Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Tiểu luận: Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.14 KB, 119 trang )

Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà
đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. (hỗ trợ đề 1)
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp thực tiễn cho
C. Mác và Ph. Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa trên
cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống
hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra
đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép biện chứng và vứt
bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần thánh hoá tư duy,
nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng,
trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình (Triết học cận
đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy vật không chỉ
duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C. Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư duy
biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau
giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C. Mác
cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng
trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C. Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến trong tự
nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là "học thuyết về
sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn tại và
phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự giống
nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ được khái
quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả, lượng -


chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt
đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết học
trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm
người thiểu số trong xã hội.
Triết học C. Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được bổ
sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính sự phát
triển thực tiễn, học thuyết của C. Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C. Mác và Ph. Ănghen luận chứng
trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh" (1876
-1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số tác
phẩm do V. I. Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
(1908 -1909), "Bút ký triết học".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về mặt lịch sử
của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu về mặt
lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng
gắn với tên tuổi của V. I. Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít trong
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của V. I.
Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như
là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
III. Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế nước
ta hiện nay.
Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện tượng trong
mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và trong sự đứng im tương đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của CNTB, xuất
phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá độ lâu dài, mà có
thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ
nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nước ta là quá

trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực
lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ
nghĩa tư bản. Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác
phát triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH, nhất
là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các
mặt đối lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn CNTB, không
thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong CNXH, càng không thể áp
dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để xây dựng nước ta.
Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành
công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C. Mác - Lênin làm kim chi nam cho hành
động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN, TBCN trên
thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại gặp phải một
mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và phát triển xã
hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường. Cơ
chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt động của các quy luật
kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng
động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú
của xã hội.
Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị
trường, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một
trong những đặc điểm của nền kinh tế XHCN là xây dựng một Nhà nước "của dân, do
dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công bằng văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá
không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa
xã hội đã được xây dựng" (1).
Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước cần sử dụng các công cụ
của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành

viên trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng
các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập
xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã
hội. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên
làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.
Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, có thể khẳng
định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ phép biện
chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của triết học cổ
điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mác - xít thì phép biện chứng
luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới để
phục vụ nhu cầu chính bản thân con người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ thống, nhất là
việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của phép biện
chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định hướng tư tưởng và
mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình,
bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận thức tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong triết học là một vấn đề rất
lớn trong triết học, đòi hỏi có nhiều công sức của các nhà triết học với nhiều công trình
khảo cứu sâu sắc.
Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn
đề lớn đặc biệt là phép biện chứng duy vật mác-xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp ý
kiến khoa học của các thầy cô giáo và các bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Phép biện chứng là một công cụ rất hữu hiệu cho tư duy của chúng ta. Nó được rèn luyện
thông qua các môn mà sinh viên gọi là môn tụng kinh, môn học ác mộng, môn học đứa
nào cũng ghét, môn học mà học xong mình chẳng biết gì về nó là các môn: Triết học,

kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phép biện chứng xuyên suốt tất cả các môn học này, nó là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ học thuyết của Mác và vận dụng của Lê nin vào điều kiện của một nước Nga tư bản và
sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Khi học chủ nghĩa duy vật biện chứng ta hay gặp khái niệm vật chất – ý thức, các cặp
phạm trù cái chung - cái riêng, hình thức - nội dung
Nhưng nói ngắn gọn phép biện chứng dựa trên 3 qui luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Trong sách triết học nói nó là
động lực của sự phát triển. Nhưng chẳng ai giải thích sâu hơn là đối lập thế nào? Tại sao
lại phải thống nhất lại còn đấu tranh với nhau? Nếu xét theo lăng kính của phương Đông
đặc biệt trong tác phẩm Kinh Dịch: Thì âm dương luôn tồn tại, không có cái nào độc
dương, độc âm mà tồn tại được trong dương có âm trong âm có dương. Âm dương hài
hoà, cân bằng thì vật đó bền vững, sinh sôi. Âm dương không cân bằng thì nó rối loạn
diệt vong. Đó chẳng phải là hai khái niệm về bản chất là giống nhau thể hiện cùng một
chân lý phổ quát của tự nhiên hay sao?
Đem vào ứng dụng trong thực tế thì: Khi học về định luật niutơn về cơ học ta có biết rằng
khi tác dụng vào một vật một lực thì vật đó sinh ra phản lực có độ lớn ngang bằng nhưng
ngược chiều thì chẳng phải là ứng dụng của quy luật thống nhất đó ư. Một vật muốn
chuyển động thì phải tác dụng vào vật khác nếu không có vật khác thì cho dù anh có khoẻ
đến đâu thì cũng chết như anh chàng ở trong chuyện tôi nắm đầu tôi nhấc lên là ra khỏi
vũng bùn ngay thôi.
Suy rộng ra thì mỗi sự vật muốn phát triển thì phải từ nội tại của nó mà sinh ra mâu thuẫn
rồi tự giải quyết mâu thuẫn, khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật đã biến đổi thành
một cái khác cao hơn nó vốn có.
- Quy luật phát triển: A là A mà không phải là A vì nó đã biến thành B tại một thời điểm
nào đó. Nó luôn có tính kế thừa và do mâu thuẫn bên trong nó quy định nó là nó mà
không phải là cái khác tại một thời điểm nào đó.
- Quy luật lượng chất: Mỗi chất lại quy định một lượng mới phù hợp với nó. Ta nấu cơm
nếu đủ gạo thì ta gọi là cơm, nếu ít gạo mà nhiều nước thì gọi là cháo. Đơn giản vậy thôi.
Phân tích các quy luật thì có thể dễ nhưng linh hồn của phép biện chứng là vận dụng hài

hoà và có cái nhìn khác về các quy luật đó: Đó là nhìn sự vật trong hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, điều kiện cụ thể, mang tính kế thừa cụ thể của thời gian mà sự vật cần xem xét. Điều
này không phải ai cũng nhìn ra, vì để xem xét và dự đoán được hoàn cảnh và thời gian
của sự vật, sự việc cần xem xét đòi hỏi một cách cụ thể nhưng lại riêng lẻ với sự việc đó.
Người ứng dụng tài tình phương pháp này một cách dễ hiểu là chàng thám tử đại tài
Sherlock Holmes của Conan Doyle. Ông dự đoán và vạch ra bằng chứng rất khoa học,
mọi sự vật đều để lại dấu vết, để lại chi tiết, nếu nó là điều không thể xảy ra thì đó chính
là chốt của vấn đề, và chỉ cần lần ra đầu mối sẽ tương tác với các dấu vết khác rồi tìm ra
thủ phạm. Đọc truyện này ta không bao giờ thấy ngài Holmes không cố tưởng tượng ra
trình độ của kẻ gây án để dự đoán và kiểm nghiệm tình huống, quả thực ông Conan
Doyle thật tài tình trong việc vận dụng phép biện chứng mà nhiều người đã bị cuốn hút
vào điều đó theo một logic, gây tò mò và tưởng tượng cho độc giả cực lớn, cộng thêm tài
năng văn chương của tác giả khiến nó trở nên nổi tiếng nhất thế giới.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy vật, như Mác và
Engen đã khẳng định: "không chịu khuất phục trước một cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào
đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối lập với phép biện chứng duy tâm , mà nó còn
là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận
thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn
của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển, do đó, chúng được coi là
những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy của phép biện chứng duy vật, việc đề cao
vai trò của nó đối với việc khắc phục những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa
hết sức to lớn.
Dưới đây chúng tôi trình bày một số sai lầm tiêu biểu trong tư duy và trong nhận thức cần
được khắc phục và con đường khắc phục chúng.
Về bệnh chủ quan duy ý chí
“Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy vừa mắc phải chủ
nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ nghĩa chủ quan chỉ thể hiện
khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể trong quan niệm và hành động, phủ nhận

hoàn toàn hay phần nào bản chất và tính quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực
khách quan".
Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, người
ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách quan, coi thường các quy luật
khách quan của sự vận động và phát triển.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng nguyên lý về mối
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để xem xét thì rõ ràng, bệnh chủ
quan duy ý chí là kết quả nếu không nói là tất cả của những điều kiện sinh hoạt vật chất -
xã hội, cụ thể là của trình độ phát triển thấp kém về kinh tế. Đó chính là nguyên nhân của
những nguyên nhân sau đây:
Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học của chủ thể nhận
thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta không thể có được tư duy
biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học chưa đạt đến một chuẩn mực cần có.
Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm
và phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí.
Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc thường xuyên chủ
động nâng cạo năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm cả quá trình học tập lý luận và
kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này, Engen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là
một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái được phát
triển hoàn thiện Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ yếu
là phải học tập, rèn luyện lý luận. của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và
sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi
căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa
duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể
phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một
loại bệnh "ấu trĩ tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược cách mạng và
sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và pháp luật, nếu bị sự can
thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển

