Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

LÝ THUYẾT TỔNG QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.86 KB, 15 trang )

LÝ THUYẾT TỔNG QUAN

I) TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NSNN) VÀ TỔ CHỨC
HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1) Khái quát về NSNN:
1.1) Khái niệm NSNN:
- Theo từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1971) cho rằng: “NSNN là
bảng kê các khoản thu và chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất
định; là mọi kế hoạch thu chi bằng tiền của bất kỳ xí nghiệp, cơ quan hoặc cá
nhân nào trong một giai đoạn nhất định”.
- Theo từ điển Bách khoa toàn thư về kinh tế Pháp định nghĩa: “NSNN là văn
kiện được nghị viện hoặc hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các
nghiệp vụ tài chính của một tổ chức công ( nhà nước, chính quyền, địa phương,
đơn vị công,…) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội,…) được dự kiến và cho
phép”.
- Theo từ điển kinh tế thị trường của Trung Quốc định nghĩa: “ NSNN là kế
hoạch thu, chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự
pháp định”.
- Theo Điều 1 Luật NSNN được Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI,
kỳ hôp thứ hai ( từ ngày 12 tháng 11 đến ngày 16 tháng 12 năm 2002) thông
qua, có hiệu lực thi hành kể từ năm ngân sách 2004, thể hiện NSNN như sau:
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
1.2) Khái niệm Ngân sách Địa Phương ( NSĐP):
- Ngân sách địa phương là tổng hợp dự toán của các ngành trực thuộc Ngân
sách Tỉnh, thành phố, Ngân sách Huyện và ngân sách Xã.
- Ngân sách huyện được hợp thành bởi các kế hoạch tài chính và các dự toán
kinh phí của các ngành, các cơ quan trực thuộc Huyện.
2) Bản chất của NSNN:
- Lịch sử hình thành và phát triển NSNN ở các nước trên thế giới cho thấy


NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hàng hóa và mức độ hoàn thiện của
Nhà nước phạm trù Ngân sách cũng phát triển tương ứng. Một nền kinh tế nặng
về hiện vật sẽ được phản ánh vào một Ngân sách với nhiều chỉ tiêu hiện vật
thông qua các khoản thu chi Ngân sách dưới hình thức hiện vật. Một nền kinh tế
đơn nhất sở hữu, giá trị và giá cả hàng hóa không được đánh giá chung, dịch vụ
không được coi trọng sẽ cho ra một Ngân sách méo mó, sai lệch bởi các nguồn
thu không đúng về bản chất và tên gọi cùng với những khoản chi bao cấp, bao
biện cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Một nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhiều
thành phần sẽ có một NSNN với nội dung, kết cấu hoàn toàn khác.
- Chịu sự quyết định bởi mỗi phương thức sản xuất và tác động của các quy
luật kinh tế khách quan, nội dung và tính chất của NSNN ứng với mỗi chế độ xã
hội cũng khác nhau. Đối với NSNN các biểu hiện của nó cũng rất đa dạng,
phong phú nhưng cũng rất rời rạc.
- Các hoạt đông thu, chi NSNN luôn gắn liền với các dòng tiền thu vào (chính
là quá trình tạo lập) hoặc xuất ra khỏi (quá trình sử dụng) quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước mà cụ thể là quỹ NSNN. Việc tạo lập và sữ dụng quỹ NSNN, một
mặt phản ánh mức độ tiền tệ hóa và luật pháp hóa các hoạt động của Nhà nước
bởi dự toán thu, chi NSNN dược các cấp có thẩm quyền thảo luận, quyết định
và phê chuẩn trong khuôn khổ pháp luật. Mặt khác, từng hạng mục của NSNN
cụ thể hóa các chính sách, các lựa chọn kinh tế, chính trị của Nhà nước.
- Bằng quyền lực chính trị và quyền lực chủ sở hữh, qua các việc ban hành
luật, chủ động tăng hoặc giảm quy mô, điều chỉnh kết cấu, thời gian thu, chi,
mức độ bội chi và biện pháp bù đắp bội chi Ngân sách (nếu có) mà Nhà nước
tác động vào nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển kinh tế, duy trì
sự công bằng hoặc bất công trong xa hội, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp dân cư.
Việc bố trí NSNN thể hiện rất rõ nét các ưu tiên chiến lược, các quan điểm cũng
như phương thức Nhà nước giải quyết một hoặc nhiều vấn đề kinh tế, chính trị,
xã hội do thực tế đặt ra. Qúa trình tạo lập và sử dụng NSNN là sự thể hiện ý chí
chủ quan của Nhà nước, thông qua đó bản chất của NSNN được định hình.
- Mặc dù, các biểu hiện của NSNN rất đa dạng và phong phú nhưng về thực

