Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SÁNG KIẾN LAM THE NÀO DE HỌC SINH LƠP 5 HOC TOÁN CÓ LỜI VĂN MOT CÁCH NHE NHANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.71 KB, 11 trang )

Tên sáng kiến: LÀM THẾ NÀO ĐỂ HỌC SINH LỚP 5 HỌC TOÁN
CÓ LỜI VĂN MỘT CÁCH NHẸ NHÀNG
1. Lời nói đầu
Toán học giữ một vai trò rất quan trọng đối với đời sống và mang giá trị
thực tiễn rất cao. Nó là bộ môn không thiếu ở bất kì cấp học nào. Môn toán giảng
dạy ở trường Tiểu học nói chung và Toán có lời văn ở cấp Tiểu học nói riêng là
nội dung mang tính trừu tượng cao đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Môn Toán
đòi hỏi học sinh phải có kiến thức mang tính liên tục từ các lớp học, nếu bản thân
người giáo viên không khéo léo trong vận dụng phương pháp, tìm tòi phương
pháp hay thì rất khó tạo được hứng thú cho các em học tốt, say mê, sáng tạo trong
học Toán. Mặt khác, trong chương trình ở bậc Tiểu học, môn toán chiếm một thời
lượng khá lớn trong việc tiếp thu tri thức của học sinh.Việc nâng cao hiệu quả của
dạy và học môn toán, cũng như phát huy tính cực, sáng tạo, ham thích học toán
cho học sinh là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Là giáo viên đang giảng dạy tôi luôn
suy nghĩ, tìm tòi và học hỏi từ đồng nghiệp để làm như thế nào giúp các em tích
cực trong giờ học Toán, đặc biệt là mạch kiến thức về toán có lời văn. Ngoài ra,
toán có lời văn còn có sự liên hệ rất lớn với thực tế của cuộc sống, học tốt bộ môn
Toán nói chung và toán có lời văn nói riêng sẽ tạo được nền tảng tốt để học sinh
học tốt các môn học tự nhiên ở các cấp học tiếp theo.
1.1 Lí do chọn đề tài.
Dạy học toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản
ban đầu về số học: Số tự nhiên, phân số, số thập phân; Các đại lượng thông dụng;
các yếu tố hình học; yếu tố thống kê và kỹ năng giải toán, trong đó kỹ năng giải
loại Toán lời văn là một phần không thể thiếu vì nó tổng hợp nhiều nguồn kiến
thức của học sinh.
Mặt khác chương trình sách giáo khoa toán mới hiện hành đã có nhiều điểm
khác biệt với chương trình cũ. Các mạch kiến thức Toán học từ lớp 1 đến lớp 5
được thống nhất chặt chẽ với nhau theo cấu trúc đồng tâm nên nó giúp cho học
sinh không những được học mà còn được củng cố lại kiến thức ở các lớp trước.
Trong các mạch kiến thức, toán có lời văn được xem gần như là phần tổng hợp của
các mạch kiến thức còn lại. Khi học dạng toán này đòi hỏi người học ngoài việc


phải có tư duy tốt, có khả năng liên hệ các mạch kiến thức mà còn phải nắm vững
kiến thức đã học.
Trong thực tế giảng dạy ở các trường Tiểu học yếu tố giải toán có lời văn là
yếu tố tương đối khó với học sinh. Bởi vì, trong chương trình môn toán lớp 5,
mạch kiến thức toán có lời văn được xen kẽ với các mạch kiến thức như: số học,
hình học, đại lượng và đo đại lượng,... Hơn nữa, các bài toán có lời văn cũng có
nhiều dạng khác nhau như bài toán đơn, bài toán tổng hợp... Đây cũng là mạch

