Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.61 KB, 50 trang )

CHUYÊN ĐỀ: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(TÁC GIẢ: NGUYỄN MINH CHÂU)
I. Tác giả chuyên đề.
………………………..
II. Đối tượng học sinh bồi dưỡng.
- Lớp 12
- Số tiết bồi dưỡng: 9 tiết.
STT

Nội dung
- Một số đề tái hiện kiến thức và bài tập đọc hiểu

1

- Nghị luận một số vấn đề xã hội đặt ra trong tác

2

Số tiết

phẩm văn học
- Nghị luận văn học – đề trọng tâm:

2 tiết

+ Phân tích tình huống truyện.

3 tiết

+ Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài.
3



+ Cảm nhận nhân vật Phùng.
- Một số đề thi theo hướng mới năm 2018; năm

3 tiết

2019
- Gợi ý các đề vận dụng và nâng cao:
3

+ Đề 5: Phân tích hình tượng chiếc thuyền ngoài

1

xa.

tiết

+ Đề 6: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác
phẩm
III. Mục tiêu chuyên đề.
1. Về kiến thức
- Cảm nhận được cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi âu lo, trăn trở đối với
số phận con người con người của tác giả.
- Giá trị thẩm mĩ và những chiêm nghiệm, triết lí về nhân sinh và nghệ thuật của
nhà văn gửi gắm qua tác phẩm.

1

1



- Cảm nhận được vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm: Sáng tạo tình huống, xây
dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, hình ảnh biểu tượng, lời văn giản dị mà sâu sắc, dư
ba,…
2. Về kĩ năng:
+ Huy động những hiểu biết về thể loại truyện ngắn, tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng
tác của tác phẩm… để đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
+ Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những truyện ngắn hiện
đại Việt Nam; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về tác phẩm; rút ra những bài học về
cuộc sống.
3. Về thái độ:
+ Có ý thức hoàn thiện bản thân, có tình yêu đối với cái đẹp, đấu tranh cho lẽ
phải trong cuộc sống.
+ Có cái nhìn đa diện, đa chiều trước hiện thực cuộc sống.
+ Có tình yêu đối với thiên nhiên, tình yêu đối với gia đình.
4. Định hướng góp phần hình thành các năng lực:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ:
- Năng lực thẩm mĩ.
- Năng lực tư duy sáng tạo
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực tự quản lí bản thân
- Năng lực tự học.
IV.Hệ thống (phân loại, dấu hiệu nhận biết đặc trưng) các dạng bài tập đặc trưng
của chuyên đề.

1. Dạng đọc hiểu văn bản.
Dấu hiệu nhận biết: Thường bắt đầu bằng các từ: Xác định?; Trình bày; chỉ ra; ý
nghĩa; Theo tác giả; Theo anh chị; Anh/ chị hiểu thế nào? Anh/chị có đồng tình không?
Vì sao? Thông điệp? ….


2. Viết đoạn văn nghị luận xã hội: Một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học.
Dấu hiệu nhận biết: Viết đoạn văn Nghị luận xã hội khoảng 200 chữ.....

3. Dạng nghị luận văn học:
+ Một số dạng bài thường gặp:
2

2


- Nghị luận nhân vật văn học.
- Nghị luận đoạn trích trong tác phẩm.
- Nghị luận so sánh: hai đoạn văn; hai hình tượng....
+ Dấu hiệu nhận biết: Cảm nhận; phân tích....
V. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề.
1. Tái hiện kiến thức.
a. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) xuất thân từ một gia đình nông dân ở làng
Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Năm 1944, Nguyễn Minh Châu học trường Kĩ nghệ Huế. Đầu năm 1950, đang
học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ
quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến năm 1958, Nguyễn Minh Châu công
tác và chiến đấu ở Sư đoàn 320, bắt đầu viết văn từ 1954. Năm 1962, ông về phòng Văn
nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn Nghệ quân đội. Năm 1975, Nguyễn Minh
Châu tham gia giải phóng Quảng Trị, Huế, Sài Gòn, vừa bám sát các đơn vị, vừa viết.
Ông rất am hiểu đời sống và tâm hồn người chiến sĩ, thực tế khắc nghiệt và hào hùng
của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ năm 1980 trở đi, ông đi đầu trong khuynh hướng
đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết nhiều về “đời thường”, về những vấn đề

bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn đề xã hội, về số phận và phẩm cách con
người trong thực trạng phức tạp của đất nước (Ông “thuộc trong số những nhà văn mở
đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” - Nguyên Ngọc).
- Hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia thành hai giai đoạn:
+ Trước những năm 80: tác phẩm của ông mang khuynh hướng sử thi thiên về trữ
tình lãng mạn.
+ Những năm cuối đời: ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề
đạo đức và triết lí nhân sinh.
- Nguyễn Minh Châu đã được tặng các giải thưởng: Giải thưởng Bộ quốc phòng,
1984-1989; Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1988 - 1989 (cho tập truyện Cỏ lau,
1989); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
- Tác phẩm chính:

3

3


+ Truyện ngắn: Tuyển tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970);
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa
(1987), Cỏ lau (1989).
+ Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977),
Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987),…
b. Tác phẩm.
- Xuất xứ: In trong tập truyện ngắn cùng tên, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Hoàn cảnh hẹp: Viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí
của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến
đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ
thuật và cuộc đời.

+ Hoàn cảnh rộng: Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã kết thúc. Đất nước
thống nhất trong nền độc lập, hoà bình. Cuộc sống với “muôn mặt đời thường” đã trở lại
sau chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn hoá, nhân sinh, mà trước đây do hoàn
cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Nhiều quan niệm đạo đức phải được
nhìn nhận lại trong tình hình mới, nhiều yếu tố mới nảy sinh nhất là khi đất nước bước
vào công cuộc đổi mới, nhiều yếu tố mới nảy sinh nhất là khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới… Như một tất yếu khách quan, văn học cũng phải đổi mới do những tác
động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
2. Nội dung
a. Hai phát hiện của người nghệ sĩ.
- Một cảnh đắt trời cho – cảnh chiếc thuyền hiện lên trong biển sớm mờ sương.
- Cảnh tượng phi thẩm mĩ, phi nhân tính.
 Trào lên trong người nghệ sĩ những cảm xúc mạnh mẽ, ngỡ ngàng, ngơ ngác
trước một hiện thực “như trong câu chuyện cổ đầy quái đản”.
b. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện.
- Người đàn bà bị đánh đập thô bạo, dù được sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và
nghệ sĩ Phùng nhưng nhất quyết không bỏ chồng.
- Chị không hề cam chịu một cách vô lí; không nông nổi một cách ngờ nghệch mà
thực ra là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời: vì cuộc sống, vì những đứa con.