chất chúng đều phản ánh các nội dung cơ bản như sau:
+ NSNN hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài chính và vì vậy
nó thể hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội.
+ Quyền lực NSNN thuộc về Nhà nước, do vậy mọi khoản thu, chi tài chính
đều do Nhà nước quyết định và nhằm mục đích phục vụ yêu cầu thực hiện các
chức năng của Nhà nước.
Những nội dung trên đây cũng chính là những mặc, những mối quan hệ quyết
định sự phát sinh và phát triển của NSNN. Do đó, có thể đi đến kết luận về bản
chất của NSNN như sau: “NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các
nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước”.
3) Vai trò của NSNN:
3.1) Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường:
3.1.1) NSNN – Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước:
- Đây là vai trò lịch sữ của NSNN, mà trong bất kì cơ chế nào và trong tời đại
nào NSNN cũng phải thực hiện, vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở bản
chất kinh tế của NSNN. Sự hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị
kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục
đích nhất định. Các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước được thoải mãn từ các nguồn
thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế.
Việc huy động vào NSNN để đảm bảo các yêu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà
nước cần chú ý ba vấn đề sau:
- Mức động viên vào NSNN đối với các thành viên trong xã hội là thuế và các
khoản thu khác phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có những tác động
tích cực và tiêu cực.
- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện các
khoản chi tiêu của NSNN.
- Tỷ lệ đông viên vào NSNN đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vừa đảm
bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vùa đảm bảo cho đơn vị cơ

sở có điều kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.
3.1.2) NSNN – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội của Nhà
nước:
- Trước hết là điều tiế thị trường, bình ổn giá cả vả chống lạm phát. Thị trường
đôi khi phát ra những tính hiệu sai lệch do nó dể dàng đưa đến tình trạng mất
cân đối giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng gây nên rối loạn thị trường,
khủng hoảng kinh tế. Đồng thời hiện tượng lạm phát, phá sản, thất nghiệp
dường như là căn bệnh đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. Do đó, sự
can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
Thông qua công cụ thuế và chính sách chi Ngân sách, Nhà nước sẽ có sự điều
tiết thị trường, điều chỉnh giá một cách chủ động. Cụ thể ở thị trường hàng hóa,
hàng háo bị chi phối bởi quy luật cung – cầu, một loại hàng háo nào đó mà cung
lớn hơn cầu thì giá cả sẽ giảm xuống đột ngột, sản xuất bị thiệt hại, nền kinh tế
trở nên mất cân đối. Vì thế để đảm bảo quyền lợi của người sản xuất, tạo sự cân
đối của nền kinh tế thì Nhà nước phải sử dụng các biện pháp thu mua, trợ gía,…
Mặc khác trong lĩnh vực thu – chi, NSNN phải là công cụ khống chế và đẩy lùi
lạm phát bằng cách thực hiện cân đối Ngân sách; khai thác các nguồn vốn vay
trong và ngoài nước với hình thức triển trái phiếu chính phủ, trái phiếu công
trình; thu hút viện trợ nước ngoài;…
- Khi đã bình ổn thị trường giá cả NSNN lại là công cụ điều chỉnh thu nhập
đảm bảo công bằng xã hội qua việc sử dụng thuế thu nhập cá nhân, thuế thu
nhập doanh nghiệp để điều tiết người có thu nhập cao, phân phối lại các đối
tượng có thu nhập thấp thông qua các chính sách xã hội nhằm đảm bảo mục tiêu
công bằng bình đẳng. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng sử dụng thuế gián thu nhằm
góp phần hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất
nước.
- Cuối cùng, NSNN có vai trò là công cụ để định hướng phát triển kinh tế,
bằng nguồn thu huy động của mình Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
như: cầu, đường, bến cảng,… Đây là biện pháp kích hoạt cầu có hiệu quả, tạo
mơi trường thuận lợp để các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề

chủ đạo, then chốt tạo công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết mục tiêu
lao động thừa trong nông thôn. Đây cũng là một trong những biện pháp cơ bản
chống độc quyền và giữ thị trường không rơi vào tình trạng cạnh tranh không
hoàn hảo.
Tóm lại: Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất
quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, đó cũng là công cụ tài chính giúp Nhà
nước điều hành nền kinh tế vĩ mô, cân đối nguồn thu tài chính của Nhà nước.
3.2) Vai trò của NSNN trong hệ thống tài chính:
- Căn cứ vào đặc điểm hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính cùng với phạm vi tác động và chức năng hoạt động, các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường được chia thành năm khu vực thể chế và từ đó hình thành năm
khâu của hệ thống tài chính, đó là:
(1) Khu vực Nhà nước, có tài chính Nhà nước.
(2) Khu vực sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hàng hóa , dịch vụ phi tài chính
có tài chính của khu vực phi tái chính (hay còn gọi tắc là tài chính doanh
nghiệp).
(3) Khu vực sản xuất, kinh doanh các dịch vụ tài chính, có tài chính của khu vực
tài chính ( hay còn gọi tắc là tài chính của các tài chính trung gian).
(4) Khu vực sản xuất và tiêu dùng của các hộ gia đình, có tài chính của các hộ
gia đình.
(5) Khu vực hoạt động của các tổ chức xã hội không vì mục đích kinh doanh,
được gọi là khu vực vô vị lợi, có tài chính của khu vực vô vị lợi ( hay tài chính
của các tổ chức xã hội), chẳng hạn như: tổ chức từ thiện, tổ chức bảo thọ,…
- Tài chính Nhà nước bao gồm Nhà nước, dự trữ Nhà nước, tín dụng Nhà
nước, ngân hàng Nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính Nhà nước, tài
chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, tài chính doanh nghiệp Nhà nước, các
quỹ Nhà nước, trong đó NSNN là hạt nhân, là thành phần chủ yếu. NSNN đóng
vai trò chủ đạo và tổ chức các hoạt động của hệ thống tài chính. Điều này được
chứng tỏ bằng sự chi phối, tác động và phối hợp hoạt động của nó với các khâu
khác của hệ thống tài chính.

- Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đóng vai trò huy động nguồn
tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Nhà nước; cho an ninh
quốc phòng và các mục đích khác nhằm củng cố quyền lực Nhà nước, mà nó
còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội. Đó là vai trò định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, ổn định giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội,… Để thực hiện được vai trò này NSNN cần phải có các nguồn vốn
huy động từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính ngoài
nước. Từ đó, thực hiện các khoản chi đầu tư kinh tế và ngoài kinh tế.
4) Tổ chức hệ thống NSNN:
4.1) Khái niễm hệ thống NSNN:
- Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp Ngân sách và được tổ chức
theo một cơ cấu nhất định.
4.2) Căn cứ tổ chức hệ thống NSNN:
- Tổ chức hệ thống NSNN dựa vào những căn cứ sau đây:
+ Hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
+ Chế độ phân cấp quản lý kinh tế tài chính.
4.3) Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN:
4.3.1) Nguyên tắc thống nhất:
- Phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể; hệ thống thu, chi của các cấp
Ngân sách ban hành theo một chế độ thống nhất.
- Các cấp Ngân sách đều áp dụng chung một chế độ về kế hoạch hóa và quản
lý NSNN, đồng thời nhiệm vụ chi trong kỳ kế hoạch phải đảm bảo (lập dự toán,
chấp hành dự toán và quyết toán NSNN).
- Thực hiện cơ chế bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới để
đảm bảo tính công bằng và yêu cầu phát triể cân đối giữa các vùng.
- Ngân sách các cấp không được dùng Ngân sách của cấp này để chi cho
nhiệm vụ của cấp khác.
4.3.2) Nguyên tắc tập trung dân chủ:
- Để quản lý và điều hành Ngân sách ở tầm vĩ mô, Nhà nước tập trung một số

nguồn thu lớp, quan trọng vào Ngân sách cấp chính quyền Trung ương nhằm
đảm bảo nhu cầu chi tiêu, cân đối Ngân sách trên phạm vi toàn quốc.
- Để các cấp chính quyền chủ động khai thác tốt nguồn thu và nhu cầu chi tiêu
kịp thời, Luật Ngân sách quy định mỗi cấp chính quyền có một cấp Ngân sách
riêng và được sử dụng vào nhu cầu chi tiêu cho bộ máy dầu tư phát triển kinh tế
địa phương đó.
Việc xây dựng dự toán, xét duyệt dự toán và quyết toán Ngân sách mỗi cấp đều
tập trung vào chính quyền cấp tương đương, được công khai dân chủ ở mỗi cấp
Ngân sách cho nhân dân biết để nhân dân tham gia xây dựng Ngân sách, biểu
hiện rõ nhất là các nguồn thu huy động từ nhân dân đóng góp để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
4.4) Hệ thống NSNN:
 SƠ ĐỒ HỆ THỐNG NSNN:
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG
Ngân sách Tỉnh, Tp trực thuộc Trung ương
NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
4.4.1) Ngân sách trung ương (NSTW):
4.4.1.1) Khái niệm:
- NSTW gồm: các kế hoạch tài chính, các dự toán kinh phí của các Bộ, các
Tổng cục và các cơ quan trực thuộc Chính phủ hợp thành. NSTW quản lý theo
ngành kinh tế.
4.4.1.2) Vai trò:
- Trong hệ thống NSNN, NSTW là khâu trung tâm và giữ vai trò chủ đạo. Tác
động có tính tổ chức và xác định phương hướng hoạt động đối với các cấp Ngân
sách trong toàn bộ hệ thống NSNN.
- NSTW tập trung phần lớn các nguồn thu chủ yếu và đảm bảo các nhu cầu chi
để thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội có tính chất toàn quốc.
- Thường xuyên điều hào vốn cho các cấp NSĐP nhằm tạo điều kiện cho các
cấp hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội thống nhất của cả nước.

4.4.2) Ngân sách địa phương (NSĐP):
4.4.2.1) Khái niệm:
- NSĐP là tổng hợp dự toán của các ngành trực thuộc Tỉnh, Thành phố, ngân
sách Huyện và ngân sách Xã. NSĐP quản lý theo vùng lãnh thổ.
4.4.2.2) Vai trò:
- Là công cụ tài chính của các cấp chính quyền địa phương, phục vụ việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền địa phương đã được
Ngân sách Huyện,
Quận, TX, TP trực
thuộc Tỉnh
Ngân sách Xã, Phường,
Thị trấn

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×