Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng của Đảng bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.04 KB, 43 trang )

Đề án
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng của Đảng bộ huyện TB, tỉnh GL giai đoạn 2016-2020
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng kiểu mới theo Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, có sứ mệnh lịch sử hết sức nặng nề và vẻ vang là lãnh đạo giai cấp và
dân tộc tiến hành thắng lợi cách mạng dân tộc, dân chủ, đánh thắng các cuộc
chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ, quyết liệt, phức tạp đó, đòi hỏi
Đảng phải có đường lối, chính sách đúng, có năng lực tổ chức thực hiện cao,
phải tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên, kịp thời, có hiệu quả. Chính
vì vậy, ngay từ khi mới thành lập và suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát.
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng; thực tiễn lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã khẳng định kiểm
tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo phải có kiểm
tra; “lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo”. Kiểm tra,
giám sát còn là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng; qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI và Hội nghị lần thứ
sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm

1


tra là “một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng”, là
“biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu” và “có giám sát tốt
mới có thể đánh giá đúng, lựa chọn đúng và đặc biệt là kịp thời ngăn ngừa


sai phạm từ khi mới có những dấu hiệu vi phạm; đó cũng là phương thức
quan trọng để bảo vệ cán bộ, bảo đảm Đảng và Nhà nước có đội ngũ cán bộ,
công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được nhân tin
yêu”.
Mặt khác, công tác kiểm tra, giám sát còn là nhiệm vụ trực tiếp, thường
xuyên của mọi tổ chức đảng, qua đó tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, làm
cho Đảng thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
góp phần tự đồi mới, tự chỉnh đốn Đảng, đảm bảo lãnh đạo thắng lợi sự
nghiệp cách mạng.
Hơn bao giờ hết, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, công tác kiểm tra, giám sát phải được coi trọng và tiến hành thường
xuyên, liên tục để vược qua những thách thức mới như Đảng ta đã xác định
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chức được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng
với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều
cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước,
đe dọa sự phát triển của đất nước”; “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt
chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình
và phê bình yếu”; “Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm …

2


Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng”.
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X)

về tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Đảng, Đảng bộ huyện TB, tỉnh
GL xác định đúng nhiệm vụ, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; chủ động, kịp thời quán triệt, triển
khai thực hiện đầy đủ các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện
của tổ chức đảng cấp trên về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng, tỉ lệ đảng viên tham dự đạt bình quân 97,62%. Chủ động xây
dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa và hàng năm có trọng tâm,
trọng điểm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung quan trọng, cần thiết,
đảm bảo phù hợp với chỉ đạo của cấp trên, gắn với tình hình thực tế của từng
địa phương, đơn vị và tổ chức thực hiện mang lại hiệu quả. Trong lãnh đạo,
chỉ đạo thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện, định kỳ tiến hành sơ,
tổng kết đánh giá kết quả thực hiện.
Công tác kiểm tra, giám sát trên địa bàn huyện được chú trọng hơn và
có nhiều chuyển biến tích cực; nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát ngày càng được nâng lên; cấp ủy các
cấp có sự quan tâm hơn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
thường xuyên, liên tục; các cuộc kiểm tra, giám sát được tiến hành công khai,
dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ, đảm bảo đúng quy trình, thủ tục,
hồ sơ; qua đó kịp thời ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, sai trái, suy thoái
về đạo đức, lối sống, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, chỉ ra
những thiếu sót, khuyết điểm để tổ chức đảng và đảng viên sửa chữa, khắc
phục; các trường hợp vi phạm được xem xét, xử lý đúng thẩm quyền, áp dụng
hình thức kỷ luật phù hợp, có tác dụng giáo dục, phòng ngừa vi phạm, góp
phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

3


Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng
của Đảng bộ huyện cũng còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định: Do

thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ nên có thời gian chậm củng
cố nhân sự của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy,
nhân sự ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở có nhiều biến động đã ảnh hưởng không
nhỏ đến việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và kỷ luật trong Đảng. Một số cấp ủy cơ sở thực hiện chưa tốt vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo đối với ủy ban kiểm tra cùng cấp và cán bộ tham mưu, giúp việc
đảng ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Một số ủy ban kiểm tra cơ sở
thực hiện chưa đồng bộ các nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát; có nơi
chưa mạnh dạn xử lý đảng viên vi phạm theo thẩm quyền, chưa nắm chắc quy
trình, xử lý chưa nghiêm. Còn một số ít cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cấp
ủy nhận thức chưa sâu, chưa đầy đủ về công tác kiểm tra, giám sát nên kết quả
thực hiện có lúc chưa tốt, hiệu quả không cao; một số cán bộ làm công tác kiểm
tra còn yếu về kỷ năng, nghiệp vụ. Thực hiện chất vấn trong Đảng vẫn còn xảy
ra nhầm lẫn giữa chất vấn và thảo luận, có nơi tổ chức chất vấn chưa đúng
hướng dẫn. Kết quả thực hiện quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra với các cơ quan bảo vệ pháp luật còn
hạn chế, nội dung phối hợp chưa nhiều, chưa có sự chủ động trao đổi thông tin.
Lãnh đạo, nhắc nhở việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cấp dưới chưa
thường xuyên và chưa kiên quyết nên còn trường hợp vi phạm phải xử lý kỷ luật.
Trước thực trạng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng của Đảng bộ huyện, bản thân tôi xây dựng Đề án “Nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng của Đảng bộ
huyện TB, tỉnh GL giai đoạn 2016-2020” với mong muốn đóng góp một số
giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi

4


hành kỷ luật trong Đảng trên địa bàn huyện, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.


2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá đúng thực trạng, đề ra giải pháp thiết thực, sát hợp với điều
kiện, tình hình thực tế của địa phương nhằm tiếp tục đổi mới và tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp
ủy, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra,
giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
đảng; nêu cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn
vị trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có chất lượng, đạt hiệu quả và
toàn diện công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; tập
trung vào các vấn đề xã hội quan tâm, bức xúc, lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát
sinh tiêu cực; chủ động phát hiện, chấn chỉnh, uốn nắn những thiếu sót,
khuyết điểm, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm; kịp thời xem xét, xử lý vi
phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đảm bảo khách quan, dân chủ, thận
trọng, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục; xây dựng tổ chức bộ máy,
cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phấn đấu 100% chi, đảng bộ trực thuộc đảng bộ huyện, 100% ủy ban
kiểm tra huyện và cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát
có trọng tâm, trọng điểm, sát hợp với tình hình thực tế của địa phương và tổ
chức thực hiện đảm bảo chất lượng, đạt hiệu quả.

5


- Cấp ủy các cấp kiểm tra, giám sát và chỉ đạo các tổ chức đảng, tiến
hành kiểm tra, giám sát đối với 100% các tổ chức đảng và đảng viên; cụ thể:
+ Ban Thường vụ Huyện ủy kiểm tra, giám sát đối với 100% các chi,

đảng bộ cơ sở.
+ Các đảng bộ cơ sở kiểm tra, giám sát đối với 100% các chi bộ trực
thuộc.
+ Các chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở đảm bảo mỗi đảng
viên được kiểm tra hoặc giám sát ít nhất 01 (một) lần trong nhiệm kỳ.
+ Ủy ban kiểm tra huyện và cơ sở tổ chức thực hiện vượt chương trình
kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2015 - 2020 từ 10% - 20% (cả về nội dung và chỉ
tiêu).
+ Các cơ quan (hoặc cán bộ) tham mưu giúp việc của huyện ủy và
đảng ủy cơ sở kiểm tra, giám sát theo ngành (tổ chức, tuyên giáo, dân vận,
văn phòng) và giúp cấp ủy tiến hành kiểm tra, giám sát hoàn thành 100% nội
dung chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2015 - 2020.
- Giải quyết kịp thời 100% đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức
đảng và đảng viên, đảm bảo dân chủ, khách quan, đúng nguyên tắc, quy trình,
quy định của Đảng,
- Thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảm bảo dân chủ,
khách quan, công minh, chính xác, kịp thời, đúng phương hướng, phương
châm, nguyên tắc, thủ tục theo quy định; không để xảy ra oan sai.
- Về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra: Trên 90% cán bộ làm công tác
kiểm tra, giám sát cấp cơ sở được bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ; 100% có
trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. 100% ủy viên ủy ban kiểm tra cấp
huyện có trình độ lý luận chính trị cao cấp và tương đương.

6


3. Giới hạn đề án
3.1. Đối tượng: Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3.2. Phạm vi: Tại Đảng bộ huyện TB, tỉnh GL.
3.3. Thời gian: Giai đoạn 2016 - 2020.