của đất nước mà trước mắt cũng như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước
được. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai
lầm nào nguy là nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan.
Định ra một sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị thất
bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây nên, những người
hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể được khắc phục, sửa chữa cho
phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các
tình trạng sau đây: 1) không nhận thức được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức,
2) nhận thức được nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận thức, trình độ lý
luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai lầm, theo chúng tôi, còn có
nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể
tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo
hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan
Trong tình hình đó, thay cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ,
chờ đợi sự may rủi và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn dẫn đến tệ mệnh
lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc đoán chuyên quyền, ban phát
đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô, lãng phí, coi thường người lao động
Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng đã mắc phải căn
bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những
khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế,
và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền
sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có
được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai
lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với
tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận mà còn là sản
phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó, bệnh chủ quan duy ý chí trở

thành một trong những nguyên nhân làm cho nền kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá
trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ
nhận thức, trình độ lý luận, trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật
với việc đẩy mạnh đổi mới và phát triển kinh tế.
Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ còn gắn kết chặt chẽ với
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển đất nước.
Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những sai lầm trong
phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất của bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa
khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của
những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức
lý luận, tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một
cách máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó là sự từng trải
của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của địa phương này hay địa
phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước khác, kinh nghiệm của các thế hệ
trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá
kinh nghiệm bản thân. Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:
Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục bộ, chứ không phải
là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm phổ biến theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc của quá khứ chưa
hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển theo "quan điểm chọn lọc". Hơn
nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh
cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều trường hợp, chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài
ngẫu nhiên, nhưng trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác mà chúng ta đã
không thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo
hơn và phức tạp hơn nhiều.
Thứ ba, "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được

