Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tiểu luận thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.83 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................................................................2
1. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG........................................................................2
1.1. Giới thiệu sơ lược lý thuyết về thông tin bất cân xứng.....................................................2
1.2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng..........................................................................4
1.3. Một số ví dụ về thông tin bất cân xứng.............................................................................5
1.4. Hệ quả của thông tin bất cân xứng....................................................................................5
1.5. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng...................................................11

2. TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI............................................14
2.1. Khái niệm tín dụng..........................................................................................................14
2.2. Tín dụng Ngân hàng........................................................................................................15
2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng..........................................................................................18
2.4. Hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại......................................................22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG................................23
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI..........................................................23
1. Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại..........................23
2. Nguyên nhân các Ngân hàng thương mại phải xử lý vấn đề thông tin bất cân
xứng......................................................................................................................24
3. Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại trong tình trạng thông tin
bất cân xứng..........................................................................................................30
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG.......................................32
CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG..................................................................32
1. Về phía Chính Phủ:...........................................................................................32
2. Về phía Ngân hàng:..........................................................................................34
3. Về phía khách hàng: Phát tín hiệu....................................................................37
KẾT LUẬN.............................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................40
MỞ ĐẦU
Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị


trường, trạng thái mà ở đó thị trường không đạt được sự phân bố có hiệu quả. Ngày
nay, vấn đề thông tin bất cân xứng gần như xuất hiện ở hầu hết các thị trường và
1


mỗi thị trường cần phải có cơ chế đặc thù riêng trong việc xử lý thông tin bất cân
xứng nhằm hạn chế tác động của nó đến hoạt động của các bên tham gia cũng như
hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Ngành tài chính Ngân hàng Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập
mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam đã và đang được đối xử bình đẳng như các ngân hàng trong nước. Theo dự
đoán của các chuyên gia trong ngành, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi
mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh, các ngân hàng Việt Nam sẽ khó tồn tại khi có
sự lấn sân ngày càng sâu của ngân hàng ngoại. Thực tiễn đã cho thấy thất bại của
các ngân hàng Việt Nam trong hoạt động tín dụng gắn chặt với lý do thiếu hiểu biết
về khách hàng. Với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về thực trạng dịch
vụ tín dụng và những khó khăn của ngân hàng Việt Nam để từ đó đưa ra giải pháp
khả thi nhằm phát triển dịch vụ tín dụng một cách hiệu quả nhất, em đã lựa chọn
tiểu luận: “Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngành ngân
hàng tại Việt Nam”.
Do kiến thức còn thiếu, trình độ còn hạn chế nên trong bài viết của em còn
nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý kiến của thầy cô giáo để bài tiểu luận
của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
1.1. Giới thiệu sơ lược lý thuyết về thông tin bất cân xứng

2



Trong hơn hai thập kỷ qua, lý thuyết về các thị trường với thông tin không
cân xứng đã và đang trở thành một lĩnh vực quan trọng và sống động trong nghiên
cứu kinh tế. Ngày nay, các mô hình với thông tin không hoàn hảo là những công cụ
không thể thiếu của các nhà kinh tế. Mô hình này có phạm vi ứng dụng rất rộng rãi,
từ các thị trường nông nghiệp truyền thống ở các nước đang phát triển đến các thị
trường tài chính hiện đại ở các nền kinh tế phát triển. Nền tảng của lý thuyết này
được thiết lập vào những năm 1970 do công lao của ba nhà kinh tế: George
Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz – những người được nhận giải Nobel về
kinh tế năm 2001 nhờ “những phân tích về các thị trường với thông tin cân xứng”.
a. George Akerlof (1970)
Trong quá trình nghiên cứu tình huống mua bán xe Ô tô trên thị trường,
Akerlof cho rằng người bán xe có tính chủ động hơn đối với người mua. Người bán
có thể biết rõ đặc tính của chiếc xe mình muốn bán và muốn bán với giá cao. Người
mua thường là mua được những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong
trường hợp này gọi là sự lựa chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu
và người bán lại không thể bán được do giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
Một phương cách để giảm bớt thông tin bất cân xứng trên thị trường là thông
qua các tổ chức trung gian trên thị trường. Tổ chức trung gian này có thể giới thiệu
rõ hơn thông tin sản phẩm đến với người mua như bảo hành, nhãn mác, thông số kỹ
thuật… chính điều này đã làm cho các bên giao dịch cân bằng hơn về thông tin sản
phẩm, khi đó giao dịch sẽ dễ dàng thực hiện.
b. Michael Spence (1973): Phát tín hiệu
Tiếp tục phát triển lý thuyết của G.A. Akerlof, Spence đã nghiên cứu trên thị
trường Lao động.
M. Spence xem việc thuê lao động là một quyết định đầu tư không chắc
chắn. Tính không chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người chủ không biết
được khả năng đóng góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là bao
3



