng có hiệu quả, đúng mục đích góp phần thực hiện tốt các chương trình
kinh tế xã hội của xã.
- Tổ chức thực hiện dự án công trình áp dụng công nghệ, khuyến nông.

19


UBND xã trong những năm qua đã tham gia thực hiện tốt một số dự án
của nhà nước và địa phương như điện nông thôn, chương trình nước sạch với
vốn vay dài hạn đang tổ chức tuyên truyền và thực hiện giải tỏa hành lang đền
bù đất đai để thực hiện dự án vào năm 2011, đã hoàn thành dự án vào dồn

điền đổi thửa vào năm 2014.
Dự án xây dựng đường giao thông và kiên cố hóa kênh mương hoàn
thành vào năm 2015.
- Bảo vệ môi trường UBND xã luôn quan tâm, bảo vệ môi trường sản
xuất bởi sản xuất càng phát triển thì ô nhiễm môi trường càng lớn, như chất
thải chăn nuôi, rác thải sinh hoạt, phân bón thuốc trừ sâu...nên việc quản lý
của UBND xã đã có kế hoạch triển khai công tác vệ sinh môi trường, quy
hoạch bãi là bãi rác thải, quy hoạch các khu chăn nuôi tập trung cách xa trung
tâm dân cư thành các trang trại tập trung; khơi thông cống rãnh, thành lập các
tổ vệ sinh môi trường ở các thôn xóm có ban chỉ đạo vệ sinh môi trường, ở
các thôn xóm có ban chỉ đạo vệ sinh môi trường do trạm y tế làm thường trực.
- UBND xã thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát. Ngoài việc kiểm tra,
kiểm soát của Đảng ủy- HĐND, UBND xã hàng năm luôn duy trì chế độ kiểm
tra, kiểm soát tới các công việc mà UBND xã tổ chức thực hiện như thực hiện
kế hoạch thu chi tài chính đôn đốc thu hồi nợ, hoàn thiện cho các dự toán kế
hoạch năm sau. Kiểm tra sử dụng đất đai, xử lý vi phạm luật đất đai và kế
hoạch sử dụng đất, kiểm tra tình hình phát triển nông nghiệp các dự án đầu tư
cho nông nghiệp, kiểm tra việc thực hiện cơ sở hạ tầng, kiểm tra việc công tác
thủy lợi đê điều, tưới tiêu vệ sinh môi trường sau kiểm tra đều có đánh giá rút
kinh nghiệm và có kế hoạch chỉ đạo thực hiện tiếp theo.

CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ CỦA UBND XÃ MỸ THỌ
3.1. Phương hướng
20


3.1.1. Mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát: Tập trung khai thác mọi tiềm lực, tiềm năng thế

mạnh của địa phương, khắc phục mọi khó khăn đẩy mạnh kinh tế phát triển
đa dạng, vững chắc, tốc độ phát triển kinh tế cao, cơ cấu kinh tế phát triển
theo mô hình nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, quyết
tâm phấn đấu xây dựng Đảng bộ chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong sạch vững mạnh, xây dựng xã Mỹ Thọ vì mục tiêu dân
giàu, xã mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
- Mục tiêu cụ thể: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã đạt bình
quân 12%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 8,3%, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng tăng 12,9%/năm, dịch vụ tăng 18,6%/năm, thu nhập bình quân đầu
người đến năm 2020 đạt 6,7 triệu đồng/người/năm.
Cơ cấu giá trị sản xuất đến năm 2020 nông nghiệp 64,3%, tiểu thủ công
nghiệp xây dựng 10,2% dịch vụ 25,5%.
Thu ngân sách hàng năm vượt kế hoạch từ 10-12%.
Phấn đấu từ 90-95% lao động trong độ tuổi có việc làm và có thu nhập
ổn định.
Phấn đấu giảm hộ nghèo xuống 12%, tăng dần hộ khá và giàu.
Thực hiện tốt các chương trình phát triển văn hóa - xã hội, giáo dục, y
tế.
Giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng Đảng bộ chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong sạch vững mạnh.
3.1.2. Phương hướng, nhiệm vụ cụ thể.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp:
Là một xã thuần nông, nhiệm vụ xác định nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, tập trung quan tâm đầu tư đúng mức cho sản xuất nông nghiệp, phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị sản xuất tăng bình quân từ 4-4,5%,
trong đó trồng trọt tăng từ 2-2,5%, chăn nuôi tăng từ 5-6%, dịch vụ tăng 1517%. Đẩy mạnh các biện pháp thâm canh, áp dụng các loại giống mới phù
hợp với các loại đất, phấn đấu năng suất đạt 14-15 tấn/ha, mở rộng diện tích
cây vụ đông từ 90-95%, diện tích canh tác với các loại cây trồng có giá trị