1


kiến thức giáo viên khó phát huy được tính tính cực, sáng tạo ở học sinh, cũng như
tạo cho có em ham thích học.
Quá trình dạy học gồm việc dạy của thầy và việc học của trò. Mỗi quá trình
dạy được xác định bởi ba thành tố cơ bản của nó là: Mục đích dạy học, nội dung
dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, công cuộc đổi mới của đất nước đang
diễn ra từng ngày, từng giờ. Nó đòi hỏi phải có những lớp người có năng lực, chủ
động, sáng tạo và thích ứng với môi trường làm việc. Vì vậy, giáo dục tiểu học
cũng phải đổi mới hằng ngày, đặc biệt là vai trò của người thầy trong giảng dạy.
Chúng ta luôn phải tìm tòi, đổi mới phương pháp, ứng dụng những cách làm hay
vào việc dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng học
sinh. Nghĩa là phải chuyển từ hình thức: “Thầy giảng – Trò nghe” sang “Thầy tổ
chức – Trò tích cực hoạt động”, “ Thầy là người định hướng – trò là người tìm ra
tri thức và tiếp thu tri thức đó”.
Trong bài viết này, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “ Biện pháp giúp học
sinh lớp 5 phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học toán có lời văn” nhằm
phát triển năng lực tư duy, tính tích cực và sáng tạo của học sinh đảm bảo được
yêu cầu cần đạt của mỗi học sinh đối với bộ môn Toán, cũng như mạch kiến thức
toán có lời văn ở lớp 5.
1.2. Phạm vi đề tài

Với sáng kiến này, bản thân tập trung nghiên cứu tìm ra giải pháp, giúp giáo
viên nắm vững phương pháp, có những biện pháp hiệu quả khi giảng dạy toán có
lời văn cho học sinh lớp 5 – trường Tiểu học Dân Thành A. Từ đó hình thành
những kĩ năng, cách luyện giải cho học sinh, phát huy được tính tích cực, sáng tạo
ở các em khi vận dụng vào giải toán có lời văn. Đồng thời, bồi dưỡng thêm lòng
ham thích học toán nói chung và mạch kiến thức toán có lời văn nói riêng.
2./ Thực trạng
2.1. Thực trạng của giáo viên
* Ưu điểm
- Thông thường giáo viên phải qua 3 năm mới có thời gian làm quen với
chương trình, nắm vững phương pháp dạy học. Thực tế kiểm nghiệm đã chứng tỏ
rằng giáo viên được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn và có tài liệu hướng dẫn
giảng dạy, tài liệu tham khảo, kết hợp với kinh nghiệm bản thân đa số giáo viên
trong một thời gian ngắn đã tiếp cận và làm quen với chương trình, bước đầu có
những thay đổi về phương pháp dạy học toán cho học sinh.
- Giáo viên tìm hiểu kỹ năng bài giảng, vận dụng sáng tạo các phương pháp
vào việc giải toán có lời văn.
- Giáo viên nhiệt tình trong công tác, nắm vững nội dung chương trình của
khối lớp.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu tạo điều kiện được tập huấn chuyên
môn cấp thị xã, cấp tỉnh cũng như học hỏi kinh nghiệm trường bạn qua hội giảng.

2


- Đồ dùng giảng dạy bộ môn toán được nhà trường từng bước trang bị tương
đối đầy đủ.
* Khuyết điểm
- Giáo viên sử dụng phương pháp giải toán chưa linh hoạt, chưa phát huy
hết tính tích cực chủ động của học sinh.

- Khi truyền thụ kiến thức mới đôi lúc giáo viên còn áp đặt đối với học sinh,
còn rập khuôn, cứng nhắc và phụ thuộc trực tiếp vào sách giáo khoa.
- Giáo viên khi dạy toán có lời văn thường giáo viên làm thay cho học sinh
không để cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức hoặc vận dụng kiến thức để thực hành,
chưa kết nối được các kiến thức đã học.
Ví dụ: Tính diện tích của hình tam giác có độ dài đáy 8,2m và chiều cao là
6,4m
- Giáo viên không để học sinh nhớ lại quy tắc “ Diện tích hình tam giác ta
lấy độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao ( cùng đơn vị đo) rồi chia cho 2” mà giáo
viên chỉ yêu cầu học sinh tính diện tích hình tam giác bằng cách lấy các giá trị
nhân với nhau: (8,2 x 6,4) : 2 = 26,24 (m2).
- Giáo viên còn áp đặt khuôn mẫu cách giải đối với học sinh. Điều này, hạn
chế đi tính sáng tạo của học sinh khi giải bài toán.
2.2. Thực trạng của học sinh
Kết quả khảo sát năng lực toán có lời văn của học sinh ngay đầu năm
khi nghiên cứu – áp dụng sáng kiến như sau:
Năm học: 2016-2017
Loại điểm
TSHS
9-10
7-8
5-6
3-4
0-1-2
Số lượng
33
5
14
7
4

