Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.67 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN (PTI)
2.1. Giới thiệu về công ty cổ phần bảo hiểm Bưư Điện (PTI)
2.1.1.Giới thiệu về công ty
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (gọi tắt là PTI) được Bộ Tài chính cấp
giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm số
10TC/GCN ngày 18/6/1998 và Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp Giấy
phép thành lập số 3633/GP-UP ngày 01/08/1998. Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Bưu điện chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/09/1998. Hoạt động chính của
PTI là kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm phi nhân thọ trong nước và quốc tế.
Công ty PTI có 07 thành viên sáng lập gồm: Tổng Công ty Bưu chính Viễn
thông Việt Nam (VNPT); Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội (HACC); Tổng Công
ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam (VINACONEX); Tổng Công ty Cổ phần
Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE), Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quốc tế (VIBank), Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh (BAOMINH).
Mặc dù ra đời muộn hơn các công ty bảo hiểm khác nhưng PTI đã tạo
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam và có
uy tín cao đối với khách hàng nhờ có định hướng kinh doanh đúng đắn và gần
50 sản phẩm bảo hiểm chất lượng cao, mức phí cạnh tranh được triển khai rộng
khắp trên phạm vi cả nước.
PTI luôn tâm niệm chấp nhận cạnh tranh nhưng phải nghiên cứu kỹ thị
trường để phát triển vững chắc. Điều đó được thể hiện ở chỗ PTI lấy yếu tố con
người làm trung tâm. Sản phẩm chất lượng cao phải đi kèm với đội ngũ cán bộ
chuyên viên giỏi về nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao. Đặc biệt hàng năm,
PTI đều cử một số cán bộ chuyên viên đi đào tạo chuyên sâu tại Singapore,
Malaysia, Thuỵ Sỹ, HongKong... Hoặc tham gia khoá học chuyên ngành bảo
hiểm từ xa của Australia, New Zealand…
Xác định rõ quyền lợi của khách hàng luôn đi liền với sự phát triển của
công ty, PTI rất chú trọng công tác chăm sóc khách hàng và công tác bồi thường
cho khách hàng. Khi có sự cố, công tác giám định bồi thường được thực hiện
theo tiêu chí nhanh chóng kịp thời, chính xác và hợp pháp. PTI có sự hợp tác


với các công ty giám định độc lập, uy tín trong và ngoài nước như Cunningham
Linshey, McLauren… để giải quyết những vụ tổn thất lớn, phức tạp. Tỷ lệ bồi
thường trung bình hành năm của PTI 25% trên doanh thu bảo hiểm. Đây là chỉ
số tốt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và quốc tế thể hiện tính chuyên nghiệp
trong khai thác bảo hiểm, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của
Công ty.
Để đảm bảo an toàn tài chính của công ty, khả năng bồi thường cho khách
hàng và năng lực nhận bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, PTI có quan hệ hợp
tác lâu dài, tốt đẹp và đã ký kết những hợp đồng tái bảo hiểm cố định với các
công ty, tập đoàn tái bảo hiểm có uy tín trên thị trường quốc tế như: Swiss Re,
Munich Re, CCR, Mitsui Sumitomo, Tokio Marine, Hannover Re, Vinare… và
các công ty môi giới hàng đầu như: Marsh, Aon, Willis, Arthur J. Gallagher…
Nhờ vậy, PTI có khả năng nhận và thu xếp tái bảo hiểm ra thị trường quốc tế
các dịch vụ bảo hiểm có giá trị tới hàng trăm triệu USD, đặc biệt là các dự án
xây dựng quy mô lớn như: thuỷ điện, xi măng, cầu, đường… Tổng doanh thu
nhận tái bảo hiểm năm 2006 đạt 24 tỷ VNĐ. Tổng năng lực hợp đồng tái bảo
hiểm của PTI năm 2007 là 21 triệu USD.
Với nỗ lực không ngừng, PTI đã phát triển đội ngũ trên 500 cán bộ nhân
viên làm việc tại Hà Nội, 22 chi nhánh, các văn phòng đại diện trong phạm vi
toàn quốc. Trong số các nghiệp vụ bảo hiểm có tốc độ tăng trưởng cao của PTI
phải kể đến bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm
cháy, bảo hiểm con người và bảo hiểm xe cơ giới. Ngoài ra PTI còn triển khai
một số nghiệp vụ bảo hiểm mới như: bảo hiểm vệ tinh, bảo hiểm bưu phẩm, bưu
kiện khai giá.
Cùng những thành tích đã đạt được, PTI đang ngày càng phát triển với
mức tăng trưởng về doanh thu bảo hiểm gốc đạt trung bình 30% năm. PTI đã
khẳng định được vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và quốc tế
và là một trong 5 doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm phi
nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hiện nay Công ty PTI là một thành viên trong Tập đoàn Bưu chính Viễn