21


kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi đáp ứng cới nhu cầu của thị trường.
Khuyến khích các hộ gia đình có địa hình thuận lợi đầu tư chăn nuôi
đàn bò sinh sản, định hướng phát triển quy mô trạng trại, chăn nuôi gia súc,
gia cầm theo phương thức công nghiệp, tận dụng ao hồ để nuôi trồng thủy
sản, nuôi con đặc sản, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật,
pháp lệnh về đất đai, chăn nuôi thú y để có phát triển sản xuất và phòng trừ
dịch bệnh.
- Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Tiếp tục duy trì và củng cố các cơ sở sản xuất đã có khai thác mọi tiềm
năng, thế mạnh, phát huy hiệu quả các làng nghề, tăng cường mở rộng các
ngành nghề vận tải, khai thác cát đá và các ngành nghề khác để thu hút lao
động, giải quyết việc làm tăng thu nhập.
Tích cực đẩy mạnh các dịch vụ vận tải như tàu, ô tô, công nông, dich
vụ làm đất, xay xát, vật tư phục vụ sản xuất, củng cố duy trì quản lý kinh
doanh.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng.
Giao thông: Tiếp tục phát động phong trào toàn dân làm đường giao
thông nông thôn bằng nguồn vốn của địa phương và đóng góp của nhân dân,
phấn đấu đến năm 2020, 100% đường thôn xóm được bê tông hóa phục vụ tốt
cho việc đi lại và sản xuất, giao lưu hàng hóa.
Thủy lợi: Thường xuyên củng cố, nâng cấp tốt các tuyến đê, có phương
án phòng chống lụt bão, hàng năm tổ chức củng cố nạo vét kênh mương, đảm
bảo phục vụ tốt cho sản xuất.
- Công tác quản lý đất đai: Tăng cường quản lý đất đai theo luật, giải
quyết các tồn đọng trong quản lý đất đai.

- Công tác quản lý tài chính, tín dụng:
Hàng năm hoàn thành tốt các chỉ tiêu giao nộp, thu tốt các nguồn thu
tại địa bàn, thực hiện xử lý tốt các vi phạm trong quản lý tài chính và chấp
hành chính sách thu nộp trong nhân dân.
Tạo điều kiện cho nhân dân được vay các nguồn vốn của ngân hàng để
phát triển sản xuất.
22


Thực hiện tốt các chính sách kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện cho các công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân vào địa bàn. Đồng
thời khuyến khích các lao động, các hộ gia đình mở rộng quy mô sản xuất,
góp vốn liên doanh, liên kết với nhau, thành lập các tổ hợp để phát triển sản
xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động có thu nhập, tăng cường công tác
quản lý của chính quyền đối với các thành phần kinh tế, các hộ buôn bán kinh
doanh, chống buôn gian, bán lậu, đảm bảo cho các thành phần kinh tế cạnh
tranh bình đẳng đúng pháp luật của nhà nước.
Đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng và vai trò
của các tổ chức quần chúng nhân dân để thúc đẩy hoàn thành các chỉ tiêu kinh
tế xã hội của xã.
3.2. Giải pháp nâng cao, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh
tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta đang đứng trước những thời cơ
và thách thức lớn. Chúng ta đã có kinh nghiệm và kết quả của hơn 20 năm đổi
mới và đang đứng trước xu thể mở cửa, hội nhập và hợp tác quốc tế, với
những diễn biến phức tạp đòi hỏi quản lý nhà nước về kinh tế phải tiếp tục đổi
mới một cách toàn diện. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước để Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu

quả, cán bộ công chức nhà nước thực sự là cán bộ của dân, làm tốt công tác
quản lý kinh tế - xã hội đáp ứng và phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, quản lý
nhà nước về kinh tế của nước ta hiện nay cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, điều chỉnh về chức năng của Nhà nước trong quản lý nhà
nước về kinh tế: Việc điều chỉnh cần tiến hành theo hướng tập trung điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong kinh tế, hỗ trợ công dân lập thân, lập nghiệp
một cách kịp thời, có hiệu quả. Bổ sung thị trường những hàng hóa và dịch vụ
một cách có tính toán bằng phương pháp thích hợp, hiệu quả. Nhà nước ra đã
và đang điều chỉnh lại khối doanh nghiệp Nhà nước, giảm bớt những doanh
nghiệp không cần thiết, củng cố và phát triển thêm những doanh nghiệp nhà
nước vào những vị trí thực sự cần thiết. Cần ý thức và hành động đầy đủ hơn
23


trong việc sử dụng lực lượng kinh tế Nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước nói riêng như một phương tiện giúp
nhà nước thực hiện điều chỉnh các quan hệ kinh tế nói riêng và quan hệ xã hội
nói chung. Ngoài ra, Nhà nước sử dụng đúng mức, đúng vị trí các công cụ
quản lý vào hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng coi trọng công
cụ pháp luật, sử dụng hiệu quả các đòn bẩy kinh tế. Nhà nước cần hiểu đúng
vai trò, vị trí, tác dụng của công cụ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục trên cơ
sở đó lựa chọn nội dung thiết thực, tránh hình thức, kém thiết thực, khó tiếp
thu...; hiểu đúng bản chất của hoạt động kế hoạch hóa, gắn kế hoạch Nhà
nước với pháp luật, với hệ thống đòn bẩy kinh tế, với hoạt động tuyên truyền,
giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế.
Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức đủ sức sử
dụng hệ thống công cụ mới nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn theo yêu cầu mới hiện nay. Yêu cầu mới đối với công chức bao gồm
chất lượng từng cán bộ, công chức và chất lượng của tổ chức bộ máy nhà

nước. Chất lượng từng cán bộ, công chức là chất lượng về chính trị, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, văn hóa, pháp luật, kỹ năng hành chính, phẩm chất
đạo đức... Chất lượng của tổ chức bộ máy nhà nước phụ thuộc nhiều vào chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ ba, hoàn thiện việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế:
Nhà nước cần tập trung vào việc xử lý các mối quan hệ. Trong quan hệ giữa
cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp, một mặt cần tăng cường hoạt động
lập phát nhằm làm cho pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng bao
trùm được mọi mặt của sự vận động kinh tế, đồng thời các chuẩn mực quản lý
được xây dựng một cách khoa học, đúng đường lối chính trị của Đảng. Mặt
khác, cần đảm bảo cho cơ quan hành pháp có thẩm quyền đủ đáp ứng những
đòi hỏi thường xuyên, linh hoạt của đời sống kinh tế. Ở quan hệ giữa các bộ
chuyên ngành với các bộ chức năng, cần chấn chỉnh và nâng cao chất lượng
quản lý nhà nước của các bộ chức năng, đồng thời giảm đầu mối các bộ
chuyên ngành, chuyển từ bộ đơn ngành sang bộ đa ngành. Ngoài ra, trong
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, cần có sự phối hợp chính xác trong phân
công quản lý giữa các cấp, xóa bỏ “Kinh tế trung ương, kinh tế địa phương”
trong chỉnh thể kinh tế quốc dân.
24


25


×