nhiêu. Vì thế việc thuê lao động có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc
không. Một trong những phương cách giúp người chủ thuê được lao động có năng
lực đó là ông chủ có thể xem qua chất lượng bằng cấp, kinh nghiệm,… của người
lao động. Đó được gọi là những tín hiệu được phát ra của người lao động. Như vậy
việc phát tín hiệu này đã làm giảm thông tin bất cân xứng giữa những người lao
động và ông chủ.
c. Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc
Cơ chế sàng lọc của J. Stiglitz cũng là lý thuyết phát triển lý thuyết của
Michael Spence.
Theo Ông bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như
chất lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao
động cũng có lao động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay
nghề thấp. Vì vậy không thể trả lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến
khích người có khả năng cao, tạo ra năng suất lao động cao thì cần phải trả lương
cao để khuyến khích họ. Đối với người có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được
một mức năng suất sản xuất để nhận được lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với
người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao động để trả lương là việc làm
cần thiết để khuyến khích những người có khả năng nâng cao trình độ và mang lại
hiệu quả cao cho xã hội.
1.2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng
a. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin
hơn một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với
người mua hoặc ngược lại.
b. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn
bên khác thì không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó.

4



c. Thông tin không đối xứng, hay còn gọi là thông tin bất cân xứng là việc
các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy thông tin. Khi đó, giá cả không phải là
giá cân bằng của thị trường mà có thể quá thấp hoặc quá cao.
1.3. Một số ví dụ về thông tin bất cân xứng
Tình trạng thông tin bất cân xứng có thể xảy ra ở một số lĩnh vực như: Ngân
hàng, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đồ cũ, thị trường nhà đất, thị
trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán....
a. Người buôn ngựa mang một con ngựa vừa già vừa xấu ra chợ. Bỏ một con
lươn còn sống vào trong cổ họng của nó. Con ngựa sẽ thể hiện sự tràn đầy sức
sống... Đó là những thủ đoạn lừa gạt.
b. Thị trường chứng khoán có những hiện tượng bất cân xứng thông tin như:
- Doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi...
- Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu
tư:ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức
mà không công bố rộng rãi.
- Doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản
xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán.
- Có sự rò rỉ thông tin nội gián chưa hoặc không được phép công khai.
- Một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp.
- Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài
chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác...
1.4. Hệ quả của thông tin bất cân xứng
Ba dạng thất bại của thị trường được nhắc đến là: Các ngoại ứng
(Externalities), hàng hóa công cộng (Public good), thông tin không đối xứng
(Asymmetric Information). Nghĩa là nó đem lại tổn thất vô ích hay phúc lợi xã hội
không lớn nhất, khi đó, thị trường chỉ có hàng xấu hoặc không tồn tại.