3
Năm học: 2017-2018
Loại điểm
TSHS
9-10
7-8
5-6
3-4
0-1-2
Số lượng
22
//
5
9
5
3
* Ưu điểm: Qua việc tìm hiểu khảo sát, điều tra nghiên cứu từ tháng 9/2017
đến nay trên học sinh bản thân phụ trách giảng dạy cho thấy: Trong quá trình học
toán lời văn đôi lúc học sinh chưa gọi đúng tên của các sản phẩm, các thuật ngữ
dành cho toán học, cũng như suy luận tìm cách giải từ các dữ kiện đã biết nhưng
các em rất cố gắng học toán.
* Khuyết điểm:
- Học sinh thường đọc đề toán một cách qua lo, thậm chí không đọc.
- Không phân tích mối quan hệ giữa “ dữ kiện” với “ kết luận” để tìm ra
cách giải.
- Không tóm tắt được các đề toán bằng các ký hiệu, sơ đồ...điều này làm
cho các em không nhận dạng được các dạng Toán và sử dụng phương pháp giải
chưa phù hợp.

3



- Học sinh chưa liên hệ, hệ thống được các mạch kiến thức trong chương
trình Toán lớp 5.
- Chưa nhận dạng được các dạng Toán có lời văn trong chương trình Toán
lớp 5.
- Học sinh vận dụng một cách máy móc các phương pháp giải Toán.
- Phần lớn học sinh không thực hiện việc tính toán trên nháp mà thay vào đó
các em chỉ nhẩm để có kết quả dẫn đến phương pháp giải đúng nhưng kết quả làm
sai.
- Một số thuật ngữ môn toán học sinh không hiểu rõ nghĩa hoặc xa lạc với
các em.
Ví dụ: Bài toán: Một bánh xe cần có 36 nan hoa. Hỏi có 1152 nan hoa thì lắp
được bao nhiêu chiếc xe đạp hai bánh.
- Giáo viên yêu cầu đọc đề toán
- Học sinh đọc xong thì một số em không hiểu đề toán, không hiểu từ “ nan
hoa” là gì và không hình dung được loại bài tập này.
- Học sinh chưa biết sử dụng phép toán nào để giải bài toán
- Một số học sinh không tính toán ngoài nháp mà nhẩm để tìm kết quả.
Ví dụ 2: Bài toán: Theo dự định, một xưởng mộc phải làm 30 ngày, mỗi ngày
đóng được 12 bộ bàn ghế thì mới hoàn thành kế hoạch. Do cải tiến kỹ thuật nên
mỗi ngày xưởng đó đóng được 18 bộ bàn ghế. Hỏi xưởng mộc làm trong bao
nhiêu ngày thì hoàn thành kế hoạch.
- Một số học sinh đọc xong đề không hiểu được “xưởng mộc” là gì?
- Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung đề toán thì các em không
hiểu thuật ngữ “ Kế hoạch” và “ cải tiến”. Học sinh chưa hiểu phải tính như thế
nào?
3. Giải pháp thực hiện:
3.1: Giáo viên cần hệ thống lại phương pháp và vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy toán có lời văn.

a) Phương pháp trực quan:
Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình
ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn Toán lại có tính trừu
tượng và khái quát cao ( đặc biệt là Toán có lời văn). Sử dụng phương pháp này
giúp học sinh thông qua các đồ dùng trực quan có chổ dựa cho hoạt động tư duy,
bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết.
Ví dụ: khi giảng dạy về diện tích và thể tích hình hộp chữ nhật và hình lập
phương nếu giáo viên chỉ giảng dạy bằng lời thì học sinh không nhận biết hình
tượng như thế nào về diện tích và thể tích hình hộp chữ nhật và hình lập phương,
từ đó các em khó vận dụng vào bài toán cụ thể. Ngược lại, nhờ vật thật học sinh
hiểu rõ hơn, phân biệt được độ dài các cạnh và vận dụng vào bài toán cụ thể tốt
hơn.