đầy đủ tính tất yếu.
Con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Vì vậy, mặc dù đã được
trang bị chủ nghĩa Mác -Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật, nhưng ở một số nhà
quản lý của chúng ta ít nhiều vẫn mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này,
trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ,tuỳ tiện, tự ti, không
nhất quán trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm ảnh hưởng
đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và
trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.
Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật, phải thấy
được mối quan hệ qua lại và sự thống nhất biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận. Phải
bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng được chiến lược phát
triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Vê bệnh giáo điều Bệnh giáo điều là
trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể ( tính máy móc, rập khuôn, cứng
nhắc, thiếu sáng tạo), mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn.
Thực chất của bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri
thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không tính đến tính lịch sử - cụ
thể của những hoạt động đó.
Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư
duy lý luận, nhất là lý luận của CNDV biện chứng, do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp
dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện
chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội.
Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái chung vào cái riêng
một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp. dụng một
lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là
ở chỗ, như Lênin nói: "Nêu chỉ biết bắt chước, không có tinh thần phê phán mà đem rập
khuôn kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác, như thế là sai lầm
nghiêm trọng".
Ở nước ta, ngay sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã căn dặn: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi học tập
kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”.
Lời căn dặn đó đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong việc học tập kinh nghiệm phát triển
kinh tế và quản lý kinh tế của các nước phát triển trên thế giới.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, bởi
coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam. Rất tiếc,
khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa chữa, nên căn bệnh này vẫn
còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước . Để căn bản khắc phục căn bệnh này
theo tinh thần của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải triệt để phân tích mọi vấn đề
trong tính lịch sử - cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những giải pháp phù hợp , tránh rập
khuôn, máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có.
Những căn bệnh trên đây thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng là một trong những
nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, xã hội
những năm 80. Với tinh thần cách mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó
đến nay, chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh
hướng tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra chúng
chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào đó, những
căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới của chúng ta.
Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá trình xoá bỏ
những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá bỏ tình trạng yếu kém
về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ cao. Muốn vậy, trước hết phải
nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật và thông qua đó, không ngừng nâng cao
trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Như vậy, nắm vững phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa ngăn ngừa, khắc
phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng
giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiên đặt ra.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, triết học đã ra đời với tư cách là một khoa học thực hiện
chức năng thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Nó trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế
ngự thiên nhiên và trong sự nghiệp giải phóng con người của các lực lượng xã hội tiến bộ. Cùng với nó là
sự xuất hiện của phép biện chứng, cung cấp hệ thống lý luận về tính biện chứng của sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng đã trải qua nhiều hình thức và đạt đến sự phát triển cao nhất của nó ở phép biện chứng
duy vật. Được Các Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX, và Lênin tiếp tục phát triển, dựa trên
cơ sở kế thừa thành tựu của các hình thức biện chứng trong lịch sử và khái quát thực tiễn xã hội, phép biện
chứng duy vật đã phản ánh đúng đắn những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Trong đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý được coi là nền tảng cơ bản, quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật. Chính từ ý nghĩa lý luận ấy mà việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, giúp ta nhận thức được một cách đúng đắn,
toàn diện về sự phát triển cuả thế giới khách quan trong mối liên hệ ràng buộc quy định lẫn nhau của các sự
vật, hiện tượng; đặc biệt trong tình hình cụ thể của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo quy luật khách quan của sự phát triển
hình thái kinh tế xã hội. Đảng, nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng trưởng kinh tế,
song đi đôi với nó phải thực hiện tốt công bằng xã hội. Có như thế mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững
của Việt Nam trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những thách thức lớn mà thực tiễn đang đặt ra.
Do đó, nắm vững nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để xây dựng quan điểm toàn diện trong phát triển
kinh tế, tập trung cho tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội là một vấn đề mang tính
thực tiễn sâu sắc. Hơn nữa, nó còn là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự phát triển đúng hướng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Chương 1
PHÉP BIỆN CHỨNG LÀ KHOA HỌC VỀ
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1Tìm hiểu chung về khái niệm mối liên hệ:
Trong lịch sử triết học, đã có nhiều quan niệm khác nhau về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và
các quá trình khác nhau của thế giới. Những người theo quan điểm siêu hình thì cho rằng các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan tồn tại biệt lập, tách rời, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, qui
định lẫn nhau. Cũng có một số nhà duy vật siêu hình cho rằng, giữa chúng có mối liên hệ song các mối liên

hệ ấy không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Các quan điểm này đều không phản ánh đúng về thế giới
hiện thực.
Các nhà duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: mối liên hệ là phạm trù triệt học dùng để chỉ sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,
của một hiện tượng trong thế giới.
Vậy cơ sở nào đã làm nên các mối liên hệ của thế giới khách quan ? Các nhà duy tâm khách quan mặc
dù thừa nhận sự tồn tại của các mối liên hệ này nhưng lại cho rằng, sự chuyển hoá lẫn nhau ấy của các sự
vật hiện tượng là do lực lượng siêu nhiên hay ý thức cảm giác của con người qui định. Bác bỏ những quan
niệm không đúng đắn ấy, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới
chính là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Nhờ có tính thống nhất đó, mà chúng không thể
tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ
xác định.
1.2 - Tính chất của mối liên hệ:
Tính khách quan:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Sở dĩ như vậy
là vì cơ sở của các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau
được hình thành nên đều là do quá trình vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất, do đó mà xét cho
cùng về nguồn gốc thì tất cả các sự vật, hiện tượng đều là nhân, là quả của nhau. Vì thế, giữa chúng luôn
tồn tại các mối liên hệ. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động
của mình cho phù hợp nhằm phục vụ lợi ích của xã hội và bản thân con người.
1.2.2 Tính phổ biến:
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan cũng có mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác. Không những thế, mà bản thân các yếu tố, bộ phận của chúng cũng có mối liên hệ qua lại với
nhau chẳng hạn như mối quan hệ chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nội bộ một
phương thức sản xuất. Ngoài ra, trong quá trình tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, giữa
quá khứ, hiện tại, tương lai của chúng cũng có quan hệ biện chứng với nhau; trong đó hiện tại là kết quả
của quá khứ và là xu hướng của tương lai.
Trong mỗi điều kiện nhất định, mối liên hệ lại được biểu hiện dưới hình thức riêng biệt, cụ thể.Song, dù
dưới hình thức nào, thì chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Bởi thế,
Ph.Ăngghen đã viết:"Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến"