5



Thông tin bất cân xứng là một thất bại của thị trường vì nó gây ra: sự lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.
a. Sự lựa chọn bất lợi (sự lựa chọn ngược) - Adverse Selection - AS
a.1. Khái niệm:
- Lựa chọn bất lợi là hậu quả của thông tin bất cân xứng trước khi giao dịch
xảy ra.
- Lựa chọn bất lợi (lựa chọn ngược, lựa chọn đối nghịch, lựa chọn trái ý) là
một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng,
người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt.
- Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi
thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng.
a.2. Ví dụ:
- Trong ngành bảo hiểm:
Bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao cho khách
hàng ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn so
với người mua bảo hiểm.
Nếu người mua bảo hiểm biết rõ về vấn đề cần bảo hiểm cung cấp những
thông tin không trung thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ ký hợp đồng trả tiền cao
cho đối tượng bảo hiểm nhiều nguy cơ.
Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình trạng sức
khỏe tồi (ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức
khỏe tốt, dẫn tới công ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho
một người sắp chết.
Hậu quả là: khách hàng có mức độ rủi ro cao được lợi.
- Trong giao dịch bất động sản:
Bên bán là bên có ưu thế thông tin về một lô đất hay ngôi nhà (gặp những
điều kiện không tốt như: trong diện giải tỏa, hay ở nơi dễ ngập lụt, v.v…) còn bên
6



mua có nhu cầu mua đất nhưng không đủ khả năng tìm hiểu về các thông tin liên
quan là bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi khi mua
phải đất hay nhà không tốt.
- Trong thị trường lao động:
Người xin việc là người biết rõ năng lực của mình. Trong khi người sử dụng
lao động không biết được thực sự năng lực của người xin việc: họ có chất lượng
cao hay thấp? Do đó, người lao động trình độ thấp có thể cung cấp thông tin không
chính xác về mình, kết quả là họ được nhận làm việc với mức lương trung bình.
- Trong lĩnh vực ngân hàng:
Những người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc
tìm kiếm khoản vay. Như vậy những người có nhiều khả năng đem lại kết quả
không mong muốn lại là những người mong muốn trở thành một bên trong giao
dịch. Ví dụ, những người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là những người
hăm hở chấp nhận khoản vay, bởi vì họ biết rõ rằng khả năng trả lại khoản vay là
khó hoặc không xảy ra. Ngân hàng là người không có thông tin đầy đủ về khách
hàng, không biết rõ về khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó, sự lựa chọn đối
nghịch có thể xảy ra làm tăng khả năng khoản tín dụng sẽ được cấp cho người có
rủi ro cao, ngược lại, người cho vay có thể từ chối bất kỳ khoản tín dụng nào cho
những người đáng tin cậy trên thị trường.
- Trong giao dịch chứng khoán:
Một số nhà đầu tư không biết rõ về tình hình hoạt động kinh doanh của công
ty: công ty hoạt động có hiệu quả hay không? Công ty biết rõ về tình hình kinh
doanh của mình, nếu họ cung cấp thông tin không chính xác, nhà đầu tư có thể lựa
chọn mua cổ phiếu (hoặc trái phiếu) của công ty này. Kết quả là chỉ có công ty hoạt
động kém bán được cổ phiếu, thị trường cổ phiếu trở nên kém hiệu quả.
- Thị trường những quả chanh là ví dụ điển hình về sự lựa chọn bất lợi.
a.3. Phân tích thị trường những quả chanh:
7