4


b) Phương pháp thực hành luyện tập:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở các tiết luyện tập nhằm củng cố
lại kiến thức cho các em. Sử dụng phương pháp này để thực hành luyện tập kiến
thức, kỹ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình học sinh luyện
tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở - vấn đáp và cả giảng
giải- minh họa. Nhằm giúp các em liên kết được các mạch kiến thức lại với nhau.
c) Phương pháp gợi mở - vấn đáp:
Đây là phương pháp rất cần thiết và thích hợp với học sinh tiểu học, rèn cho
học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập
của từng học sinh. Phương pháp này tỏ ra hiệu quả đối với những bài toán
“ngược”.
Ví dụ: Cho hình tam giác có diện tích 72 m 2, chiều cao 9m. Tính độ dài
cạnh đáy của hình tam giác đó.
d) Phương pháp giảng giải – minh họa:

Giáo viên hạn chế dùng phương pháp này. Khi cần giảng giải – minh họa thì
giáo viên nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở - vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp
giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh ( Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình,
vật thật...) để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm.
e) Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng:
Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho ở
trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ
dài các đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dễ dàng thấy được mối liên hệ
phụ thuộc giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ tìm
tòi giải toán.
Bài toán 1: ( Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu )
Tìm hai số khi biết tổng của chúng bằng 198 và hiệu của chúng bằng 98.
Bài giải:
Theo đề bài ta có sơ đồ:
Số bé :
?
198
Số lớn:
98
?
Số bé là : (198 – 98) : 2 = 50
Số lớn là : 198 – 50 = 148
Đáp số : 50 và 148
Bài toán 2: ( Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số )
Một cửa hàng có 540 mét vải gồm vải hoa và vải xanh . Biết số mét vải
hoa bằng

2
số mét vải xanh. Tính số mét vải mỗi loại.
3

5


Bài giải:
Theo đề bài ta có sơ đồ:
Vải hoa
?
540
Vải xanh
?
Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là: 2 + 3 = 5 (phần)
Số mét vải hoa là : (540 : 5) x 2 = 216(m)
Số mét vải xanh là : 540 – 216 = 324(m)
Đáp số : 216 m và 324 m

3.2: Hướng dẫn học sinh cách đọc đề Toán
- Khi dạy toán có lời văn giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách đọc, đọc để
tìm ra các thông tin “ dữ kiện” và “ yêu cầu của bài toán”. Các em cần hình thành
thói quen đọc đề toán có lời văn, vì từ đây các em biết được mình nên sử dụng
công thức và phương pháp nào mới phù hợp.
Bước 1: Đọc lướt ( Đọc lướt nhầm học sinh hiểu khái quát về bài toán.)
Bước 2: Đọc lần 2 (Bước này đọc nhầm giúp học sinh xác định được dữ
kiện bài toán. Học sinh nêu được, cái gì đã cho, cái gì đã biết. Tức là trả lời câu
hỏi “ Đề toán cho em biết gì? Đề toán hỏi em những gì?)
Bước 3: Đọc lại (Bước này giúp học sinh liên kết giữa các dữ kiện, tức là
trả lời câu hỏi “ Cho biết đại lượng nào trong công thức? Những dữ kiện đó có
mối quan hệ như thế nào? Giải bài toán này bằng cách nào?”)
3.3: Hình thành các bước giải toán có lời văn cho học sinh theo hướng tích
cực.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học mạch kiến thức toán

có lời văn, người giáo viên cần để học sinh cố gắng tự tìm ra cách giải bài toán
( tức là học phương pháp giải toán). Điều này, không phải là giáo viên cung cấp
sẵn khuôn mẫu để học sinh làm theo. Để làm được giáo viên cần làm quen và hình
thành kỹ năng các bước giải ngay từ những bài toán đơn giản nhất.
a) Phân tích đề toán, tóm tắt đề toán:
- Mục đích của việc phân tích đề toán, tóm tắt đề toán là làm rõ giả thiết
(bài toán cho biết gì?) và kết luận (bài toán hỏi gì?), qua đó học sinh có thể thu
gọn phạm vi bài toán lại theo giả thuyết và kết luận. Từ đây, học sinh học sinh có
thể lựa chọn phương pháp giải thích hợp nhất.
- Học sinh có thể tóm tắt bằng lời, bằng sơ đồ đoạn thẳng ( đối với bài toán
tổng – tỉ, hiệu – tỉ, tổng – hiệu...) hoặc bằng ký hiệu... Để phát huy tính tích cực
người giáo viên cần hình thành dần cho học kĩ năng tóm tắt đề toán