(1)
. Cũng vì thế, triết học gọi
mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến.
1.2.3 Tính đa dạng:
Chính tính đa dạng nhiều vẻ trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đã qui định tính
đa dạng của mối liên hệ giữa chúng. Mỗi mối liên
hệ lại có vai trò khác nhau trong việc qui định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như
mối liên hệ bên trong luôn giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng hơn
là mối liên hệ bên ngoài. Song trong những điều kiện nhất định, mối liên hệ bên ngoài cũng có thể giữ vai
trò quyết định.
Tính đa dạng của các mối liên hệ là cơ sở để phân chia các cặp mối liên hệ như mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối
liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ
ngẫu nhiên,
Sự phân chia các cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, mỗi mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển
hoá cho nhau tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể tác động đến sự vật, hiện tượng.Ví dụ như nếu xem xét
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai vấn đề khác nhau của đời sống xã hội thì mối liên hệ giữa
chúng là mối liên hệ bên ngoài nhưng nếu nhìn chúng ở góc độ là hai tiêu chí cơ bản của sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia thì mối liên hệ giữa chúng lại là mối liên hệ bên trong.Song sự phân chia ấy là hết
sức cần thiết vì nó giúp cho con người nhìn nhận đầy đủ các mối liên hệ, xác định rõ được vai trò của từng
mối liên hệ trong điều kiện cụ thể để có tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
thực tiễn.
1.3 - Quan điểm toàn diện:
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến, có thể rút ra
nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thực tại khách quan. Vì mọi sự vật, hiện
tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và mỗi mối liên hệ lại tác động khác nhau tới quá trình tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng nên khi xem xét chúng phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ
giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác, giữa các yếu tố, bộ phận trong bản thân nó, kể cả mối liên hệ trực
tiếp và gián tiếp.Chẳng hạn, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, không chỉ tìm hiểu những qui luật vận

động và những mâu thuẫn nội tại trong bản thân nó mà còn phải xem xét cả đến hình thái kinh tế-xã hội đã
sản sinh ra nó là chế độ phong kiến để thấy được tuy còn nhiều hạn chế nhưng sự xuất hiện của nó là tất
yếu khách quan, tuân theo quy luật của sự phát triển hình thái kinh tế-xã hội; để từ đó khắc phục những hạn
chế, thúc đẩy sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn : đó là hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
QUY LUẬT MÂU THUẪN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa của
phương pháp luận của quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở nước
ta hiện nay?
Gợi ý:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là hạt nhân
của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng.
1. Khái niệm
a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự
nhiên, xã hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt
đối lập, sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại
và đấu tranh lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật
Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những khuynh
hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi
của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới.
3. Phân tích nội dung quy luật
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện

tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện tượng với
nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu
thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các thuộc tính,
các khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo
thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến; mâu thuẫn
tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ biến chẳng
những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động và phát triển của
chúng; mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ nhau, ràng
buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát triển. (ví dụ:
đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa)
Khái niện "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm "đồng nhất", đó là
sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các hiện tượng, các
quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy; song "đồng nhất" còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyễn
hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự "đồng nhất" là không tách rời với sự khác nhau
và đối lập, (ví dụ liên hệ: một vật vừa là nó vừa không phải là nó;quan điểm này hoàn toàn đối
lập với quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy không có đối
lập, không có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ
nhau, phủ định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật chất là rất
đa dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác
động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực
cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn)
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những
đặc điểm riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của
2 mặt có khuynh hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau
đó biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ

chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ
bị phá hũy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối,
nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng; còn sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển
hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn vận động và phát triển.
3. Các loại mâu thuẫn
mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng; tính đa dạng được quy định bởi
đặc điểm của các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, bởi
trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài; trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật hiện tượng; mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong
mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác (ví dụ: đồng hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-môi trường:
bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang tính tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau và
mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định trực tiếp đến sự vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng (ví dụ: chính sách đối nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện tượng, người ta phân
loại thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy
định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật
hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng; mâu thuẫn không cơ
bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động
và phát triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn giữa lực lượcng sản xuất vớiquan
hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật
hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu; phân biệt mâu thuẫn
chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu chỉ mang tính tương đối, trong cùng một sự vật trong điều kiện
này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện khác lại là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia thành mâu thuẫn đối