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của đảng bộ là khái niệm chỉ
mức độ đúng đắn, chính xác của các yếu tố hình thành nên giá trị của công tác
kiểm tra, giám sát, giá trị đó thể hiện ở hiệu quả, tác dụng của công tác kiểm
tra, giám sát, là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kiểm
tra, thể hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.
Kiểm tra, giám sát là việc làm thường xuyên của Đảng bộ, trực tiếp là
của cấp uỷ và của ủy ban kiểm tra các cấp. Vì vậy, để công tác kiểm tra có
chất lượng thì cấp uỷ và ủy ban kiểm tra các cấp phải chủ động xây dựng
chương trình, kế hoạch kiểm tra và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra một
cách thường xuyên, có chất lượng và hiệu quả cao.
Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thể hiện thông qua
việc xác định, lựa chọn đúng đối tượng, nội dung kiểm tra, giám sát; chấp
hành đúng nguyên tắc, quy định trong quá trình kiểm tra; kết luận rõ ưu điểm,
khuyết điểm, xử lý vi phạm (nếu có) công minh, chính xác, kịp thời qua đó
góp phần củng cố, giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; xây dựng Đảng bộ
trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.

7


1.1.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng và nguyên tắc kiểm tra của Đảng
Kiểm tra là việc xem xét thực chất, thực tế. Công tác kiểm tra của Đảng
là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc các các tổ chức
đảng xem xét, đánh giá, kết luận những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức
đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,

nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhằm bảo đảm cho các quyết định, qui định của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Chủ thể kiểm tra gồm: Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ
sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng ủy bộ phận; đảng ủy cơ sở; cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các cơ quan
tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn.
Đối tượng kiểm tra gồm: Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ
sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban
kiểm tra; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng
đoàn; đảng viên.
Nguyên tắc kiểm tra:
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy, tổ chức đảng theo quy
định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra của
Đảng.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Tổ chức
đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng viên được
tham gia kiểm tra theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra của Đảng.

8


- Việc kiểm tra phải công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng, chặt
chẽ, kịp thời, đúng phương pháp công tác Đảng và quy định của Điều lệ
Đảng.

1.1.2. Khái niệm, chủ thể, đối tượng và nguyên tắc giám sát của Đảng
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động,

thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy
chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo
cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh.
Công tác giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
Chủ thể giám sát gồm: Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ
sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các cơ quan
tham mưu, giúp việc của cấp ủy.
Đối tượng giám sát gồm: Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ
sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban
kiểm tra; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng
đoàn; đảng viên.
Nguyên tắc giám sát:

9


- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy
Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát theo quy định của Điều
lệ Đảng.
- Cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên. Đảng viên thực hiện việc giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng
có thẩm quyền.
- Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng.
- Việc giám sát phải dân chủ, khách quan, đúng nguyên tắc và quy định

của Điều lệ Đảng.
1.1.3. Thi hành kỷ luật trong Đảng
Kỷ luật là hình thức phạt đối với người hoặc tổ chức vi phạm kỷ luật.
Trong một tổ chức, khi có đối tượng vi phạm những điều đã được quy định thì
tùy theo nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm, tổ
chức có thẩm quyền được dùng hình thức phạt đối với đối tượng đó.
Trong Đảng cũng có các hình thức kỷ luật cụ thể đối với tổ chức đảng
và đảng viên vi phạm, các hình thức kỷ luật đó được quy định tại khoản 2,
Điều 35 Điều lệ Đảng Công sản Việt Nam (khóa XI).
Tính chất kỷ luật của Đảng là phải nghiêm túc, tự giác; nghiêm túc và
tự giác của kỷ luật đảng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và
dân chủ, bắt buộc và tự giác. Phương châm thi hành kỷ luật đảng là phải công
minh, chính xác; kịp thời (Điều 35 Điều lệ Đảng quy định). Căn cứ vào yêu
cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng từng thời kỳ mà xác định
phương hướng thi hành kỷ luật cho sát, đúng, đảm bảo đúng theo Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
(Nghị quyết 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007).