4

4


 Nghệ sĩ Phùng nhận thấy cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, ngang trái và ngộ
ra nhiều điều về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.
c. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”.
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên màu
hồng hồng của ánh sương mai. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn

bà đó đang bước ra khỏi tấm ảnh. Đó là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của
cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật, là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời
thường. Nó là sự thật đằng sau bức tranh.
- Gửi gắm của nhà văn: Hãy rút ngắn những khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện
thực. Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Người nghệ sĩ cần phải
trung thưch, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, vào số phận của mỗi con người.
3. Nghệ thuật
- Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về một chân lí đời
sống, chân lí nghệ thuật.
- Cách triển khai cốt truyện sáng tạo; khắc họa nhân vật sắc sảo; giọng kể thủ thỉ,
trầm tĩnh; lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba…
VI. Hệ thống các phương pháp cơ bản:
Dạy học đối với một tác phẩm truyện, nhất là một truyện ngắn sau 1975 là việc
làm đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao
cho học sinh cảm nhận, thấy hết những vẻ đẹp về nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm, đồng thời, qua các trải nghiệm thú vị đọc, viết, nói, nghe sẽ giúp người
dạy phát triển các năng lực chung, năng lực môn học cho học sinh. Ở bài học này, tôi đã
vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sau:
1. Dạy đọc – hiểu:
Dạy đọc – hiểu hướng đến việc cung cấp cho HS cách đọc, cách tiếp cận,
khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho HS
năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc – hiểu
của HS phải được thực hiện theo trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai
đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi gợi
liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Dạy cách đọc – hiểu văn bản nghệ thuật, GV cần
hướng dẫn HS đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại.
Các nhiệm vụ cơ bản của người học khi đọc – hiểu:
5

5



- Tìm kiếm thông tin từ văn bản.
- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối…thông tin để tạo nên hiểu biết
chung về văn bản.
- Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
- Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản
khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi dẫn thảo luận kết hợp với phương pháp
giảng bình.
- Hệ thống câu hỏi gợi dẫn vừa theo mạch tư duy lôgic: đi từ điều đã biết đến cái
chưa biết, từ dễ đến khó, đồng thời gởi mở theo quy luật tiếp nhận văn chương đi từ
những xúc cảm, trăn trở, thể nghiệm đến liên tưởng, chiêm nghiệm, nhận thức,...; từ lớp
nghĩa bề nổi đến tầng nghĩa sâu xa của văn bản nghệ thuật.
- Kết hợp giảng bình của giáo viên và tạo cơ hội cho học sinh được giảng bình khi
hứng thú. Giảng bình vốn là phương pháp không thể thiếu để làm nên sự truyền cảm,
chất văn, thổi “lửa” cho mỗi giờ học văn.
- Những điểm sáng HS cần giảng bình trong Chiếc thuyền ngoài xa:
+ Chi tiết người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn
+ Chi tiết người đàn bà câm lặng, nhịn nhục chịu đựng đòn roi
+ Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống của
nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu. Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh
biểu trưng có sức gợi, sức kết lắng ý nghĩa tư tưởng lớn. Trong Chiếc thuyền ngoài xa,
những hình ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết
lắng và chứa đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm.
3. Dạy tích hợp:
Dạy học tích hợp lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm và đích đến, trong đó
tích hợp là việc tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có thể huy
động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các
nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát

triển được những năng lực cần thiết. Trong môn học Ngữ văn, dạy học tích hợp là việc
tổ chức các nội dung của các phân môn văn học, tiếng Việt, làm văn trong các bài học,
giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập
các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu đạt. Phương pháp tích hợp không
6

6


chỉ có tác dụng củng cố kiến thức cũ và định hướng giáo dục tư tưởng, lối sống còn cho
người hoc.
Để HS có cái nhìn liên hệ, so sánh, tìm kiếm vẻ đẹp chung, sự sáng tạo
riêng và hình thành cho HS năng lực tư duy, suy cảm thẩm mĩ, khi dạy Chiếc thuyền
ngoài xa chúng tôi thường tích hợp với những vấn đề sau:
- Kiến thức lịch sử đời sống trước và sau 1975.
- Giá trị và hạn chế của văn học giai đoạn 1945 – 1975, tinh thần đổi mới văn học
sau 1975, một số tác phẩm cùng cảm hứng luận đề của Nguyễn Minh Châu sau 1975
như Bức tranh, Bến Quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,...
- Những tác phẩm văn học có ý nghĩa tuyên ngôn nghệ thuật đã học và sẽ
học như Vũ Như Tô, Chữ người tử tù, Đàn ghi ta của Lorca,...
- Lí luận về bản chất, đặc trưng của văn học nghệ thuật.
Tùy theo hiện trạng tâm lí, tính cách, kiến thức vốn có và năng lực tiếp
nhận, hứng thú tiếp nhận của đối tượng học sinh cụ thể để triển khai những nội dung
trên có hiệu quả..
4. Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan
trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có
vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ, hợp tác của nhiều người trong giải quyết vấn đề.
Những vấn đề có thể gợi mở cho học sinh thảo luận khi đọc – hiểu Chiếc thuyền
ngoài xa – Nguyễn Minh Châu:

- Hai phát hiện của Phùng (Tìm điểm giống và khác của hai bức tranh hiện thực
khi chiếc thuyền ở xa và khi vào gần;...)
- Những chuyển biến về nhận thức của Phùng và Đẩu
- Ý nghĩa chi tiết “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một
viên đạn bắn vào người đàn ông voà bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà,
làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu),
liên hệ với chi tiết “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân).