kháng và mâu thuẫn không đối kháng; mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp,
những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (ví dụ); mâu thuẫn
không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những khuynh hướng xã hội có đối lập về
lợi ích những mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ: mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân, giữa
thành thị-nông thôn). Phân biệt được các loại mâu thuẫn trên sẽ góp phần xác định chính xác
phương pháp giải quyết phù hợp: bằng bạo lực cách mạng hay bằng giáo dục thuyết phục.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích
các mặt đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận động và phát
triển của chúng.
Hoạt động thực tiển nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó, muốn vậy
phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi
chưa đủ điều kiện.
Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ
loại mâu thuẫn mà có phương pháp giải quyết cụ thể.
Nguồn:WATTPAD.com
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Câu hỏi thi vấn đáp môn Triết học
Câu 1.
Phân tích những điều kiện ra đời của Triết học Mác và nêu những giai đoạn chủ yếu
trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác-Lênin.
Câu 2.
Khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan. Nội dung, bản chất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân của thế giới quan khoa học. Những
nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng
chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
Câu 3.
Trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng, những nội dung cơ bản của phép
biện chứng và sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ sự

nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Câu 4.
Trình bày và phân tích khái niệm phương pháp và phương pháp luận. Nêu các
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản và ý nghĩa của nó trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Câu 5.
Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển? Vận dụng
quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay?
Câu 6.
Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa của
phương pháp luận của quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở
nước ta hiện nay?
Câu 7.
Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
Câu 8.
Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
ở nước ta hiện nay?
Câu 9.
Quan niệm của triết học Mác – Lênin về thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm này trong việc đổi mới tư duy
lý luận và nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
Câu 10.
Quan niệm của triết học Mác – Lênin về lý luận và thực tiễn, quan hệ giữa thực tiễn
và lý luận? Đảng ta vận dụng quan hệ này vào việc đổi mới tư duy lý luận như thế
nào?
Câu 11.

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Vai
trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất? Luận chứng cho
thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp?
Câu 12.
Quan niệm của triết học Mác-Leenin về vai trò của khoa học, kỹ thuật và nhân tố con
người trong lực lượng sản xuất ? Sự vận dụng quan điểm đó ở nước ta hiện nay ?
Câu 13.
Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này luận chứng tính tất yếu của sự
tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay ?
Câu 14.
Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tích chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này lý giải tính tất yếu của việc
định hướng con đường phát triển xã hội Việt Nam hiện nay theo hướng xã hội chủ
nghĩa ?
Câu 15.
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XH?
Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách nền
hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
Câu 16.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội
để phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển xã
hội ở nước ta ?
Câu 17.
Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên”? Ý nghĩa phương pháp luận của luận điểm trên ?
Câu 18.
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - XH của Mác. Phân tích tính tất yếu của việc định
hướng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?

Câu 19.
Phân tích nội dung những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ?
Câu 20.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc,
nhân loại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
hiện nay?
Câu 21.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về nguồn gốc và bản chất của nhà nước? Nêu
quá trình hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng?
Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền?
Câu 22.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Leenin về nguồn gốc và bản chất của nhà nước? Bản
chất của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam? Vai trò của nhà nước pháp quyền
XHCN đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay.
Câu 23.
Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con người? Ý
nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta ?
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
1. Nội dung: của CNDVBC với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế giới quan
khoa học bao gồm 2 nhóm quan niệm. Đó là nhóm quan niệm duy vật về thế giới
nói chung và nhóm duy vật vầ xã hội nói riêng:
a) Quan điểm duy vật về thế giới:
Ø Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của
thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng minh bằng một
sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
Ø Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:

§ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
§ Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ
chức nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân
của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của TGVC.
§ Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức
cao; thế giới thống nhất và duy nhất.
Ø Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
Ø Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn
tại trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn
tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri
thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan
trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực
vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên thế giới góp phần biến đổi thế
giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:
Ø Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài
của tự nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của
xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.
Ø Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng
giai đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi
PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
Ø Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các
hình thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà
thực chất là lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX á à QHSX á à PTSX á à (CSHT + KTTT) á à HTKTXH á
Ø Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị
tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ thể QCND

biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần;
sức mạnh của họ chỉ được phát huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
Ø CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc à không thấy được tính năng động
của ý thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức;
trong hoạt động thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật
chất theo nhu cầu của con người.
Ø CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng
tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm à Mác cải
tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện à xây dựng nên
CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
Ø CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà
còn trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng
tư tưởng của loài người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả
vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê
phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô
sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức,
cải tạo thế giới.
Ø CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
§ CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp
lợi ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học à
CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa
học và tính cách mạng.
§ CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
§ CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây
dựng cái mới tiến bộ.
§ CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
* Khắc phục ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí. (Chú ý chủ nghĩa chủ

quan)
“Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy vừa mắc
phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ nghĩa chủ
quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể trong quan
niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và tính quy luật
của thế giới vật chất, của hiện thực khách quan".
Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn, người ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách quan, coi
thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng nguyên
lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để xem xét thì
rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu không nói là tất cả của những
điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát triển thấp kém về
kinh tế. Đó chính là nguyên nhân của những nguyên nhân sau đây:
Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học của chủ
thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta không thể
có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học chưa đạt
đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học
sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí.
Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc thường xuyên
chủ động nâng cạo năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm cả quá trình học
tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này, Engen đã từng khẳng định:
"Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta.
Năng lực ấy cần phái được phát triển hoàn thiện Vì vậy, để khắc phục tình
trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận.
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói
chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do
đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn
đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ

quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều
căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ tả khuynh" nên nó
vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược cách
mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và pháp
luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm nguy hại
nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng như lâu dài,
hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã cảnh
báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai lầm nào nguy là nguy hiểm hơn
là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra một sách lược vô
sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị thất bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây nên,
những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể được
khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của thực
tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận thức được
nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được nguồn gốc sai
lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận thức,
trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai lầm,
theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo thủ hoặc
vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ quan,
tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi cho
người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan Trong tình hình đó, thay cho
việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thờ ơ, chờ đợi sự may rủi
và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn dẫn đến
tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc đoán
chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô, lãng phí, coi
thường người lao động
Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng đã mắc

phải căn bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong
việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc
độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao
trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường lối, chính
sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy
ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần
của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận mà còn
là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó, bệnh chủ
quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho nền kinh tế bị
đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí phải là sự
kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý luận, trong đó bao
hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc đẩy mạnh đổi mới và
phát triển kinh tế.
Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ còn gắn kết
chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển đất
nước.

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
1. Lịch sử phép biện chứng
Tư tưởng biện chứng đã hình thành ngay từ khi triết học ra đời. Trong quá trình
phát triển, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản là phép biện chứng chất
phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
1.1. Phép biện chứng chất phác
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển,
nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang tính trực quan,
cảm tính để khái quát bức tranh chung của thế giới. Phép biện chứng chất phác
thể hiện rõ rệt trong “thuyết Âm - Dương”, “thuyết Ngũ - hành” của triết học
Trung hoa cổ đại, trong các hệ thống triết học của các nhà triết học Hy lạp cổ đại

và triết học Ấn độ cổ đại. Giá trị của phép biện chứng chất phác thể hiện ở ý
nghĩa vô thần, chống lại những quan điểm tôn giáo. Song phép biện chứng này
thiếu những căn cứ khoa học nên đã bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế
kỉ XV thay thế.
1.2. Phép biện chứng duy tâm khách quan
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII,
nửa đầu thế kỉ XIX. Thời kì này, khoa học đã đạt được những thành tựu xuất sắc
trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Những thành tựu khoa học đó là cơ sở để đi tới
những khái quát mới về nội dung phép biện chứng.
Đại diện tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là Hêghen. Ông là người đầu
tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm với một hệ thống khái niệm,
phạm trù và quy luật cơ bản. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của
Hêghen thể hiện ở chỗ : Ông coi “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước, và trong quá
trình vận động phát triển, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành giới tự nhiên và xã
hội; cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai lầm của
phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen là ở chỗ ông cho rằng biện
chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng duy
tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa học.
1.3. Phép biện chứng duy vật
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó, dựa trên cơ
sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử
loài cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được
V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép biện chứng một hình
thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn
chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện
chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy
luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện

chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên
lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa:
“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư
duy”.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau.
Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng
tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy
định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy
có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia.
Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề
ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm
siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ
với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác
nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn giới vô cơ và giới hữu
cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập không thâm nhập lẫn nhau;
tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không
vận động
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện
tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động
qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động
đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con

người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo
dục y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong một
nước mà trên toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con người cũng tác động,
ảnh hưởng làm biến đổi môi trường.
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết
định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực
lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên
quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên
hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách
quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự
vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất
vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các
sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể
tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn
nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện
chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua
sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện
tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân
chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ
có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua
mối liên hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội và
tự nhiên thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người
cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự
nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.

2.2. Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật
hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác
động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất
không khí , đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người - một sinh
vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân.
Ngoài sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị
và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô
vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ, vận
dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm
phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến:
Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay
không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia
khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế giới đã và
đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt đời sống xã hội.
Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm
nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà
bình.v.v.
Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ theo điều
kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối
liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể, được
các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu
những mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế, Ph.Ănghen
viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.
Thứ ba, nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới còn nhìn
thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia
ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ

bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản chất và
mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; mối
liên hệ chung bao quát toàn thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực
hoặc một số lĩnh vực của thế giới; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp;
mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các giai đoạn
phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật.v.v. Chính
tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật
và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật có
thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ
xác định. Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa có mối liên hệ
bên trong, vừa có mối liên hệ bên ngoài, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có mối
liên hệ không bản chất, vừa có mối liên hệ trực tiếp vừa có mối liên hệ gián
tiếp
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận động và
phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định,
sự chuyển hoá lẫn nhau của các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Mối liên hệ này
không giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. Nó thường
phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đến sự tồn tại, sự vận
động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mối liên hệ
bên ngoài cũng giữ vai trò hết sức quan trọng và trong những điều kiện nhất
định có thể giữ vai trò quyết định .
Các cặp mối liên hệ khác cũng có quan hệ biện chứng giống như mối quan hệ
biện chứng của các cặp mối liên hệ đã nêu trên. Đương nhiên, mỗi cặp mối liên
hệ có những đặc trưng riêng. Trong các cặp mối liên hệ đó, nói chung, mối liên
hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu giữ vai trò quyết định.
Song tuỳ theo những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các mối liên hệ tương ứng với
chúng có thể giữ vai trò quyết định. Nói cách khác, vai trò quyết định của các
mối liên hệ trong từng cặp một phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định .
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên

hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi
bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật. Chẳng
hạn, nếu xem xét các doanh nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì
mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và
phát triển của mình, các doanh nghiệp kết hợp với nhau tạo thành công ty, thành
tổng công ty thì mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lại là mối liên hệ bên trong.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự
phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác
định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng
các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất
trong hoạt động của mình.
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau,
quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật. Những người theo
quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá
trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá
trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về
chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự
phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có chứ
không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan
điêm siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có
những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của
cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức

tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy
ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như sự vật ấy quay trở về
điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong
bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác,
đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng
là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người theo quan điểm duy
tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần
linh, Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người .
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện
thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động, xu hướng vận động
đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là
trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ hình
thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu,
phương thức tồn tại và vận động của mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức tồn tại cụ
thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở dạng biến đổi
các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong các điều
kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm xuất hiện
các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong giới hữu cơ, sự phát
triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp của
môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và
môi trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn

và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp với môi
trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên
và cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi con người
biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần, phù hợp với
sự vận động và phát triển của môi trường trong đó có con người sinh sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân con
người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận
động đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song nếu xét
cả quá trình vận động với không gian rộng và thời gian dài thì quá trình vận
động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự vật.
3.2. Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân tích,
theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong
bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì
thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện
vọng, ý chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật
vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã
hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả
các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận
động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát

×