10


1.2. Cơ sở pháp lý
Đề án được thực hiện trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng:
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng.
- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh GL lần thứ X, nhiệm kỳ 2015
- 2020.
- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện TB lần thứ XI, nhiệm kỳ
2015 - 2020.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khoá X)

về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
- Chỉ thị số 29- CT/TW, ngày 14/2/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về
tăng cường công tác kiểm tra của Đảng;
- Thông báo số 226-TB/TW ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư Trung
ương về đổi mới nội dung tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng.
- Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị “về Chiến
lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”.
- Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung
ương về thi hành Điều lệ Đảng.
- Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành
Trung ương về việc “ ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác

11


kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII
Điều lệ Đảng khóa XI”.
- Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung
ương về những điều đảng viên không được làm;
- Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21/03/2012 của Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Quy chế giám sát trong Đảng.
- Các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tổng kết chuyên đề về
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng của Trung ương,
của Tỉnh ủy GL và của Huyện ủy TB.
1.3 Cơ sở thực tiễn
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát, những yêu cầu đặt ra đối với
việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các đảng bộ huyện

TB, tỉnh GL là vấn đề cấp thiết hiện nay.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1 Bối cảnh thực hiện đề án
Đề án được xây dựng trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện TB lần thứ XI, Đại hội
Đại biểu Đảng bộ tỉnh GL lần thứ lần thứ X, Đại hội Đại biểu toàn quốc lấn
thứ XII của Đảng (nhiệm kỳ 2015 – 2020); Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Chỉ thị 03-CT/TW,
ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ban hành nhiều văn bản, quyết định, quy
định, hướng dẫn về thi hành Điều lệ Đảng, về công tác kiểm tra, giám sát và

12


thi hành kỷ luật trong Đảng; Ban Thường vụ Tỉnh ủy GL ban hành Quy trình
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng để thực hiện thống
nhất trong toàn Đảng bộ tỉnh.
Huyện TB là huyện biên giới nằm ở phía Tây Bắc của Tỉnh GL, có vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh
và đối ngoại, với đường Biên giới dài khoảng 92 km, tiếp giáp với 4 huyện
thuộc 3 tỉnh của Vương quốc Campuchia, có 01 cửa khầu quốc tế, 01 cửa
khầu quốc gia, 03 cửa khẩu phụ và nhiều đường tiểu ngạch thuận lợi giao lưu,
buôn bán. Diện tích tự nhiên 85.332, 63 ha, đất đai thích hợp trồng các loại
cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao; dân số 97.537 người, nguồn lao động
dồi dào, Nhân dân cần cù, sáng tạo trong lao động, có 12 dân tộc, 05 tôn giáo
chính, các dân tộc, tôn giáo đoàn kết, chung sống hòa thuận; Đảng bộ đoàn
kết, thống nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức

mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Nhân dân đồng tình, ủng hộ các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng, phát
triển kinh tế, xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Bên cạnh những thuận lợi, cũng cón những khó khăn: Đường biên giới
dài, tiềm ẩn những yếu tố phức tạp; cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư
nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thời tiết
bất thường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; dịch bệnh trên cây trồng, vật
nuôi; giá cả nông sản giảm, giá nhiên liệu, vật tư phục vụ sản xuất và tiêu
dùng thiếu ổn định … đã tác động, ảnh hưởng đến quá trình lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Những thuận thợi, khó khăn trên đã tác động, ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ huyện TB, tỉnh GL.

13


2.2. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ huyện TB
giai đoạn 2010 - 2015:
Đảng bộ huyện TB có 2.361 đảng viên (miễn sinh hoạt 187 đảng viên),
61 cơ sở đảng (khối xã, thị trấn 10, cơ quan 33, lực lượng vũ trang 02, sự
nghiệp 13, doanh nghiệp 03). Ban Chấp hành Đảng bộ huyện có 42/42 đồng
chí, Ban Thường vụ Huyện ủy có 12/12 đồng chí, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy
có 07/07 đồng chí.
2.2.1. Thuận lợi
Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy xác định đúng và đầy đủ ý nghĩa,
tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng;
chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa và hàng năm sát
với tình hình thực tế của địa phương, tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt; lãnh đạo,
chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc của Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện

ủy và các chi, đảng bộ cơ sở thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
đảm bảo theo quy định của Điều lệ Đảng.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện tốt
việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị,
quyết định, quy định của Đảng và hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Hàng năm, Ban
Thường vụ Huyện ủy xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát, đồng thời chỉ
đạo các chi, đảng bộ trực thuộc xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát và tổ
chức thực hiện mang lại hiệu quả.
Các cuộc kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được thực
hiện nghiêm túc, đúng quy trình, quy định, đúng nội dung, đối tượng; kết luận
rõ ưu điểm, khuyết điểm, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm;
các tổ chức đảng, đảng viên được cảnh báo, nhắc nhở đã nghiêm túc chấn