7

7


- Ý nghĩa chi tiết Tấm ảnh nghệ thuậttrong bộ lịch năm ấy…, liên hệ với hình ảnh
Cửu Trùng Đài trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy
Tưởng).
Tùy vào từng đối tượng học sinh cụ thể, lượng thời gian cho phép và tính chất,
mức độ vấn đề thảo luận để giáo viên lựa chọn thảo luận cặp đôi, cặp 3, nhóm trung
bình (4 – 6 HS), nhóm lớn (8 – 10 HS).
5. Phương pháp đóng vai:
Đóng vai là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh thực hànhđể trình bày
những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp
giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ
đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan
sát được từ vai của mình. Phương pháp đóng vai giúp HS rèn luyện thực hành những kỹ
năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực
tiễn. Đặc biệt phương pháp này rất có hiệu quả trong việc phát triển năng lực thẩm mĩ
cho HS: Gợi hứng thú và chú ý cho học sinh; HS hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội

bộc lộ cảm xúc; Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh; Khích lệ sự thay
đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực; Có thể thấy ngay tác động và hiệu
quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
Đọc - hiểu văn bản Chiếc thuyền ngoài xa, HS có thể đóng vai:
- Đóng vai nghệ sĩ Phùng: Nhà văn đã trao điểm nhìn trần thuật cho Phùng, nhân
vật – người kể chuyện. Người kể chuyện đóng vai nhân vật nhảy vào các biến cố, tham
gia trực tiếp vào các diễn biến của cốt truyện, rồi kể lại cho bạn đọc nghe. Đóng vai
Phùng, HS như đang kể lại chuyện mình trực tiếp chứng kiến, trực tiếp tham gia vào
biến cố câu chuyện (săn tìm được cảnh đắt trời cho – chiếc thuyền ngoài xa; chứng kiến
cảnh bạo lực gia đình – chiếc thuyền khi ở gần; nói chuyện với Phác – đứa con; đánh
lại gã chồng để tránh đòn cho người đàn bà; nghe lời trần tình, giãi bày của người đàn
bà ở tòa án huyện; hình ảnh Phùng một mình anh lang thang dọc bờ biển với bao câu hỏi
nhức nhối… …). Từ đó, các em trình bày những suy nghĩ và cảm nhận của mình, suy
nghĩ sâu sắc hơn.
- Đóng vai người đàn bà; đóng vai chánh án Đẩu,…
Rõ ràng, khi nhập tâm vào nhân vật, hiểu rõ về nội dung tác phẩm, học sinh
không chỉ thẩm thấu kiến thức, liên hệ rộng hơn về tác giả mà còn gắn kết những câu
8

8


chuyện ngoài đời. Đó chính là sự gắn kết giữa tác phẩm văn học với chất “Đời” gần gũi,
từ đó nó giúp học trò hiểu thêm về cuộc sống đa chiều, cùng những giá trị tốt đẹp khác
phải nâng niu, vun xới từng ngày.
Đóng vai, hóa thân là phương pháp hữu hiệu để học sinh thực sự sống với tác
phẩm, với những rung động, suy nghĩ, trăn trở của nhân vật, người kể chuyện, nhà văn.
Qua đó để học sinh cùng liên tưởng, tái tạo, đồng sáng tạo cùng tác giả. Đó chính là sự
phát triển năng lức thẩm mĩ ở mức độ cao cho người học.
VII. Bảng các mức độ nhận thức

Nhận biết
Câu 1: Nêu hoàn

Thông hiểu
Câu 1: Nêu ý nghĩa

Vận dụng
Câu 1: Phân

Vận dụng cao
– So sánh các

cảnh sáng tác của

nhan đề của truyện

tích tình huống

phương diện nội

truyện ngắn “Chiếc

ngắn “Chiếc

thuyền

truyện

trong


dung,

thuyền ngoài xa”?

ngoài

xa”?

truyện

ngắn

thuật giữa các

Câu 2: Xác định

Câu 2: Hình ảnh bãi

“Chiếc

thuyền

tác phẩm cùng

nhân vật trung tâm

xe tăng hỏng có ý

ngoài xa” của


đề tài hoặc thể

của

ngắn

nghĩa như thế nào?

Nguyễn

loại; phong cách

“Chiếc thuyền ngoài

Câu 3: Lí giải thái độ

Châu?

tác giả.

xa”?

và hành động của nhân

Câu 2: Phân

- Phân tích hình

tình


vật Phùng trong truyện

tích nhân vật

tượng

“Chiếc

truyện

khi chứng kiến cảnh

người đàn bà

thuyền

ngoài

ngắn “Chiếc thuyền

người đàn ông đánh vợ

hàng chài trong

xa” trong truyện

ngoài

trong


truyện

truyện

ngắn

ngắn cùng tên

Câu 4: Trong đoạn

ngắn “Chiếc

thuyền

“Chiếc

thuyền

đầu

ngoài

Câu
huống

truyện

3: Nêu
của


xa”?
truyện

xa”?

minh

của

nghệ

Nguyễn

ngoài xa” của

Minh Châu?
- Phân tích giá

ngắn “Chiếc thuyền

Câu 4: Vì sao người

Nguyễn

ngoài xa”, khi nhìn

đàn bà hàng chài thay

Châu


trị

thấy

đổi



Câu 3: Phân

trong tác phẩm

thuyền lưới vó ẩn

từ “con”sang “chị” kh

tích nhân vật

Chiếc

thuyền

hiện trong biển sớm

i giao tiếp với Phùng

nghệ sỹ nhiếp

ngoài


xa

mờ sương, nghệ sĩ

và Đẩu ở tòa án huyện?

ảnh

Phùng

Nguyễn

Phùng có thái độ và

Câu 5: Vì sao người

trong

truyện

Châu?

hành động như thế

đàn bà hàng chài lại xin

ngắn

“Chiếc


- Một số dạng

cảnh

chiếc

cách

xưng

9

Minh

nhân

đạo



Minh

9


nào?

chồng đánh bà ở trên

thuyền


Câu 5: Người đàn

bờ:

xa” của Nguyễn

bà hàng chài đưa ra

a. Vì con cái đã lớn.