6


Ví dụ: Có 8 bao gạo cân nặng 243,2 kg. Hỏi có 12 bao gạo như thế nào cân
nặng bao nhiêu ki- lô- gam?
Phân tích đề:
- Đề toán cho ta biết gì?
- Số ki – lô- gam gạo trong 8 bao là bao nhiêu ki – lô – gam?
- Số ki- lô – gam gạo trong 1 bao là bao nhiêu ki –lô- gam?
- Số ki- lô – gam gạo trong 12 bao là bao nhiêu ki-lô- gam?
Tóm tắt đề toán
8 bao gạo
cân nặng: 243,2kg
12 bao gạo
cân nặng: ? kg
b) Phân tích các mối quan hệ giữa các “ dữ kiện” đã cho với “ kết luận”
để tìm ra cách giải.

- Mục đích phân tích các mối quan hệ làm rõ các quan hệ đã cho và cái phải
tìm rồi từ đó tìm ra cách giải bài toán một cách hợp lý.
- Bước này giáo viên giúp học sinh liên kết các kiến thức đã cho với cái cần
tìm. Thực hiện bước này giúp học sinh trả lời câu hỏi “ Giải bài toán bằng cách
nào? Muốn giải bài toán trên phải tìm cái gì trước? Giải bằng công thức
nào?...Có cách giải nào hay hơn không,...?
c) Trình bày bài giải rõ ràng và đầy đủ.
- Đây là bước học sinh thể hiện khả năng làm toán của mình, sự sáng tạo,
linh hoạt và khả năng vận dụng các kiến thức linh hoạt. Phần trình bày bài giải
gồm các nội dung sau:
+ Viết câu trả lời ( lời giải)
+ Viết phép tính
+ Viết đáp số
-Riêng các bài toán về mối quan hệ số học “ Tổng – tỉ; hiệu -tỉ” cần giúp
cho học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng vào phần trình bày giải toán.
Ví dụ: Một ô tô đi được quãng đường dài 170km hết 4 giờ. Hỏi trung
bình mỗi giờ ô tô đó đi được bao nhiêu ki lô mét?
Tóm tắt:
Trung bình mỗi giờ ô tô đi được là:
Theo đề bài ta có
170 : 4 = 42,5 (km)
?
Đáp số: 42,5 km
I-----I-----I-----I-----I
?

3.4: Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học.
- Phương tiện dạy học là công cụ hỗ trợ không nhỏ đến hiệu quả khi sử
dụng phương pháp dạy học Tiểu học, là điều kiện để phát huy tính tích cực cho
học sinh. Điều này phụ thuộc vào cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học của nhà


7


trường. Giáo viên cần chú ý sử dụng tối đa các phương tiện dạỵ học hiện có để giờ
học đạt hiệu quả cao về chất lượng.
- Giáo viên cần khai thác triệt để bộ đồ dùng cho Toán lớp 5. Nghiên cứu và
sử dụng tối đa bộ đồ dùng giành cho giáo viên và học sinh. Qua các tiết thao
giảng, sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cùng nhau trao đổi, vận dụng các hình
thức tổ chức dạy học phù hợp.
- Vận dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng một cách nhạy bén, linh
động, song không quá lạm dụng trong các tiết lên lớp, qua sử dụng đồ dùng hình
thành kĩ năng cho học sinh tự học, phát huy tính sáng tạo, tìm tòi
3.5: Nâng cao hiệu quả, chất lượng các hình thức tổ chức hoạt động học tập
trên lớp.
- Chọn và tổ chức các hình thức học tập trên lớp phù hợp với điều kiện và
phương tiện dạy học là một trong những giải pháp cần thực hiện nhằm phát huy
tính tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập, ngoài ra khi các hình thức tổ
chức dạy học thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi các phương pháp dạy học. Nếu như
hình thức tổ chức dạy học hiện nay là hình thức lớp – bài, gắn liền với hình thức
này giáo viên thường sử dụng thường sử dụng các phương pháp dạy học khác
nhau trong giờ lên lớp như thuyết minh, trực quan, vấn đáp, thực hành, nêu vấn đề,
kiểm tra.... thì khi hình thức dạy học thay đổi như: thảo luận nhóm, tự học cá nhân
lúc đó phương pháp dạy học phù hợp là luyện tập, làm việc cặp đôi với sách.
-Hình thức dạy học thường được sử dụng khi dạy về toán có lời văn trong
chương trình Toán lớp 5 là hình thức tổ chức dạy theo nhóm.
*Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm.
-Dạy học theo nhóm là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học
tập tích cực, trong đó học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm
việc hợp tác với nhau.