thông Việt Nam. PTI với phương châm hoạt động kinh doanh phải gắn liền với
nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ khách hàng, chia sẻ khó
khăn với khách hàng, cùng khách hàng khắc phục hậu quả của tổn thất, nhằm
nhanh chóng khôi phục sản xuất kinh doanh. Với tinh thần đó, Công ty tin
tưởng và mong muốn đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về bảo hiểm cho mọi đối
tượng khách hàng.
THÔNG TIN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN
Tên đơn vị : Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện
Tên tiếng Anh : Posts &Tel. Joint - Stock Insurance Company
Tên viết tắt : PTI
Trụ sở chính : Tầng 8 Toà nhà 4A - Láng Hạ - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại : (04) 7724466 . Fax: (04) 7724460
Năm thành lập : 1998
Nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu :
Kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm theo qui định của Nhà nước theo
giấy phép kinh doanh số 055051 của sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội
cấp nagỳ 12/8/2008: y tê tự nguyện, tai nạn con người, tài sản, thiệt hại, vận
chuyển đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường không, trách
nhiệm chung, xe cơ giới, cháy;
Kinh doanh tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ.
Giám sát, điều tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải
quyết bồi thường và đòi người thứ ba.
Tham mưu tư vấn cho các tổ chức kinh tế - xã hội trong việc đánh giá và
quản lý rủi ro.
Hoạt động đầu tư tài chính theo qui định của pháp luật.
Các hoạt động khác theo qui định của pháp luật.
2.1.2 Tổ chức bộ máy của PTI
Bộ máy tổ chức của PTI hiện nay được tổ chức qua sơ đồ 1:


Như vậy PTI tổ chức theo mô hình công ty cổ phần, trong đó
- Hội đồng quản trị: do Đại hội đồng cổ đông bầu ra gồm 5 thành viên, có
nhiệm kỳ 4 năm và có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề
thuộc thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông.
- Ban Kiểm Soát: kiểm tra, giám sát tất cả hoạt động quản lý và điều hành công
ty.
- Tổng giám đốc: là người chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực
hiện các quyền và nhiệm vụ được giao, đồng thời là người quản lý và điều hành
mọi hoạt động kinh doanh của công ty.
- Phó tổng giám đốc: Giúp tổng giám đốc điều hành các hoạt động của công ty
và có ý kiến tham mưu trong việc ra các quyết định các hoạt động của công ty .
- Các phòng kinh doanh bảo hiểm: có nhiệm vụ khai thác các nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ .
- Phòng tái bảo hiểm : có nhiệm vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm.
- Phòng kế hoạch đầu tư: có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm
của công ty ; xây dựng các cơ chế, chính sách, xác định các định mức chi phí
và phân bổ các bộ phận kinh doanh; hướng dẫn các bộ phận trực thuộc công ty
xây dựng kế hoạch kinh doanh, thực hiện các công việc liên quan đến đầu tư .
- Phòng tài chính kế toán: tổ chức các hoạt động về kế hoạch tài chính và công
tác theo pháp luật nhà nước qui định. Cụ thể là trung tâm sổ sách tài khoản của
công ty, là nơi thực hiện quản lý, kiểm tra tài chính. Mở sổ sách kế toán và
hoạch toán để thao dõi tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Tổng hợp số
liệu kế toán toàn công ty, kiểm tra hướng dẫn việc thực hiện chế độ kế toán tài
chính và công tác kế toán của các đợn vị trực thuộc, đồng thời cung cấp số liệu
kịp thời, đầy đủ và chính xác cho ban Giám đốc để điều hành mọi hoạt động của
công ty.
- Phòng tổng hợp: có nhiệm vụ thu thập,quản lý và cung cấp thông tin cho các
bộ phận kinh doanh, thực hiện chức năng thư ký cho Ban Giám Đốc, thực hiện
các công tác tuyên truyền quảng cáo cho công ty .
- Phòng tổ chức cán bộ: chuyên thực hiện mọi công việc về nhân sự,quản lý cán