Minh Châu.

nhiều lý do bà không

b. Vì trên thuyền quá

Câu 4: Sự biến

bỏ chổng, theo em,

chật

đổi nhận thức

câu nào không phải

c. Vì đánh trên thuyền

của


là lý do bà đưa ra?

thì không thể chạy trốn

Phùng và chánh

a. Cuộc đời người

được.

án Đẩu trong

đàn bà vùng biển

d. Đánh trên bờ sẽ có

tác phẩm.

cần có người đàn

người can thiệp.

- Một số đề

hẹp.

ngoài

nghệ


KTĐG

khi

hướng đổi mới

ba.

b. Người đàn bà

năm

hàng chài phải sống

2019.

chiếu

so

sánh.



ông để chèo chống
phong

đối


theo
2018;

cho con chứ không
thể sống cho mình
như ở trên đất được.
c. Gia đình người
đàn bà hàng chài
cũng có những giây
phút

hạnh

phúc.

d. Người đàn ông
chỉ đánh vợ khi thấy
khổ quá.
VIII. Hệ thống các đề cơ bản
1. Đọc hiểu
Đề 1. Tóm tắt truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu?
Theo yêu cầu của trưởng phóng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven
biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch
năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một
cảnh đắt trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm
10

10



mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ
chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man,
đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại
tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ ra tay can thiệp… Theo lời mời của chánh án Đẩu
(một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại
đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão
chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho
sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được
chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần
đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam
lũ ấy bước ra từ bức tranh.
Đề 2: Trong đoạn cuối truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu, nhân vật nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do
mình chụp thường thấy hiện lên những hình ảnh nào? Những hình ảnh đó nói lên
điều gì?
- Những hình ảnh xuất hiện:
+ Bức ảnh mà nghệ sĩ Phùng chụp được là một bức ảnh đen trắng, ghi lại hình ảnh
chiếc thuyền đang từ từ tiến vào bờ trong màn sương sớm tại một làng chài miền trung.
Bức ảnh hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người.
+ Tuy nhiên, khi “ngắm kĩ” bức ảnh, anh lại thấy hiện lên “cái màu hồng của ánh
sương mai”. Và nếu “nhìn lâu hơn”, nghệ sĩ nhiếp ảnh nhận ra hình ảnh “người đàn bà
đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường
nét thô kêch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ
đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông.”
- Ý nghĩa của các hình ảnh đó: Những hình ảnh ấy có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc,
thể hiện chủ đề tư tưởng của các phẩm. Nó nói lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
sống: cuộc sống chính là khởi nguồn cảm hứng sáng tạo, là chất liệu cho sự sáng tạo của
người nghệ sĩ đồng thời, cuộc sống, con người cũng chính là đích đến, là mục đích cao

nhất của nghệ thuật. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác
phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng
11

11


mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn
diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc,
gian khổ.
Đề 3: Trình bày hoàn cảnh sáng tác của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
– Nguyễn Minh Châu?
Viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế
của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và
cuộc đời.
Mở rộng: “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà
bất cứ một nhà văn Việt Nam, XHCN nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái
sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do. Nguyễn
Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn học đổi mới. Bắt đầu từ
Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào bung
nham đổi mới triệt để của văn học nghệ thuật những năm sau đó.
Đề 4: Trình bày ý nghĩ nhan đề tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh
Châu?
Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và
nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh sống của gia
đình người đàn bà hàng chài. Ở đó, ngoài vợ chồng họ còn có cả một đàn con. Cuộc
sống khó khăn, đói kém, nơi ở chật chội,… làm con người thay đổi tâm tính. Trước đây,
anh là một người hiền lành, lấy chị - một người đàn bà xấu xí nhưng hết sức chăm lo

cho cuộc sống gia đình; đông con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân
làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận
đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa sẽ không
thấy được.
Nhưng chính vì ở ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự đơn độc của con
thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời.
Chính sự thiếu gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân của bế tắc và lầm lạc. Nghệ sĩ Phùng
đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản
và toàn bích, một chân lí của sự toàn thiện. Chiếc thuyền là biểu tượng của sự toàn mĩ
12

12


mà chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền đâm
thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc…
và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, cái đẹp ngoài xa kia cũng ẩn chứa
nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh có thể
phát hiện ra. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu…đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của
nghệ thuật chân chính.
Đề 5. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói
hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng
nghiến ken két, cứ mối nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau
đớn : Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ !
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi

cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh
xuống đất chạy nhào tới.”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
1. Nêu những ý chính của đoạn văn trên?
2. Xác định những phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên?
3. Viết một đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh (chị) về tâm trạng và hành động
của nhân vật xưng tôi trong đoạn văn ?
Gợi ý trả lời:
Câu 1
– Người đàn ông đánh người đàn bà dã man.
– Người đàn bà cam chịu một cách nhẫn nhục.
– Tâm trạng và hành động của nhân vật tôi.
Câu 2 . Các phương thức biểu đạt :
– Tự sự: kể lại những sự việc mà nhân vật tôi chứng kiến.
– Miêu tả: hành động, tâm trạng của các nhân vật.
– Biểu cảm: bộc lộ cảm xúc của các nhân vật.
13

13


Câu 3
Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau :
– Tâm trạng kinh ngạc vì sự việc diễn ra quá bất ngờ và ngoài tưởng tượng của nghệ sĩ
Phùng.
– Hành động xuất phát từ tình yêu thương con người của người nghệ sĩ.
(lưu ý : Với câu 1 và 2, thí sinh có thể viết thành đoạn văn hoặc trình bày các ý theo
cách gạch đầu dòng ; với câu 3, thí sinh phải viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh thì
mới đạt điểm tối đa).
2. Đề nghị luận xã hội:

