Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kinh kịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.15 KB, 5 trang )

Kinh kịch
Ban đầu nghệ thuật diễn tuồng sân khấu của Trung Hoa cổ được gọi là ca
kịch hay hí kịch là một thể loại diễn tuồng bao gồm ca múa (ngâm khúc kèm theo
nghệ thuật vũ đạo), thậm chí có cả các loại tạp kĩ pha trộn như kể chuyện, các màn
nhào lộn, xiếc, diễn hoạt kê (tiếu lâm khôi hài), đối thoại trào lộng và võ thuật.
Từ thời nhà Đường trở về trước nghệ thuật diễn tuồng sân khấu được gọi là
hí kịch.
Các thể loại kịch của Trung Quốc cũng như các loại hình biểu diễn sân
khấu tương tự tại các nước trong khu vực như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam
thường lấy các sự tích câu chuyện những vị anh hùng trong dân gian và lịch sử
làm đề tài chủ đạo.
Cho đến thời nhà Đường, được phát triển thành Tham quân hí (hoặc được
gọi là Lộng tham quân) bao gồm hai vai: một người mặc y phục xanh lục tề chỉnh,
thông minh cơ trí và linh lợi, tên vai diễn gọi là Tham quân; còn người kia ăn mặc
lôi thôi, khờ khạo đần độn, tên vai diễn gọi là Thương cốt. Hai nhân vật này trong
vở khi diễn thường có những lời đối đáp khôi hài trào lộng. Tham quân là vai
chính, Thương cốt là vai phụ. Đôi khi Tham quân là đối tượng để làm trò cười và
cuối cùng bị Thương cốt đánh đập.
Đến thời nhà Tống, Tham quân hí biến thành Tạp kịch. Vai diễn cũng chỉ
có hai người: Thương cốt (vai khờ khạo) được đổi thành tên Phó mạt, còn Tham
quân (vai tinh khôn) được đổi tên là Phó tịnh. Trong khi diễn, diễn viên nam cũng
có thể hóa trang thành nhân vật nữ để diễn xuất, được gọi là Trang đán. Đến thời
Nam Tống, vùng đất Ôn Châu là nơi nổi danh về hí kịch, ca múa, nên sản sinh ra
thể loại được gọi là Nam hí (hí kịch Nam Tống).
Thời nhà Tống nghệ thuật diễn không chú ý đến các vai nữ (Đán giác). Vai
nữ được xếp hạng là «đệ tử» (con em). Trong ban hát đều là nữ thì được gọi là «đệ
tử tạp kịch». Vai chính được gọi là Chính đán, vai già là Lão đán, vai trẻ là Tiểu
đán, Trà đán, Thiếp đán, v.v...
Vào thời nhà Nguyên, vai nữ (đán giác) lại rất được xem trọng. Đó cũng là
điểm khác biệt giữa tạp kịch thời nhà Nguyên và tạp kịch thời nhà Tống.
Tính chất tạp kịch thời nhà Tống và thời nhà Nguyên có chung một tính


chất là khôi hài, hoạt kê, nhưng tạp kịch thời nhà Nguyên có nhấn mạnh thêm tính
chất phê phán thói đời và các tệ nạn xã hội.
Tạp kịch thời nhà Nguyên là thành tựu rất lớn và ở giai đoạn đỉnh điểm
hưng thịnh của nó trong suốt hai thế kỷ XIII-XIV. Nhiều nhà soạn những vở diễn
tuồng múa hát rất nhiều, khoảng trên 150 người, trong số đó nổi tiếng nhất là
Quan Hán Khanh có ít nhất cũng khoảng 60 vở tuồng.


Một mặt nạ dùng trong Kinh kịch.
Tạp kịch thời nhà Nguyên thâu hóa và chuyển thể các tác phẩm văn học
Trung Quốc cổ đại. Trong một vở thường có bốn hồi và đôi khi có thêm phần phi
lộ. Vai chính phải hát trong thời gian diễn suốt vở kịch. Dù các nhạc phổ của
Nguyên khúc không còn giữ được, nhưng qua hình ảnh và các tư liệu còn lại,
người ta đã phát hiện các loại nhạc cụ gồm sáo, trống, não bạt.
Các nhân vật trong tạp kịch thời nhà Nguyên là anh hùng, văn nhân, kĩ nữ,
cường đạo, quan tòa, ẩn sĩ, và các vai siêu nhiên (ma, qủy, v.v...).
Cuối thời nhà Nguyên, Nam hí chuyển hóa thành thể loại Truyền kỳ. Truyền
kì tập trung vào các chủ đề tình cảm lãng mạn trên sân khấu trong suốt 200 năm
sau đó. Âm nhạc trong thể loại Nam hí bao gồm các khúc hát và ca từ trong dân
gian, các bài ca dao ở thôn quê mang tính chất đặc thù địa phương khá đậm. Do
vậy trong Truyền kì nghệ thuật diễn đã phát triển thành hệ thống bốn giọng nói địa
phương: Hải Diêm, Dặc Dương, Dư Diêu, và Côn Sơn. Các Khúc hát vùng Côn
Sơn được gọi là Côn khúc thống lĩnh sân khấu từ cuối thời nhà Minh.
Đến thời nhà Thanh thì Côn khúc được gọi là Nhã bộ, rất được giới sĩ phu
trí thức hâm mộ. Vào giai đoạn Côn Khúc suy tàn, các loại hí kịch địa phương mới
có dịp nở rộ và được gọi theo tên địa phương như Xuyên kịch của vùng Tứ Xuyên,
Tương kịch của vùng Tương Dương, cho đến Cống kịch, Huy kịch, v.v... mà sau
này tất cả được gọi là chung là Kinh Kịch. Kinh kịch đôi khi được diễn giải là loại
hát kịch ở Bắc Kinh.
Ngày nay, giới trẻ ở Trung Quốc không còn ham thích loại nghệ thuật sân

khấu tuồng cổ này nữa.
Trong Kinh kịch thường hay có các màn nhào lộn, xiếc, và diễn trò và
không có vị trí gì trong võ thuật Trung Hoa. Nhưng võ thuật Trung Hoa đã thâm
nhập vào loại hình nghệ thuật này và góp sức làm giàu thêm cho khung cảnh Văn
hóa Trung Hoa.
Sau này các diễn viên Kinh kịch được đào tạo bài bản thường chuyển sang
thành các diễn viên võ thuật trong điện ảnh như Quan Đức Hưng là người đầu tiên
diễn vai Hoàng Phi Hồng, Thành Long (còn gọi là Jackie Chan) trong các thể loại
phim võ hài do anh đổi mới phong cách cùng với Hồng Kim Bảo để thoát ra khỏi
tầm ảnh hưởng của thể loại phim Kungfu của Lý Tiểu Long khởi xướng từ cuối
thập kỉ 1960, Lục Tiểu Linh Đồng trong vai Tôn Ngộ Không trong bộ phim truyền
hình nhiều tập Tây du kí được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà
văn Ngô Thừa Ân thời nhà Minh, ...
Có thể nói rằng Kinh kịch đã góp phần làm phong phú diện mạo của điện
ảnh Hồng Kông và Trung Quốc hiện đại. Do đó có người cho rằng trong thể loại
phim quyền cước của Hồng Kông có hai loại võ thuật là võ thuật thật sự của các
võ sư và quyền sư tham gia diễn và võ thuật sân khấu của những diễn viên Kinh
kịch chuyển sang.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×