bộ, xây dựng các chế độ tuyển dụng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ
công ty.
Ngoài ra, công ty còn có 22 chi nhánh, các văn phòng đại diện trong
phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh của công ty. Mặc dù
mỗi phòng ban có nhiệm vụ chức năng khác nhau song lại bổ sung và liên kết
với nhau tạo thành một khối thống nhất.
Với mô hình tổ chức quản lý kinh doanh nói trên công ty có điều kiện quản lý
chặt chẽ về mặt kỹ thuật, kinh tế cũng như tổ chức tới từng địa bàn để nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
2.2. Một số nét về tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm:
Tháng 1 năm 1965 công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đầu tiên ra đời,
và kể từ đó thị trường bảo hiểm Việt Nam đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Từ độc quyền chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm Nhà nước,
cho đến nay đã có tới 37 DNBH, trong đó có 21 DNBH phi nhân thọ (có 12
DNBH trong nước và 9 DNBH có vốn đầu tư nước ngoài).

Bảng 1: Danh sách các DNBH phi nhân thọ đang hoạt động trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam
STT Tên doanh nghiệp Năm thành lập
1 Bảo Việt Việt Nam 1965
2 Tổng công ty cổ phần Bảo Minh 1994
3 CTCP bảo hiểm Petrolimex(Pjico) 1995
4 CTCP bảo hiểm Nhà Rồng( Bảo Long) 1995
5 CTCP bảo hiểm dầu khí (PVI) 1996
6 Công ty LD bảo hiểm quốc tế Việt Nam(VIA) 1996
7 Công ty LD bảo hiểm Liên hiệp (UIC) 1997
8 CTCP bảo hiểm Bưu Điện (PTI) 1998
9 Công ty BH tổng hợp Groupama Việt Nam 2001

10 Công ty LD TNHH BH Châu Á- Ngân hang
công thương (IAI)
2002
11 Công ty LD TNHH BH Sam sung Vina 2002
12 CTCP bảo hiểm Viễn Đông (VASS) 2003
13 CTCP bảo hiểm AAA 2005
14 CTBH ngân hang đầu tư & phát triển Việt
Nam (BIC)
2005
15 Công ty TNHH BH phi nhân thọ AIG 2005
16 Công ty TNHH bảo hiểm QBE 2005
17 CTCP bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp &
phát triển nông thôn Việt Nam(Agrinco)
2006
18 CTCP bảo hiểm toàn cầu (GIC) 2006
19 CTCP bảo hiểm Bảo Tín 2006
20 Công ty TNHH bảo hiểm Liberty 2006
21 Công ty TNHH bảo hiểm ACE 2006
(Nguồn: Thị trườngBH Việt Nam)
Có thể thấy rằng, hàng năm các doanh nghiệp ra nhập vào thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ ngày một nhiều, nhất là trong năm 2006, đã có thêm 5 DNBH
tham gia kinh doanh nghiệp vụ này. Số lượng DNBH ngày càng tăng sẽ dẫn đến
nguy cơ các DNBH bị thu hẹp thị phần, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt
Nam sẽ cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Điều này sẽ đòi hỏi
mỗi doanh nghiệp cần hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể
phù hợp với từng thời kỳ, giúp nâng cao năng lực của mình trên thị trường, cũng
như trước đối thủ cạnh tranh, để không bị “gạt” ra khỏi thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ đang hết sức sôi động hiện nay.
2.2.2. Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ngày càng tăng qua các năm, và