Đề 1: Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy
phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình.
1. Đặt vấn đề:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là
vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị
cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường…” Quan điểm nghệ thuật đó
đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” , một tác phẩm với giá trị
nhân đạo sâu sắc. Trong đó, vấn đề bạo hành gia đình là một vấn đề nổi cộm trong tác
phẩm, được tái hiện một cách đầy đau xót và nhức nhối.
2. Giải quyết vấn đề:
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết về những trải nghiệm của Phùng trong
chuyến đi thực tế ở một vùng biển miền Trung. Ở đây, anh đã ngỡ ngàng nhận ra khoảng
cách giữa nghệ thuật và cuộc sống khi chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng bạo hành
và khi lắng nghe những lời tâm sự của bà về cuộc đời.
Bạo hành gia đình là hành động hành hạ về tinh thần lẫn thể xác giữa những thành
viên trong gia đình. Đó là vấn đề nghiêm trọng từ xưa đến nay, diễn ra dưới nhiều hình
thức khác nhau, nhưng không phải ai cũng có can đảm lên tiếng chống lại nó.
Cảnh tượng bạo hành được tái hiện trong tác phẩm thông qua những hình ảnh khi
người chồng đánh vợ một cách thô bạo: “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà”, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két” vừa nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”

14

14


Đứa con thương mẹ đã chạy ra cứu bằng cách đánh trả lại cha. Nó “dướn thẳng người
vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông,
nhưng lão đã “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát”

Người mẹ cam chịu, nhẫn nhịn khi bị chồng đánh, giờ đây lại ứng xử lạ lùng:
miệng mếu máo gọi con rồi “ôm chầm lấy nó, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm
lấy”, rồi “buông đứa trẻ thật nhanh, đuổi theo người đàn ông”.
Có thể thấy được rằng, bạo hành gia đình được biểu hiện thông qua hành động
đánh đập vợ con, de dọa, sử dụng những từ ngữ bạo lực nhằm trút hết nỗi căm giận của
người đàn ông. Và cảm xúc, hành động của người mẹ cùng đứa con cũng tiêu biểu cho
nhiều gia đình trong thực tế đời sống, khi mà người con thì sinh ra uất hận với cha, còn
người vợ thì cam chịu, nhẫn nhịn. Tuy vậy, bạo hành gia đình ở cuộc sống ngoài kia lại có
nhiều gương mặt, có nhiều hình hài hơn, và thậm chí còn tàn nhẫn hơn. Đó không chỉ là
tra tấn về thể xác, mà còn là tra tấn về mặt tinh thần. Những sự lạnh nhạt, lời nói tựa dao
găm còn gây tổn thương hơn nhiều những vết sẹo trên cơ thể. Bạo hành gia đình có thể
xảy ra giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái... Nó diễn ra muôn hình vạn trạng, nhưng đều
gây tổn thương cho nạn nhân.
Vậy, nguyên nhân của bạo lực gia đình đến từ đâu? Trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa, người đàn bà đã tâm sự: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc
thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông
trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc
chấm muối...” Theo bà, tất cả là vì “khổ”, vì nghèo đói. Còn trong cuộc sống, nó bao gồm
cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan có thể là
vì người bạo hành được sinh trưởng trong một môi trường có vấn đề, họ chịu nhiều tổn
thương từ thuở bé, dẫn đến tính cách bạo lực. Hoặc cũng có thể là vì hoàn cảnh sống quá
khổ, khiến bạo hành như một cách để họ trút nỗi tức giận sau khi uống rượu, quên đi thực
tại. Nhưng quan trọng hơn cả là ở lý do chủ quan, vì bản thân người bạo hành không thể
làm chủ được mình, họ ích kỷ, họ quên đi cảm nhận của người khác. Họ đổ lỗi, trốn tránh
thực tại, và từ đó họ làm tổn thương cả gia đình.
Bạo hành gia đình dẫn đến nhiều hậu quả tồi tệ, nó khiến cho bao gia đình tan vỡ,
khiến cho những người vợ, những đứa con... bị tổn thương, chịu những vết sẹo trong tâm
hồn. Trong tác phẩm, Phác là đứa con của gia đình người đàn bà hàng chài, cậu bé thương
mẹ mình vô cùng, nhưng không ai có thể biết trước rằng liệu cậu có trở thành một phiên
bản nhỏ của cha mình hay không. Cậu có thể sẽ ám ảnh đến suốt cuộc đời. Nghiên cứu

15

15


cho thấy, những vụ tự tử xảy ra đến phần nhiều từ lý do gia đình, khi mà nạn nhân phải
gánh chịu sự bạo hành tinh thần lẫn thể xác từ các thành viên trong gia đình.
Vậy, phải làm thể nào để có thể hạn chế được nạn bạo hành gia đình? Trong tác
phẩm, dù Phùng và Đẩu có thuyết phục thế nào, người đàn bà cũng không chịu li dị. Từ
đó, ta thấy được rằng, nếu muốn cho bất cứ lời khuyên, sự vận động, lời kêu gọi nào,
chúng ta cũng đều phải thấu hiểu nỗi lòng của họ. Trước tiên, cần giáo dục mọi người
ngay từ khi còn ngồi trong nhà trường. Quan trọng hơn cả, là nhà nước cần đưa ra những
biện pháp, nâng cao môi trường sống, chất lượng sống của nhân dân. Cải thiện được cuộc
sống của nhân dân, cũng là ngăn chặn nạn bạo hành gia đình. Đối với cá nhân, mỗi người
cần có sự bình tĩnh, nhìn nhận bản thân, cố gắng không nói những lời tổn thương, gây ra
những hành động tàn bạo đối với các thành viên trong gia đình.
3. Đánh giá lại vấn đề:
Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn không ngừng trăn trở về số phận nhân
dân và trách nhiệm của nhà văn. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra một vấn đề
nghiêm trọng trong xã hội: nạn bạo hành gia đình. Tác phẩm chính là tiếng chuông cảnh
tỉnh cho mỗi người trong chúng ta, để cùng nhau xóa bỏ nạn bạo hành gia đình.
Đề 2. Qua câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu, anh chị có suy nghĩ gì về nạn bạo hành trong gia đình
những vùng quê nghèo hiện nay
Ai đã đọc tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu hẳn không thể
nào quênđược hình ảnh người phụ nữ hàng chài tảo tần, chịu nhiều sương gió, cực khổ.
Vì những gánhnặng của cuộc sống, vì tình thương dành cho con cái, vì mưu sinh, khát
khao hạnh phúc màngười đàn bà đó phải chịu cảnh sống bị đánh đập tàn nhẫn với số
phận thật trớ trêu và đầynghịch lí. Trong xã hội hiện đại, dù đã khác và tiến bộ rất nhiều