-Hoạt động nhóm là hoạt động tích cực đem lại cho học sinh cơ hội được sử
dụng các kiến thức và kĩ năng mà em được lĩnh hội và rèn luyện, hoạt động nhóm
giúp cho các em luyện và phát triển năng lực làm việc.
-Dạy học theo nhóm giúp giáo viên có dịp tập trung các kinh nghiệm và sự
sáng tạo của học sinh trong học tập
*Để tổ chức có hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học về toán có lời văn ở
chương trình Toán lớp 5, giáo viên cần căn cứ vào nội dụng kiến thức của bài để
chọn số lượng học sinh trong mỗi nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài diện tích hình tam giác
- Giáo viên cho học sinh hoạt động nhớm 4 để thực hiện thao tác cắt ghép
hình tam giác thành hình chữ nhật.
-Học sinh dưạ vào diện tích hình chữ nhật để tính diện tích hình tam giác.
Sau khi thảo luận nhóm, giáo viên mời đại diện nhóm trình bày kết quả, lớp
nhận xét và bổ sung để rút ra cách tình diện tích hình tam giác.

8


3.6: Hình thành phương pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm
tri thức và ứng dụng tri thức vào cuộc sống.
-Trong phương pháp học, điều cốt lỗi là phương pháp tự học là giáo viên
phải tạo ra những mâu thuẩn trong kiến thức đã biết với kiến thức chưa biết để lôi
kéo học sinh tự ý thức tiếp nhận và tìm tòi cách giải quyết. Để đạt được mục tiêu
trên, giáo viên phải có kĩ năng sử dụng tốt đồ dùng trực quan, có kĩ năng tạo tình
huống có vấn đề, dựa vào những điều các em đa biết, đã học để gợi mở, dẫn dắt
vấn đề. Từ đó phát huy tính tích cực của học sinh.
-Tăng cường học tập cá nhân với học tập hợp tác. Trong học tập, không phải
mọi trí thức, kĩ năng, thái độ điều được hình thành bởi hoạt động thuần túy là cá
nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy- trò, trò-trò, tạo mối quan hệ hợp tác
giữa các cá nhân trên con đường đi đến tri thức mới.

4/ Kết quả
Đã qua một thời gian nghiên cứu đề ra các giải pháp nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong học toán lời văn ở lớp 5. Các em lúc đầu chưa nắm bắt
được phương pháp giải toán, còn rụt rè, trong chờ vào giáo viên, chưa mạnh dạn
đóng góp xây dựng bài trong nhóm, lớp. Dần dần đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, nhiều
em không chỉ nắm rõ kiến thức mà còn nắm chắc phương pháp giải toán ở Tiểu
học, tự tin khi giải toán có lời, nâng lực tự học cũng được nâng lên. Kết quả như
sau:
Năm học 2016 -2017
Kết quả
Thời
TS
gian
học
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
kiểm tra sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giữa kỳ I
33
10

30,3
12
36,3
8
24,3
3
9,1
Cuối kỳ I
33
14
42,4
15
45,5
4
12,1
Giữa kỳ II 33
13
39,4
6
18,1
13
39,4
1
3,1
Cuối năm
33
15
45,5
14
42,4

4
12,1
Số lượng học sinh điểm 9-10: đầu năm 5 em, cuối HKII 15 em ( tăng 10
em so với đầu năm). Số lượng học sinh dưới 5: đầu năm 7, cuối HKII (không có
trường hợp dưới điểm 5)
Năm học 2017 -2018
Kết quả
Thời
TS
gian
học
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
kiểm tra sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giữa kỳ I
22
//
//
5
22,7

9
40,9
8
36,4
Cuối kỳ I
22
3
13,6
8
36,4
8
36,4
3
13,6
Giữa kỳ II 22
Cuối năm
21
10
9
2
9


Số lượng học sinh điểm 9-10: đầu năm 0 em, cuối HKI 3 em ( tăng 3 em so
với đầu năm). Số lượng học sinh dưới 5: đầu năm 8, cuối HKI 3 em (giảm 5 em
so với đầu năm)
Từ những kết quả đạt được nêu trên, tôi thấy được khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiêm trên vào dạy học giải toán có lời văn lớp 5 ở hai năm học: 2017-2018,
đạt được kết quả khá cao, chất lượng học sinh ở môn Toán tăng lên rõ rệt, số lượng
học sinh điểm dưới 5 Toán cũng giảm dần theo từng giai đoạn.