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu bảo hiểm toàn thị trường. Sau đây là
doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ và tốc độ tăng doanh thu qua một số năm:
Bảng 2: Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn
thị trường bảo hiểm Việt Nam
Chỉ tiêu 1993 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
1. Doanh thu
( Tỷ đ) 700 2.158 2.624 3.875 4.768 5.535 7.000 8.350
2. Tốc độ tăng
trưởng (%) - - 20 48 23 16 26 19.3
(Nguồn: Thị trường BH Việt Nam)
Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng nhanh
trong giai đoạn năm 2002 - 2003 và tăng chậm hơn năm 2004 – 2005, tuy nhiên
đã hồi phục trở lai trong năm 2006. Trong nhưng năm gần đây, tốc độ phát triển
của thi trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói
riêng tuy đã chậm lại nhưng mức tăng tuyệt đối vẫn ở mức cao. Trong năm
2007, doanh thu khai thác tăng so với năm 2006 là 2.550 tỷ đồng, trong đó
doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng thêm là 1.350 tỷ đồng.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang là “miếng bánh ngon” mà các
doanh nghiệp đang hướng tới. Ngày càng có nhiêu doanh nghiệp tham gia vào
thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, do đó trong những năm qua thị phần của các
DNBH phi nhân thọ cũng có một số thay đổi, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Thị phần của một số DNBH phi nhân thọ
(giai đoạn 2005- 2007)
Tên DN
Doanh thu ( Tỷ đ)
Thị phần
( %)
2005 2006 2007 2005 2006 2007
Bảo Việt
VN

2.138 2.246 2.578 38.56 32.08 30.08
Bảo Minh 1.204 1.386 1.711 21.76 19.8 20.46
PVI 691 1.164 1.706 12.49 16.63 20.43
Pjico 740 670 1.100 13.37 9.57 13.17
PTI 262 297 301 4.78 3.98 3.6
DN PNT
khác
500 1.237 954 9.04 17.94 12.26
Tổng cộng 5.535 7000 8350 100% 100% 100%
(Nguồn: Thị trường BH Việt Nam)
Có thể thấy rằng, doanh thu của DNBH Bảo Việt Việt Nam và Bảo Minh
luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu của toàn thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ Việt Nam. Trong những năm qua thi phần của hai doanh nghiệp
này luôn chiếm trên 50% của toàn thị trường, tuy nhiên vài năm gần đây thị
phần của hai doanh nghiệp cũng đã giảm đi, nguyên nhân đó là do có thêm các
DNBH ra nhập thêm vào thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, tất yếu các doanh
nghiệp sẽ bị chia sẻ thi phần. Một số doanh nghiệp thành lập sau cũng đang dần
khẳng định vị thế của mình trên thị trường như: PVI, Pjico, PTI, Bảo Long…
2.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm triển khai
Bên cạnh mức tăng trưởng về doanh thu thì chất lượng và hiệu quả hoạt
động kinh doanh bảo hiểm cũng đựơc cải thiện rõ rệt thể hiện qua việc đa dạng
hoá các sản phẩm bảo hiểm. Trước năm 1993, thị trường chỉ có 22 sản phẩm
chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Đến năm 2007, thị
trường bảo hiểm đã có tới trên 700 sản phẩm khác nhau, trong đó có khoảng
550 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ trải rộng trên cả 3 lĩnh vực là con người,
tài sản và trách nhiệm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Một trong những chiến lược kinh doanh của các DNBH hiện nay đó là
việc đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm, các doanh nghiệp luôn tìm hiểu nhu
cầu của khách hàng để đưa ra những sản phẩm mới phù hợp và đáp ứng tốt hơn
đòi hỏi của khách hàng, cũng có thể sản phẩm mới đơn giản chỉ là sự kết hợp