hơn trước đây nhưng nạn bạohành gia đình vẫn xảy ra và làm nhức nhối trong dư luận.
Bạo hành trong gia đình có rất nhiều kiểu, nó có thể là ngược đãi một thành viên
trong gia đình hoặc với hộ gia đình. Nó làm ảnh hưởng đến con người về mặt vật chất
lẫn tinh thần.Những hành động dã man đó là kiểu đối xử mất hết tính người và tình
người, có thể xem nhưmột tệ nạn xã hội phải loại trừ. Nó xâm phạm đến quyền con
người của các thành viên khác,những hành động đó không thể tha thứ. Các nạn nhân của
nạn bạo hành thường là phụ nữ,người già và trẻ em, người tàn tật… những người yếu
đuối và đôi khi phải sống phụ thuộc vàongười đàn ông, trụ cột của gia đình. Họ không
thể tự lực để sống một cuộc sống riêng vì như ta đã biết trình độ học vấn của dân ta hiện
16

16


nay cũng chưa thể nói là cao, phần đông lao độngchưa học quá lớp 9, để có thể kiếm cái
ăn họ phải làm thuê, làm mướn, và cũng vì lẽ đó mà những người yếu đuối kia luôn bị lệ
thuộc vào những kẻ có “trái tim sắt đá”. Họ luôn phải dựa vào sức lao động của người
khác để có thể tồn tại. Từ mối quan hệ không thể tách rời đó đã tạo nên gánh nặng mưu
sinh, gây đè nặng tâm lí và luôn tạo ra sự căng thẳng trong các mối quan hệ trong gia
đình, đó cũng là khởi nguồn cơ bản của nạn bạo hành trong gia đình.
Điều thứ hai ta có thể thấy là ở cơ chế thị trường của xã hội hiện nay, đồng tiền
ngày càng được coi trọng “có tiền mua tiên cũng được”. Dường như câu nói đó ngày
càng in sâu vào nhận thức của một số người. Trong tâm trí họ lúc nào cũng chỉ nghĩ đến
một mục đích duy nhất là làm sao có tiền, có thật nhiều tiền để sống thật sung sướng và
hạnh phúc. Họ làm tất cả mọi việc để có được tiền và bất kì hành động nào cũng nhằm
đạt nhu cầu thỏa mãn vậtchất. Cũng từ đó đã tạo nên bao sự dở khóc dở cười cho những
người xung quanh họ, một khi con người ta đã đánh mất chính mình, quên đi những tình
cảm của người thân xung quanh và mê muội vì tham vọng. Khi không đạt được mục
đích của mình họ đâm ra cáu gắt, tức giận và đổ lỗi cho người thân của mình, và rồi là
những hành vi đối xử ngược đãi bạo tàn.

Lí do thứ ba của tệ nạn này ở sự tha hóa về đạo đức, lối sống, sự suy đồi trong
nhận thức và suy nghĩ của một số người. Họ quên đi những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, bị lấn át và cám dỗ trước những thứ xa hoa, phù phiếm, lối sống lai căng
làm họ đánh mất đi giá trị của bản thân mình. Vì họ không còn coi trọng đạo đức nên tất
cả những hành động sai trái và mang tính bạo lực với họ chỉ là chuyện thường.
Và như đã nói, trình độ dân trí của nước ta hiện nay vẫn còn rất thấp. Vì vậy mà người
dân
không thể biết đến các quyền như quyền con người, bảo vệ con người và cả luật đối với
nạn bạo hành trong gia đình. Đồng thời những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu vẫn luôn ngự trị
trong nhận thức của họ, với tư tưởng người đàn ông là người duy nhất có quyền hành
trong gia đình đã tác động lớn đến suy nghĩ và hành động của con người. Đó là nguyên
nhân cơ bản thứ tư của nạn bạo hành trong gia đình.
Trong hoàn cảnh kinh tế của một nước đang phát triển, bên cạnh đời sống có phần nâng
cao thì vẫn còn không ít những khó khăn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân,
đặt biệt ở vùng quê nghèo khó và chính điều này làm nảy sinh nạn bạo hành trong gia
đình. Trường hợp của chị Trần Thị T (thôn Văn Hà, xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh
Bình) lập gia đình năm hai mươi tuổi. Đã hơn mười năm qua, chị chưa một ngày được
hưởng hạnh phúc từ mái ấm đó.Chồng chị là kẻ nát rượu. Chị kể: “Anh ấy chỉ về nhà
khi đã say mềm. Hôm sau anh ta lại đòi tiền đi uống rượu. Không đưa tiền thì anh ta
đánh đập, chửi bới, đập phá nhà cửa. Nhà tôi cấy một mẫu ruộng, nhưng anh ta chẳng
giúp được tí nào. “Bạc mặt” ở ngoài đồng, về nhà lại lăn vào làm việc nhà, nhiều lúc tôi
17