G.A. Akerlof nghiên cứu thị trường xe hơi cũ. Ông giả định rằng: trên thị
trường xe hơi cũ chỉ có xe tốt và xe xấu. Nếu xác suất để mua xe tốt là q thì xác
suất mua xe xấu là (1-q).
Khi đó mức giá trung bình (P) được giả định mua xe là: P = P1*q + P2*(1q).
Trong đó: P1 là giá xe tốt; P2 là giá xe xấu.
Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng xem mức giá của các loại xe tốt
hay xấu là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ có thể
mua xe (bất kể tốt hay xấu) tại mức giá trung bình trên thị trường. Nghĩa là họ đánh
giá cao hơn giá xe xấu và đánh giá thấp hơn giá xe tốt.
Thực tế, đối với xe tốt thì giá cao hơn mức giá trung bình. Rõ ràng, người
bán hàng luôn luôn hiểu rõ hơn về chiếc xe của mình so với khách hàng tiềm năng
– anh ta đã bị khổ sở vì hỏng hóc, thay bộ lọc, sửa chữa xe.
Nếu người bán bán xe tốt với mức giá trung bình thì họ sẽ thua lỗ, trong khi
bán xe xấu với giá trung bình thì họ sẽ có lợi nhuận cao hơn. Vì thế tại mức giá
trung bình đó chỉ có những xe xấu được giao dịch.
Khi đó xác suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như vậy người mua thường
là mua được những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này gọi
là sự lựa chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại
không thể bán được do giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
G.A. Alkerlof đã gọi đó là "thị trường của những quả chanh"- “a lemon” –
một từ thông dụng dùng để chỉ một chiếc xe cũ có khuyết tật – đây là một cách nói
ẩn dụ phổ biến trong từ vựng của các nhà kinh tế với một lý do rằng nhìn bề ngoài
chiếc xe hơi cũ người mua không thể biết nhiều về chất lượng của nó so với người
bán. Điều này cũng tương tự như khi ta quan sát một quả chanh, chúng ta nhìn cái
vỏ xanh đẹp mà không biết liệu bên trong nó sẽ thế nào.
Từ đó có thể thấy hậu quả của sự lựa chọn bất lợi:
8


- Chất lượng xe tham gia thị trường ngày càng giảm và giá ngày càng giảm.

- Thị trường chỉ còn lại xe xấu.
- Hàng tốt bị hàng xấu đẩy ra khỏi thị trường.
- Thị trường xe cũ có nguy cơ biến mất.
b. Rủi ro đạo đức (Tâm lý ỷ lại) - moral hazard:
b.1. Khái niệm:
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng sau khi giao dịch đã
xảy ra.
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ
một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, nghĩa là họ
thực hiện những hành vi che đậy.
Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại là tình trạng cá nhân hay tổ chức không còn
động cơ để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao dịch xảy ra.
b.2. Ví dụ:
Rủi ro đạo đức được các nhà kinh tế học nhìn thấy trong rất nhiều tình
huống.
- Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của chính phủ có thể dẫn tới
các rủi ro đạo đức ở chủ thể kinh tế được chính phủ ủy thác thực hiện các nhiệm vụ
chi ngân sách, đó là việc các chủ thể này sử dụng lãng phí ngân sách.
- Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của bên cung cấp dịch vụ
bảo hiểm có thể dẫn tới rủi ro đạo đức ở bên được bảo hiểm, đó là việc họ thay đổi
hành vi của mình khác đi so với hình vi mà bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhận
thức được khi ký hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn, trở nên thiếu ý thức giữ gìn sức
khỏe khi có bảo hiểm y tế, hay cố ý phá hoại xe ô tô để được nhận bảo hiểm ô tô,
hay tự làm cháy nhà để được nhận bảo hiểm hỏa hoạn, hay thậm chí giết người thân
để được nhận bảo hiểm nhân thọ.