5./ Kết luận.
Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát
triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,
rèn luyện tốt phương pháp suy luận logic. Bên cạnh đó đây cũng là dạng toán rất
gần gũi với đời sống thực tế.
Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả, phát huy được
tính tích cực của các em cũng giúp các em trở thành những con người linh hoạt,
sáng tạo làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Khi thực hiện quá trình nghiên cứu học sinh hiểu và vận dụng tốt các mạch
kiến thức vào giải toán có lời văn. Phát huy được tính chủ động, tích cực trong học
tập của học sinh, học sinh thích thú và ham học hỏi hơn.
Giáo viên không phải nói nhiều mà thay vào đó học sinh sẽ được thực hành
nhiều. Các tồn tại của những năm học trước đã được khắc phục ở năm học này.
Chính vì vậy để nâng cao chất lượng học sinh học tốt, phát huy tính tích
cực, sự sáng tạo trong học toán có lời văn ngày càng đạt hiệu quả cao hơn theo tôi
người giáo viên cần:
- Bồi dưỡng niềm say mê, hứng thú học tập cho học sinh, khuyến khích
động viên các em một cách kịp thời.
- Chú trọng rèn kỹ năng sống, phát huy cao độ tính tích cực chủ động, tư duy,
sáng tạo cho học sinh.
- Thường xuyên trao đổi, liên hệ với phụ huynh học sinh để kịp thời giúp đỡ
các em.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả rèn luyện của các em để có kế hoạch rèn
luyện cụ thể góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả rèn luyện.
5.1. Bài học kinh nghiệm
Trong giải toán có lời văn giáo viên nên tránh áp đặt cách giải đối với học
sinh điều này sẽ hạn chế đi sự năng động trong tư duy của học sinh.
- Tránh việc đọc qua loa đề toán ở học sinh, không tóm tắt đề toán điều này
học sinh sẽ gặp khó khăn khi giải toán, thậm chí là không hiểu đề toán, cách giải
bài toán. Dẫn đến các em chỉ giải một cách máy móc, không sáng tạo.

- Giáo viên chuyển dần từ hình thức trình bày giải trên giấy sang hình thức
trình bày bài giải bằng lời trước lớp như thế học sinh có thể khắc sâu kiến thức
hơn.

10


- Hướng dẫn và kiểm tra vở bài tập của học sinh thường xuyên đây là việc
để kiểm tra năng lực tự học của học sinh. Đồng thời, kịp phát hiện những cách giải
hay, sáng tạo của học sinh mà tuyên dương, động viên phát huy
- Khai thác các hình thức học nhóm ở nhà, đôi bạn cùng tiến ở lớp trong
việc tổ chức lớp học cũng góp phần làm cho kỹ năng toán của các em trong lớp
được cân bằng. Giảm được sự rụt rè, ngại phát biểu, sự ỷ lại của học sinh vào một
số bạn học tốt trong nhóm, trong lớp.
5.2. Kiến nghị và đề xuất
- Sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát
huy tính tích cực, sáng tạo trong học toán có lời văn” đã được nghiên cứu và áp
dụng trong tổ khối 5 thời gian quan tại đơn vị trường Tiểu học Dân Thành A mang
lại được những hiệu quả hơn mong đợi. Với những kết quả mà đề tài mang lại, tôi
muốn được chia sẽ, áp dụng rộng rãi hơn nữa trong các khối lớp trong trường,
cũng như các bạn đồng nghiệp trong thị xã.
- Sự tạo điều kiện của quý lãnh đạo là điều kiện tốt nhất để sáng kiến được
nhân rộng và áp dụng rộng rãi hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn
Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung của trường, của thị xã.
Người viết

Nguyễn Trường Nhân

11




×