17


không gượng nổi. Có hôm vừa thấy tôi đi làm về, anh ta đã lao vào đánh đấm túi bụi đến
thâm tím mặt mày. Con cái anh ta cũng chẳng tha, đánh mẹ rồi quát đến con. Hai đứa
con cứ nhìn thấy bố là khóc thét. Xấu hổ với xóm làng, nhiều lúc tôi muốn chết đi cho
rảnh nợ, nhưng nghĩ thương con nên phải cố gắng sống. Số phận mình đãthế thì phải

chịu thôi…”. Hay gần hai tháng nay, tại thôn Lương Quy, xã Xuân Nộn, huyện Đông
Anh (Hà Nội), cụ Nguyễn Thị Lý, 83 tuổi và chị Oanh, con gái cụ phải sống trong cảnh
màn trời chiếu đất. Ngôi nhà nơi mẹ con cụ Lý đang ở đã bị hai con trai là anh Hùng và
anh Dũng phá tường, dỡ mái. Bàn thờ gia tiên và chiếc giường ngủ hàng ngày của cụ Lý
cũng bị đập phá tan tành... Những sự việc trên đã gây bức xúc trong dư luận xã hội, đó
là những con sâu mọt phá hoại nền nếp và đi ngược với giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc.
Những nạn bạo hành đó gây tác động xấu đến sự phát triển của xã hội, làm cho cuộc
sống
của xã hội ngày càng trở nên bất an, bởi lúc nào cũng có người bị đánh đập, hành hạ một
cách rất dã man. Nó ảnh hưởng đến vấn đề tâm sinh lí của người bị hại, họ không thể
sống
như bao người bình thường khác mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bị hành hạ và đè nặng
trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Bạo hành gia đình làm cho cuộc sống xã hội bất
an, phá vỡ nét đẹp truyền thống của dân tộc trong tình nghĩa, đánh mất những nét đẹp
trong lối sống và đạo đức của dân tộc. Làm cho trật tự xã hội bị phá vỡ, luân thường đạo
lí bị xem nhẹ. Hạnh phúc gia đình bị tan vỡ, tình cảm lục đục, cha con, vợ chồng, mẹ
con… những giá trị tình cảm đó dần mất đi và rồi khiến gia đình bị suy sụp. Rồi từ đó
lại có bao mảnh đời bất hạnh, trẻ em lang thang vì không thể sống chung với gia đình
lúc nào cũng bị hành hạ, người già neo đơn và thậm chí phải bỏ nhà ra đi vì sự lạnh nhạt
của con cái, rồi gánh nặng xã hội lại đè nặng, bao nhiêu số phận kêu cứu. Sự rối loạn
cũng một phần được bắt đầu từ đây.
Là một con người của xã hội hiện đại và phát triển, mỗi chúng ta không được phép
khoanh tay đứng nhìn mà phải đấu tranh, lên án, phê phán những hành vi đó và quyết
tâm loại trừ chúng ra khỏi cuộc sống văn minh này. Mỗi công dân cần tích cực tham gia
các hoạt động xã hội, tuyên truyền và giáo dục người dân về luật pháp có liên quan đến
bạo hành trong gia đình. Chúng ta cần giang tay giúp đỡ những nạn nhân của tệ nạn này.
Điều quan trọng hơn cả là tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, không đi theo con đường xấu,
biết làm chủ bản thân, tiếp thu và làm theo những tư tưởng tiến bộ. Dường như nhìn
được thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề mà cả thời của ông lẫn thời

nay đều đang xảy ra.
Truyện đã phản ánh phần nào về thực trạng nạn bạo hành.
Đó là một điều đau xót và là những cái nhọt của xã hội. Chúng ta cần có cách sống phù
hợp và tiến bộ, có ý thức trách nhiệm để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu
18

18


mạnh và phát triển, lên tiếng để đấu tranh cho quyền của con người và chống nạn bạo
hành trong xã hội
3. Đề nghị luận văn học:
3.1 Dạng đề truyền thống
Đề 1: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn minh Châu?
1. Đặt vấn đề:
- Giới thiệu tác giả.
- Tác phẩm là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện những nhận thức mới mẻ của
Nguyễn minh Châu trong cách nhìn hiện thực. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng
được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
2. Giải quyết vấn đề:
a. Tình huống truyện.
- Giải thích khái niệm:
+ Tình huống truyện là "cái tình thế xảy ra truyện", là "một khoảnh khắc mà
trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc", là cái "khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người"
(Nguyễn Minh Châu).
+ Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với
nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó, nhân vật bộc lộ
tâm trạng, tính cách, hay thân phận của nó góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác
phẩm.

- Tình huống trong tác phẩm:
+ Theo đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch cuối năm. Anh đã bắt gặp cảnh chiếc thuyền
ngoài xa, trong làn sương sớm đẹp như tranh vẽ. Anh nhanh chóng bấm máy và có được
bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.
+ Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một cảnh tượng không
đẹp của đời sống. Hai vợ chồng hàng chài bước xuống, người chồng đánh vợ, đứa con
ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không thể ngờ rằng sau những
cảnh đẹp như mơ lại là bao ngang trái, bao nghịch lí của đời thường.
b. Các nhân vật với tình huống

19

19


Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài
xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài.
- Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên vai cặp vợ chồng. Người chồng trở thành kẻ vũ
phu: Khi mới rời thuyền, người đàn ông “lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng bạc
phếch và rách rưới” của người đàn bà nhưng chỉ đến khi hai người đã đi khuất sau chiếc
xe rà phá mìn “to lớn gấp đôi xe tăng” thì lão mới “lập tức trở nên hùng hổ”. Lão đánh
vợ thường xuyên “3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng” và trong khi “trút cơn
giận dữ như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn
bà” thì giọng lão lại “rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ”.
- Người vợ cam chịu một cách nhẫn nhục, lạ lùng: Chị “không hề kêu một tiếng,
không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Người đọc băn khoăn: phải chăng là
do chị ta bị đòn nhiều quá đến mức quen rồi, không còn biết đau là gì nữa, hay là do tăm
tối, ngu muội nên chẳng còn chút ý thức đến quyền sống của mình? Hay việc bị đòn bất

đắc dĩ cũng là một tính toán, một lựa chọn không thể khác của chị ta trong hoàn cảnh
con đông mà cuộc sống lênh đênh trên mặt nước đầy những nhọc nhằn, bất trắc? Tuy
nhiên, vì thương con nên chị nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng. Song chị
không hề biết mình đã làm tổn thương tâm hồn đứa con.
- Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ, thành ra căm ghét cha mình. Khi chứng kiến
cảnh tượng người bố đánh mẹ mình, cậu bé Phác “giận dữ căng thẳng”, “nhảy xổ” vào
“giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa
khuôn ngực” người bố.
- Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người
đàn bỏ chồng là xong. Anh hào hứng, say mê và tin tưởng vào giải pháp của mình. Cái lí
lẽ của pháp luật và lí lẽ của trái tim làm cơ sở, chỗ dựa vững vàng để anh tự tin, chủ
động và ngạo nghễ mà không biết chị cần một chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn.
c. Ý nghĩa của tình huống
* Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống:
- Khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người.
+ Ở ngoài bãi biển:
~ Phát hiện ra một cảnh đắt trời cho trên mặt biển sớm mờ sương mà cả đời bấm
máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần.
20