9


- Thị trường lao động: Người lao động không cố gắng khi đã được tuyển

dụng chính thức hay được đề bạt.
- Rủi ro đạo đức trong hợp đồng vốn: vấn đề ủy thác - đại lý.
b.3. Phân tích vấn đề ủy thác – đại lý:
Hợp đồng vốn (Equity Contracts), ví dụ cổ phiếu thường, là quyền được chia
lợi nhuận và tài sản của công ty. Hợp đồng vốn chứa đựng rủi ro đạo đức, được thể
hiện bởi vấn đề “ủy thác – đại lý”. Trong khi những nhà quản lý là những đại lý
nhỏ chỉ nắm giữ một tỷ lệ nhỏ, các cổ động còn lại là những người ủy thác nắm giữ
chủ yếu vốn cổ phần của công ty. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý
công ty làm phát sinh rủi ro đạo đức. Nhà quản lý công ty có thiên hướng hành
động có lợi cho riêng mình hơn là vì quyền lợi của các cổ đông còn lại, bởi vì nhà
quản lý không có động lực nhằm tối đa hóa lợi nhuận công ty như các cổ đông
mong muốn.
Tình huống đưa ra: Ông A mời bạn cộng tác đầu tư để mở một cửa hàng bán
kem. Để mở được cửa hàng cần 100 triệu đồng, ông A bỏ ra 10 triệu đồng còn lại
90 triệu đồng được bạn mua hết dưới dạng cổ phiếu. Như vậy bạn sở hữu công ty là
90%, ông A sở hữu 10%. Ông A làm quản lý cửa hàng. Lúc này, bạn không có đầy
đủ thông tin về những việc ông A làm, trong khi ông A lại có nhiều thông tin hơn
bạn về việc quản lý cửa hàng của mình. Có 2 trường hợp có thể xảy ra:
- Nếu ông A làm ăn chăm chỉ, cửa hàng có nhiều khách đến ăn. Sau khi trừ
các khoản chi phí, cửa hàng có lãi 50 triệu đồng, thì bạn nhận được 45 triệu và ông
A là 5 triệu.
- Tuy nhiên, nếu ông A cho rằng 5 triệu đồng là phần thưởng không xứng
đáng với nỗ lực của mình để trở thành một người quản lý giỏi, mà phải là 10 triệu
đồng, thì ông sẽ không còn động cơ muốn trở thành người quản lý giỏi nữa. Vì số
tiền thu được của cửa hàng kem là tiền mặt, do đó, ông A có thể sử dụng toàn bộ 50
triệu đồng để mua sắm cho văn phòng của mình, hoặc trốn đi du lịch, không tiếp
10


tục sản xuất những thứ kem ngon miệng nữa. Điều đó làm cửa hàng không sinh lời

được như trước nữa, bạn sẽ mất 45 triệu đồng (so với phương án ông A làm ăn
chăm chỉ). Hoặc ông A sẽ biển thủ toàn bộ 50 triệu đồng, và nói với bạn cửa hàng
làm ăn không có lãi, lúc đó, bạn sẽ trắng tay.
1.5. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng
a. Giải pháp lý thuyết:
Trong nhiều lĩnh vực tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng thì giải pháp
chung thường được sử dụng để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là: Cơ chế
phát tín hiệu, Cơ chế sàng lọc, Cơ chế giám sát.
- Cơ chế phát tín hiệu: Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu
(signaling):
Bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một
cách trung thực và tin cậy.
Spence đã đặt câu hỏi là làm thế nào mà các cá nhân có được thông tin tốt
hơn về một thị trường nào đó lại có thể truyền, “phát tín hiệu” những thông tin này
có một cách đáng tin cậy cho những cá nhân được thông tin kém hơn, nhằm tránh
được những vấn đề liên quan đến sự lựa chọn ngược. Việc phát tín hiệu này đòi hỏi
các tác nhân kinh tế phải có những công cụ có thể quan sát được và tốn kém nhằm
làm cho các tác nhân khác tin vào khả năng của họ, hoặc một cách tổng quát hơn là
về giá trị hoặc chất lượng sản phẩm của họ.
Như vậy, với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất lượng
cao phải sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa
chất lượng thấp.
Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán là những ứng cử viên
đi xin việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp
quan sát các khả năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua
bằng cấp của họ. Nếu những người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ
11


lực hơn những người có năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những

người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà
người kém năng lực không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các
chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc
chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương trường.
- Cơ chế sàng lọc:
Stiglitz đặt ra vấn đề là bản thân những người có ít thông tin hơn cũng có thể
tự cải thiện tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening).
Bên có ít thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra
các điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau.
Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp những loại hợp
đồng bảo hiểm với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức bồi
thường khác nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp
với mình, do đó tự phân hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách
hàng có rủi ro thấp thường thích loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi
khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao.
- Cơ chế giám sát:
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế
bao gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp:
* Giám sát trực tiếp: bên ít thông tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được
kiểm soát thông tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng
giám sát của họ muốn giám sát đối phương sẽ bị hạn chế.
* Giám sát gián tiếp: như giám sát thị trường…
b. Giải pháp thực tế:
Đối với mỗi thị trường có những biện pháp khác nhau để hạn chế tình trạng
thông tin bất cân xúng như:
Thị trường đồ cũ:
12