giữa các sản phẩm hiện có, hay là sự thay đổi, kết hợp giữa các điều khoản
trong hợp đồng. Các sản phẩm bảo hiểm có sự kết hợp nhiều quyền lợi khác
nhau của khách hàng, do đó khách hàng có thể lựa chọn cho mình sản phẩm phù
hợp để tận dụng được nhiều lợi ích nhất. Nhiều DNBH phi nhân thọ đã cung
cấp nhiều sản phâm bảo hiểm mới khá độc đáo như sản phẩm bảo hiểm cá nhân
cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm chăn nuôi...
Các doanh nghiệp ngày càng đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm, khách
hàng sẽ càng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm phù hợp nhất cho mình,
cạnh tranh giữa các DNBH sẽ ngày tăng lên.
2.2.4. Hệ thống phân phối của các DNBH phi nhân thọ
Để thuận tiện hơn trong việc khai thác, các doanh nghiệp đã liên tục mở
thêm các chi nhánh, văn phòng ở khắp mọi miền tổ quốc, đặc biệt là hệ thống
đại lý được coi là kênh phân phối vô cùng hữu hiệu. Những đại lý có cả mặt từ
các thàng phố lớn cho tới các địa phương xa xôi, nhằm tiếp cận, phục vụ khách
hàng một cách nhanh chóng và kịp thời nhất. Ngoài kênh phân phối qua các đại
lý, các DNBH Việt Nam muốn nâng cao thị phần, khai thác thêm nhiều hợp
đồng hơn nữa, còn phân phối qua một số hình thức khác. Hiện hay hình thức
phân phối bảo hiểm kết hợp với ngân hàng cũng tỏ ra hết sức hữu hiệu, và sự
kết hợp này đã tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Do đó đã có rất nhiều DNBH phi
nhân thọ áp dụng hình thức phân phối này.
Số lượng các kênh phân phối của DNBH cũng được coi là chỉ tiêu để
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó, một DNBH có số lượng các
chi nhánh đại lý lớn, phủ khắp các tỉnh thành sẽ tạo cơ hội tốt cho doanh nghiệp
khai thác đựơc nhiều hợp đồng bảo hiểm, do đó khả năng canh tranh sẽ tốt hơn.
Vì thế, mỗi DNBH phi nhân thọ vẫn đang tiếp tục mở thêm rất nhiều chi nhánh,
đại lý để cạnh tranh với các DNBH khác, do đó cạnh tranh trên thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ cũng ngày một gay gắt hơn.
2.2.5. Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiêm phi nhân thọ đựoc xem xét qua một số các chỉ tiêu sau: khả năng về vốn,

mức trích lập dự phòng.
2.2.5.1. Khả năng về vốn
Hiện nay, theo qui định của Luật kinh doanh bảo hiểm, mức vốn pháp
định của các công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ được qui định là 300tỷ
đồng Việt Nam.
Với mức vốn pháp định đựơc qui đinh mới này, các doanh nghiệp đã tăng
nguồn vốn điều lệ của mình bằng nhiều hình thức, và hình thức tỏ ra hữu hiệu
nhất đó là phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, để tăng tiềm lực về tài chính cũng như
nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cũng chú trọng tằng vốn chủ sở
hữu, trích lập dự phòng và quĩ dự trữ.
Bảng 4: Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của một số DNBH
phi nhân thọ năm 2007
(Đơn vị: tỷ VN đồng)
Doanh nghiệp Vốn điều lệ Vốn chủ sở hữu
Bảo Việt Việt Nam 900 570
Bảo Minh 1.100 555.6
Pjico 140 186.54
PVI 100 718.22
PTI 105 126
Bảo Long 160 170.49
(Nguồn: Thị trường BH Việt Nam)

Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các DNBH phi nhân thọ hàng đầu
này luôn được tăng lên theo thời gian. Điển hình như Pjico: vốn điều lệ năm
2001 là 55 tỷ đồng, năm 2003 là 70 tỷ dồng, đến năm 2007 tăng lên tới 140 tỷ
đồng; vốn chủ sở hữu năm 2001 là 52 tỷ đồng, năm 2003 là 103,5 tỷ đồng, năm
2004 là 118 tỷ đồng, năm 2007 tăng lên tới 186.54 tỷ đồng. Công ty cổ phần
Bảo hiểm Bưu điện: Vốn điều lệ năm 2001 là 64 tỷ đồng, năm 2003 là 70 tỷ
đồng, năm 2007 tăng lên tới 105 tỷ đồng; vốn chủ sở hữu năm 2001 là 75 tỷ
đồng, năm 2003 là 107 tỷ đồng, năm 2004 là 118 tỷ đồng, năm 2007 tăng lên là

126 tỷ đồng.
Nguồn vốn tăng lên cũng khiến cho tiềm lực tài chính tăng lên, các
DNBH có khả năng nhận các hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn, khả năng bồi
thường chi trả sẽ cao hơn, vì thế khách hàng sẽ yên tâm hơn khi tìm đến các
doanh nghiệp có nguồn lực tài chính lớn. Do đó, việc các DNBH phi nhân thọ
tăng nguồn vốn của mình lên cũng là một biện pháp để cạnh tranh với các đối
thủ khác trên thị trường.
2.2.5.2. Dự phòng nghiệp vụ

×