14


chỉnh, khắc phục hạn chế, khuyết điểm không để xảy ra vi phạm; việc xử lý
đảm bảo công minh, chính xác, kịp thời.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát đã giúp cho các cấp ủy, tổ chức
đảng và đảng viên trong Đảng bộ huyện nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; từng bước khắc phục tình
trạng buông lỏng sự lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát,
góp phần củng cố và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thúc đẩy và
làm chuyển biến tốt việc chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời góp phần nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cán
bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, góp phần xây dựng các tổ chức đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh.
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra

các cấp có những chuyên biến tích cực. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn
khóa, phân kỳ thực hiện hàng năm, phân công thành viên cấp ủy, ban thường
vụ, ủy ban kiểm tra. Các cơ quant ham mưu, giúp việc tham mưu thực hiện
các nội dung theo chương trình đã đề ra
Kết quả thực hiện công tác kiểm tra giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm
tra các cấp có nội dung, đối tượng nhiều hơn so với nhiệm kỳ trước. Kiểm tra
đảng viên theo Điều 30 tăng 1.322 đảng viên, 262 tổ chức; giám sát chuyên
đề theo Điều 30 tăng 65 đảng viên, 122 tổ chức; kiểm tra đảng viên khi có đấu
hiệu vi phạm tăng 38 đảng viên, 32 tổ chức; giám sát chuyên đề theo Điều 32
tăng 132 đảng viên, 125 tổ chức.
Công tác giám sát đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã khuyến khích,
động viên tổ chức đảng và đảng viên tham gia giám sát theo chức năng nhiệm

15


vụ, bằng nhiều hình thức, phương pháp tiến hành. Chủ động phát hiện đảng
viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.
Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, uốn nắn, chấn chỉnh những
thiếu sót, khuyết điểm, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm, đẩy lùi suy thoái đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời xử
lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật, nhằm răn
đe, giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng, đảng viên, giữ
nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng; góp phần xây dựng cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa
phương, đơn vị. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã kịp thời chấn chỉnh và
xử lý những tổ chức và đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật Nhà
nước; đã thi hành kỷ luật 54 đảng viên và 02 tổ chức (giảm 42 đảng viên, 01
tổ chức).

Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp quan tâm thực hiện tốt công tác triển
khai, quán triệt đầy đủ nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nhận thức của tổ
chức đảng, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và ý thức chấp hành nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước được nâng
lên, số đảng viên, tổ chức đảng vi phạm bị xử lý kỷ luật thấp hơn so với
nhiệm kỳ trước (giảm 46 đảng viên, 01 tổ chức).
Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy thường xuyên quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo việc thi hành kỷ luật đảm bảo đúng phương hướng, phương châm,
nguyên tắc, thủ tục quy định. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, đồng thời phát huy
tối đa tính tự giác của đối tượng vi phạm.

16


Tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm
xây dựng, củng cố, kiện toàn đủ số lượng, vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tinh hình mới.
Ban Thường vụ Huyện ủy thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ
máy Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy và cơ sở; đã đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy
chuẩn y, bổ sung 04 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy (Chủ nhiệm 01, Phó
Chủ nhiệm 01, Ủy viên 02); chuẩn y bổ sung nhân sự, đảm bảo hoạt động cho
14/14 UBKT đảng ủy cơ sở/25 đồng chí (chủ nhiệm 07, phó chủ nhiệm 09, ủy
viên 09); cử 04 cán bộ Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy tham gia lớp tập huấn
nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát tại Học viện Chính trị Khu vực II,
Thành phố Hồ Chí Minh; cử 13 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy
và 04 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm
tra, giám sát do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức tại tỉnh; mở 04 lớp tập
huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho 396 đồng chí là cán bộ làm

công tác kiểm tra ở cơ sở, bí thư, phó bí thư các chi bộ trực thuộc. Trong
nhiệm kỳ, có 34 cán bộ kiểm tra được học tập nâng cao trình độ chuyên môn
(đại học 24, trung cấp 10) và có 25 cán bộ kiểm tra được học tập nâng cao
trình độ lý luận chính trị (cao cấp 03, trung cấp 22).
Cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát từ huyện đến cơ sở cơ bản đảm
bảo về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy
có 07/07 ủy viên (chuyên trách 05, kiêm chức 02). Cơ quan Ủy ban Kiểm tra
Huyện ủy hiện có 06/06 biên chế (Ủy viên chuyên trách 05 và chuyên viên
01). Về trình độ lý luận chính trị: cử nhân 01 (Chủ nhiệm), cao cấp 02 (Phó
Chủ nhiệm 01, Ủy viên 01: đang học); trung cấp 03 (Phó Chủ nhiệm 01, Ủy
viên 01, chuyên viên 01). Về chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học 06 (Chủ nhiệm
01, Phó Chủ nhiệm 02, Ủy viên 02, chuyên viên 01). Hiện nay, 14 ủy ban
kiểm tra đảng ủy cơ sở có 47 ủy viên (chuyên trách 13, kiêm nhiệm 34),