- Người mua thu thập thông tin: thuê chuyên gia, hỏi người mua trước hoặc

chạy thử, mua thông tin.
- Người bán phát tín hiệu chứng minh uy tín của cửa hàng thông qua danh
tiếng, thương hiệu, cấp giấy bảo hành…
Thị trường lao động:
- Người xin việc phát tín hiệu: trưng bằng cấp, đòi mức lương cao
- Nhà tuyển dụng: phỏng vấn, đề ra thời gian thử việc
Thị trường bảo hiểm:
- Công ty bảo hiểm yêu cầu khám sức khỏe trước khi ký hợp đồng bảo hiểm.
- Chỉ định phòng khám đối với hợp đồng lớn.
- Không chi trả bảo hiểm toàn phần (đồng chi trả).
- Giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký các chương trình phòng
chống bệnh tật hoặc không hút thuốc.
Trướccủa
khichính phủ:
Giải pháp

Sau khi ký
ký hợp
hợp đồng
- Cấp giấy
phép
chứng
nhận
(trước
hoạt
động):
Chứng
nhận tư cách pháp
đồng


nhân, Chứng nhận chất lượng sản phẩm.

Thông tin bất cân

- Kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình
xứng hoạt động): Kiểm tra an toàn vệ sinh
thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông, Kiểm tra, đối chiếu thực tế
và tiêu chuẩn đăng ký.
- Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
- Cung cấp thông tin: Về quy hoạch, Về dịch bệnh, Về nhà đầu tư, Dự báo về
Thông tin che đậy

cung cầu thị trường trong nước và quốc tế.

Hành vi che đậy

- Thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử
phạt.
Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng.
Sự lựa chọn bất lợi

Rủi ro đạo đức

13

Sàng lọc

Phát tín hiệu

Cơ chế Giám sát



2. TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Khái niệm tín dụng
- Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi
vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay)
chu cấp tiền hay hàng hóa dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên
kia (người đi vay).
Tập trung lại tín dụng có nghĩa là: sự chuyển nhượng quyền sử dụng một
lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất
định từ người sở hữu sang người sử dụng, và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn

14


trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn, khoản giá trị dôi ra này được
gọi là lợi tức tín dụng.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ sau:
(1) Cho vay
Người cho vay
(Người sở hữu vốn)

Người đi vay
(Người sử dụng vốn)

(2) Trả nợ
Dựa vào chủ thể trong quan hệ tín dụng được chia thành 3 hình thức tín dụng
sau:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực

hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhập hàng hóa.
- Tín dụng Nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa nhà
nước với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội... Nhà nước vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.
- Tín dụng ngân hàng: là tín dụng giữa ngân hàng và các cá nhân, tổ chức xã
hội...
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, chiếm
tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt
động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho
khách hàng.
2.2. Tín dụng Ngân hàng
a. Khái niệm:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và bên
kia là các tác nhân (doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội..) trong nền kinh tế quốc
dân.
Trong hình thức này, Ngân hàng xuất hiện với vai trò vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.

15


b. Đặc điểm:
Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm sau:
- Huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ:
Tất cả những nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân được
Ngân hàng huy động để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn đã
có, Ngân hàng cho vay đối với các tác nhân cần vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc
tiêu dùng. Cả hai mặt hoạt động huy động cốn và cho vay đều được thực hiện chủ
yếu dưới hình thức tiền tệ. Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng
nhu cầu tín dụng cho mọi khách hàng.