20


~ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện một sự thực trớ trêu và đầy
nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống.
+ Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hàng chài van xin để toà cho chị
được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu “ngộ ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời”.
- Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con.
- Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại

ở rất gần.
~ Người đàn bà: Không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách
ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
~ Người đồng đội cũ – chánh án Đẩu: Anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí
nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa
đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều
phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng.
~ Chính mình: Mình đơn giản khi đã nhìn nhận cuộc đời và con người.
* Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm:
- Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, tăm tối là nguyên nhân dẫn tới
nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi
sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam
go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cộng đồng.
- Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ, cảm thông của tác giả đối với những số phận khổ
đau, tủi nhục của những người lao động vô danh, đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu
tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
3. Kết bài:
- Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có ý nghĩa khám phá, phát hiện về
sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
- Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật
và cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề
mới cho sáng tạo nghệ thuật.

21

21



Đề 2: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
1. Đặt vấn đề:
- Nguyễn minh Châu (1930 – 1989) thuộc lớp nhà văn chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mĩ. Sau năm 1975, ông chủ yếu tiếp cận đời sống ở góc độ thế
sự. Các nhà nghiên cứu đánh giá ông là một trong những cây bút tiên phong “người mở
đường tinh anh và tài năng nhất” của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn minh Châu sáng tác năm
1983, sau đưa vào tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1987.
- Nêu vấn đề: Đây là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu trong thời
kì đổi mới. Tác phẩm thành công trên nhiều phương diện trong đó đáng chú ý là nghệ
thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài - một nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng
trong lòng người đọc.
2. Giải quyết vấn đề:
a. Tình huống để nhân vật xuất hiện.
“Chiếc thuyền ngoài xa” được khai thác từ một tình huống độc đáo:
+ Theo đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch cuối năm. Anh đã bắt gặp cảnh chiếc thuyền
ngoài xa, trong làn sương sớm đẹp như tranh vẽ. Anh nhanh chóng bấm máy và có được
bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.
+ Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một cảnh tượng không
đẹp của đời sống. Hai vợ chồng hàng chài bước xuống, người chồng đánh vợ, đứa con
ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không thể ngờ rằng sau những
cảnh đẹp như mơ lại là bao ngang trái, bao nghịch lí của đời thường.
 Từ tình huống này tác giả dẫn người đọc đến với thế giới nhân vật trong tác
phẩm với những chân dung và tính cách khác nhau: một người nghệ sĩ đã từng là chiến
sĩ đi tìm cái đẹp với những phát hiện bất ngờ, một vị chánh án cũng đã từng vào sinh ra
tử đối diện với cái chết, một người chồng vũ phu, độc ác, một đứa bé thương mẹ bằng
một thứ tình yêu thơ dại, trong sáng nhưng cũng không ít đắng cay…Trong số đó, nhân
vật người đàn bà có lẽ là nhân vật để lại nhiều dư vị xót xa, cay đắng, cảm phục trong

lòng người đọc.
b. Số phận nhân vật.
22

22


- Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng –
người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị. Chị
không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định. Có lẽ đây
là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh
như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả
tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn. Cách gọi tên
nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại vừa xác
định.
- Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh
trên một chiếc thuyền đánh cá.
- Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói
nghèo, chị thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng.
 Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những
mảnh đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.
c. Ngoại hình.
Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một
người phụ nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gợi sự liên tưởng cho người đọc về một
người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở
vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải
đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.
d. Phẩm chất, tính cách
- Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách

bình tĩnh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc
đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với
sóng to, gió lớn vậy.
- Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác
và người khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng
xấu hổ, nhục nhã”. Và chị đã khóc.
- Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng
thường xuyên hành hạ chị: “Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
23

23


- Chị là người mẹ thương con:
+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con
cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng
mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử
rất nhân bản.
+ Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời
sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh
lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không
thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được
nuôi nấng, phải được lớn lên,…
- Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.
+ Chị xưng hô: quý toà - con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án
Đẩu khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định:
“Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có
hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Chị quả rất hiểu lẽ đời.

+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài.
Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn
con được dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những
người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia
đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại
cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng
nghĩ tới.
- Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: trên
thuyền cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con
được ăn no. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất
định không chấp nhận.
 Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.
e. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh ngừơi đàn bà
bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và

24

24


nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất
cả mọi thứ trên đời.
3. Kết bài:
Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không
khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ
như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét
chân dung người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông
điệp đầy tinh thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu,
lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Phùng trong tác phẩm
1.Đặt vấn đề:
Giới thiệu tác phẩm - Giới thiệu nhân vật :
- Phùng trước kia là một người lính, đã từng vào sinh ra tử.
- Phùng đựơc trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh để làm lịch. Và Phùng
quyết định về vùng biển cách Hà Nội 600 km.
2. Giải quyết vấn đề:
a.Giới thiệu chung:
Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sỹ Phùng khi anh chụp bức
tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung. Tại đây anh phát hiện bức tranh thiên nhiên
đẹp mà trong cuộc đời cầm máy anh chưa bao giờ thấy. Nhưng đằng sau bức tranh ấy là
cả một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài. Cảnh người chồng vì
đói nghèo thất học đã xem việc đánh vợ là phương thức giải tỏa cho những khổ đau cho
mình. Rồi ở tòa án huyện anh đã cứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà
hàng chài khiến anh ngộ ra bao điều tốt đẹp về tiếp cận cuộc sống.
b.Nội dung phân tích:
+Phùng - một trái tim nghệ sĩ thăng hoa trước cái đẹp.
25

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×