17


khuyết 01 phó chủ nhiệm (Đảng ủy Quân sự), Trong đó, 14 Chủ nhiệm (Bí
thư Đảng ủy 01, Phó Bí thư Đảng ủy 07, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy 06), 13
Phó Chủ nhiệm (chuyên trách 08, kiêm nhiệm 05). Về trình độ lý luận chính
trị: cử nhân, cao cấp 02 (Chủ nhiệm); trung cấp 38 (Chủ nhiệm 13, Phó Chủ
nhiệm 08, Ủy viên 17); sơ cấp 06 (Phó Chủ nhiệm 04, Ủy viên 02); chưa qua
đào tạo 01 Ủy viên. Về chuyên môn, nghiệp vụ: Thạc sĩ 01 (Phó Chủ nhiệm);
Đại học 08 (Chủ nhiệm 05, Ủy viên 03); trung cấp 36 (Chủ nhiệm 09, Phó
Chủ nhiệm 12, Ủy viên 15); sơ cấp 02 (Ủy viên).
Thực hiện Kế hoạch số 12-KH/HU, ngày 22/11/2010 của Ban Thường
vụ Huyện ủy TB về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp
về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra
Huyện ủy sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ kiểm tra (nhiệm kỳ 2010 - 2015), từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban

Thường vụ Huyện ủy đã luân chuyển 01 đồng chí Phó Chủ nhiệm Ủy ban
Kiểm tra Huyện ủy về giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, điều động 01 đồng chí
Trưởng Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện về Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy
bầu giữ chức Phó Chủ nhiệm, điều động 01 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện
ủy về giữ chức Phó Chánh Văn phòng Huyện ủy, điều động 01 chuyên viên
Văn phòng Huyện ủy về công tác tại Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy và bầu bổ
sung Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Việc thi hành kỷ luật trong Đảng được Huyện uỷ, Ban Thường vụ
Huyện uỷ và các cấp uỷ Đảng coi trọng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền thi
hành kỷ luật trong Đảng, nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm là
chính; mặt khác, kiên quyết xử lý hoặc chỉ đạo xử lý nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức đảng vi phạm,
không dung túng, bao che, từ đó có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa

18


chung, tạo lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Tuy nhiên, việc
thực hiện phương châm “công minh, chính xác, kịp thời” trong xử lý kỷ luật ở
một số tổ chức đảng có lúc, có mặt còn hạn chế; việc xem xét xử lý kỷ luật
đối với cán bộ giữ cương vị chủ chốt ở địa phương, đơn vị có lúc, có nơi còn
biểu hiện nể nang, kéo dài.
Giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng là một trong những nhiệm vụ được Đảng
bộ huyện đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, nhằm đảm bảo cho việc
thi hành kỷ luật được thực hiện nghiêm minh, đúng với phương hướng, phương
châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật trong Đảng và khắc phục tình trạng xử
lý kỷ luật oan, sai. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã giải quyết 01
đơn khiếu nại về hình thức kỷ luật đảng của 01 đảng viên (tăng 01 đảng viên so
với nhiệm kỳ 2005 - 2010), kết quả giữ nguyên hình thức cảnh cáo.

2.2.2. Khó khăn:
Nhận thức về vai trò, nhiệm vụ, tầm quan trọng của công tác kiểm tra,
giám sát ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy còn chưa đúng mức, chưa đầy đủ, có biểu
hiện băn khoăn, e dè, ngại tiếp xúc khi được kiểm tra, giám sát; có nơi lựa chọn
nội dung kiểm tra, giám sát còn chưa sát hợp với thực tế, có cấp ủy chưa quan
tâm đầy đủ đến việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát đối với các ban
đảng, các tổ chức đảng trực thuộc nên kết quả chưa toàn diện, chất lượng, hiệu
quả còn hạn chế; chưa mạnh dạn xử lý luật đảng viên vi phạm theo thẩm quyền,
còn đùn đẩy lên cấp trên, thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm chưa tương xứng
với nội dung, tính chất, mức độ tác hại vi phạm. Đảng viên vi phạm về đạo đức,
lối sống; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; công tác thuộc lĩnh vực nhà
nước, lực lượng vũ trang và sinh hoạt tại các chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở bị
xử lý kỷ luật chiếm tỉ lệ khá cao.

19


Một số ủy ban kiểm tra chưa phát huy hết trách nhiệm trong việc tham
mưu, giúp cấp ủy, các tổ chức đảng, chưa thực sự chủ động trong việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định.
Việc chủ động phát hiện, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đạt kết quả
chưa cao, nhiều trường hợp vi phạm đã rõ mới tiến hành kiểm tra nên hạn chế
tác dụng giáo dục, ngăn ngừa vi phạm. Một số cán bộ kiểm tra cơ sở chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, thiếu kinh nghiệm, yếu nghiệp vụ,
cán bộ có năng lực còn hạn chế chưa được thay thế.
Công tác giám sát chưa có nhiều chuyển biến; việc giám sát thường
xuyên, nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm và những vấn đề nổi cộm ở
một số địa phương, đơn vị chưa kịp thời nên ít tác dụng phòng ngừa vi phạm
hoặc phát hiện vi phạm ngay từ khi mới manh nha.

Một số ít cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống; tác
phong, lề lối làm việc chưa tốt, thiếu niềm tin, suy thoái tư tưởng chính trị, ít lắng
nghe quần chúng nhân dân, có hành vi gây phiền hà nhân dân; giảm sút ý chí
chiến đấu; ý thức tổ chức kỷ luật kém, chưa thực hiện tốt chế độ sinh hoạt đảng
theo quy định.
Tinh thần tự phê bình và phê bình, đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí của một số cấp ủy, một bộ phận đảng viên hạn chế; tính tự giác,
gương mẫu về đạo đức lối sống của một số cán bộ đảng viên chưa cao; tình trạng
vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước còn xảy ra; tính nêu gương của
người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa được rõ nét.
Tình trạng tố cáo nặc danh, mạo danh, vượt cấp còn xảy ra, tố đi tố lại
nhưng không có nội dung mới gây khó khăn cho việc tiếp nhận, giải quyết
đơn thư, tố cáo.

20


Việc phối hợp, chỉ đạo điều tra, giải quyết đối với một số vụ việc vi
phạm pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chậm ảnh hưởng đến
việc phối hợp trong xem xét trách nhiệm, xử lý kỷ luật, hạn chế tác dụng giáo
dục, răn đe đối với đảng viên vi phạm.
2.3. Nội dung cụ thể cần thực hiện
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, bên cạnh những thời cơ,
thuận lợi, cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức lối sống,
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã
làm cho bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Trước nhiệm vụ chính trị quan
trọng trong giai đọan cách mạng mới, trong Đảng đang tích cực triển khai
thục hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết

Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương cần tập trung: thực hiện tốt việc nâng cao nhận
thức của tổ chức Đảng và đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng; đổi mới và tăng cường lãnh chỉ đạo đối với công tác
kiểm tra, giám sát của các cấp ủy Đảng; tăng cường và thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ và các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám
sát; đồng thời tăng cường sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong
kiểm tra, giám sát của Đảng…
Từ những cơ sở khoa học, cơ sở pháp lí và thực trạng công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng bộ huyện TB, tỉnh GL giai đoạn 2010 - 2015, để khắc

21


phục những khuyết điểm, tồn tại về công tác kiểm tra, giám sát cần thực hiện
tốt các nội dung sau:
2.3.1. Nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm cá nhân của người
đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Nhận thức đúng thì mới xác định được trách nhiệm, mới có quyết tâm
chính trị để lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát đạt kết quả cao. Ở
đâu mà tổ chức đảng, UBKT có nhận thức một cách đầy đủ về vị trí, vai trò, ý
nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, có trách
nhiệm đối với công tác này thì ở đó công tác kiểm tra, giám sát của Đảng sẽ
phát huy được tác dụng trong công tác xây Đảng.
Do vậy, để nâng cao được nhận thức của tổ chức đảng nhất là vai trò cá
nhân của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng thì mọi tổ chức đảng phải tăng
cường công tác phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, trước hết đối với

người đứng đầu về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Đảng, vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, trách nhiệm
của các tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật của Đảng. Việc phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng về công tác
kiểm tra giám sát phải thực sự đi vào chiều sâu, tránh làm hình thức cho xong.
Từ đó mới tạo được sự chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động của tổ
chức đảng và người đứng đầu đối với công tác này.
2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra cấp trên trong việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
* Đối với Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện:

22


Tăng cường triển khai, quán triệt tuyên truyền sâu rộng các nghị quyết,
quy định, quyết định của Đảng, nhất là các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo về công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy cơ sở, tổ chức đảng, ủy ban kiểm
tra các cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ
thống chính trị.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp; xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ làm công tác
kiểm tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong tình hình mới.
Giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo; xem xét xử lý kỷ luật
tổ chức đảng, đảng viên đảm bảo phương châm, nguyên tắc, quy trình, thủ tục
kỷ luật Đảng.
Sửa đổi quy chế phối hợp, lãnh đạo, chỉ đạo uỷ ban kiểm tra và các cơ
quan có liên quan phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám

sát và thi hành kỷ luật đảng.
Tăng cường chỉ đạo các chi, đảng bộ trục thuộc xây dựng phương
hướng, nhiệm vụ, chương trình công tác kiểm tra, giám sát toàn khóa (nhiệm
kỳ 2015-2020) và hàng năm phù hợp với đặc điểm tình hình của từng địa
phương, nội dung chương trình kiểm tra, giám sát phải có trọng tâm, trọng
điểm, tránh dàn trải và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra đảm bảo chất
lượng, đúng quy trình đáp ứng được yêu cầu cảu công tác xây dựng Đảng;
đồng thời chỉ đạo, đôn đốc cấp ủy cấp dưới căn cứ vào chương trình của Đảng
uỷ và nhiệm vụ chính trị của chi bộ để xây dựng chương trình kiểm tra, giám
sát cho phù hợp. Thực hiện nghiêm túc việc triển khai các quy định, quyết
định và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra,

23


giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Hàng năm thực hiện tốt công tác sơ,
tổng kết công tác kiểm tra, giám sat và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Chỉ đạo và tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập
trung dân chủ, quy chế làm việc, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn
kết nội bộ; thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt nội bộ
Đảng; đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; việc cải cách
hành chính, cải cách tư pháp; kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; thực hiện
Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; chú
trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ
được giao. Tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ
động phòng ngừa, hạn chế những sai phạm xảy ra trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ gắn với đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; kiên quyết xử lý và chỉ đạo xử lý nghiêm minh các
trường hợp đảng viên, tổ chức đảng vi phạm, giữ gìn kỹ cương, kỷ luật, góp
phần làm trong sạch, vững mạnh nội bộ Đảng.

* Đối với Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy:
Tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc, nhắc nhở cấp ủy, ủy ban kiểm
tra cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật trong Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của
cấp trên, nhất là việc hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm tra, giám sát cho cán bộ
kiểm tra; chỉ đạo, hướng dẫn ủy ban kiểm tra cấp dưới sơ kết, tổng kết công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Chỉ đạo cán bộ kiểm tra được phân công theo địa bàn phải chủ động,
tích cực đi cơ sở nắm bắt tình hình, lắng nghe ý kiến phản ánh của cơ sở về
những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra,

24


giám sát; để qua đó kịp thời báo cáo với Thường trực Ủy ban Kiểm tra Huyện
ủy có biện pháp chỉ đạo giải quyết.
Quan tâm tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng cho đội ngũ cán bộ lám công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là những đồng chí mới tham gia cấp ủy, ủy
ban kiểm tra các cấp.
2.3.3. Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra và chi bộ đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.
* Đối với Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện,
các tổ chức cơ sở đảng.
Tiếp tục chỉ đạo quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và Kết luận số 72-KL/TW, ngày
17/5/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đến năm 2020”. Triển khai, quán triệt sâu Điều lệ Đảng, nghị quyết, các
chỉ thị, quy định, quyết định của Đảng, của cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám

sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Thông báo kết
luận số 226-TB/TW ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương về tăng
cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nhất là sau
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Từ
đó, nâng cao nhận thức và vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt ở từng cấp trong
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Xây dựng phương hướng, nhiệm vụ và chương trình kiểm tra hàng
năm của cấp ủy phải xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề bức xúc
được dư luận quan tâm để kiểm tra, xem xét, kết luận; tổ chức thực hiện các

25


×