- Các Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tín dụng:
Khi huy động vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng sử dụng nhiều hình thức thu
hút tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, phát hành các loại giấy nhận nợ (kỳ phiếu,
trái phiếu, chứng chỉ...) ngắn hạn cũng như trung và dài hạn, vay trên thị trường
liên ngân hàng, ký kết các hiệp định vay nợ.v.v...
Khi cho vay, Ngân hàng chủ yếu sử dụng các hình thức cấp tín dụng theo tài
khoản cho vay, gửi vốn tại các Ngân hàng khác, đầu tư... để đáp ứng nhu cầu vay
vốn của khách hàng.
Như vậy, Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian, đi vay để cho vay.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng Ngân hàng độc lập tương
đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Vốn tín dụng Ngân hàng là một Ngân hàng bộ phận không thể thiếu được
của quá trình tái sản xuất xã hội. Khối lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông tăng
16


lên thì nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng lên. Trường hợp này vồn tín dụng
Ngân hàng vận động phù hợp với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản
xuất xã hội. Nhưng trong nhiều trường hợp, vốn tín dụng Ngân hàng không tham
gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, mà chúng được sử dụng vào
những mục đích phi sản xuất như: Chiết khấu hoặc cầm cố các thương phiếu
“khống”, trái phiếu của Chính phủ. Cũng có thể vốn tín dụng Ngân hàng được sử
dụng vào những vụ “áp phe” chứng khoán hoặc sai mục đích, thiếu đảm bảo, không
có hiệu quả kinh tế.
Những trường hợp trên mặc dù nhu cầu tín dụng Ngân hàng có gia tăng,
nhưng sản xuất và lưu thông hàng hóa không tăng. Trường hợp khác, hiện tượng
ngược lại có thể xảy ra, đó là trong thời ký hưng thịnh các doanh nghiệp mở mang
sản xuất kinh doanh, khối lượng hàng hóa sản xuất càng luân chuyển lớn, nhưng tín
dụng Ngân hàng lại không đáp ứng kịp. Những mâu thuẫn này thường xuyên diễn
ra đó là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường.

Huy động vốn và cho vay của Ngân hàng chủ yếu được thực hiện bằng một
số tiền nhất định. Có nghĩa là tiền ở đây là công cụ thực hiện quan hệ tín dụng, đó
là tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông tín dụng. Tiền tín dụng có những
đặc điểm là lưu thông vô thời hạn, lưu thông bắt buộc và thống nhất trên toàn lãnh
thổ.
Tuy sử dụng chung một công cụ là tiền nhưng huy động vốn và cho vay của
Ngân hàng có tính chất không giống nhau. Còn trong cho vay, giữa Ngân hàng và
khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng để thực hiện các khoản cho vay.
So với tín dụng thương mại và các hình thức tín dụng khác trong nền kinh tế
thị trường, tín dụng ngân hàng có nhiều đặc điểm nổi bật, đó là:
Thứ nhất, khối lượng tín dụng lớn. Cả hai mặt huy động vốn và cho vay đều
có thể đạt được với một khối lượng vốn lớn. Do đó, tín dụng Ngân hàng có thể thỏa
mãn một cách tối đa nhu cầu vốn của các tác nhân trong nền kinh tế. Khác với tín
17


dụng thương mại, nguồn vốn cho vay Ngân hàng hoàng hóa bán chịu, chỉ bó hẹp
trong số lượng hàng hóa mà doanh nghiệp tự sản xuất ra. Do vậy không thể thỏa
mãn được nhu cầu vốn vay của người đi vay.
Thứ hại, thời hạn tín dụng đa dạng. Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn
vốn và thực hiện các khoản cho vay có thời hạn phong phú, đa dạng. Có nghĩa là có
thể huy động các nguồn vốn và cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Thời hạn
của một khoản tín dụng Ngân hàng tùy thuộc vào thời hạn nhàn rỗi của các nguồn
vốn và nhu cầu xin vay của khách hàng. So với tín dụng thương mại chỉ là bán chịu
hàng hóa với thời hạn ngắn.
Thứ ba, phạm vi hoạt động rộng. Tín dụng Ngân hàng huy động và cho vay
vốn đối với mọi tác nhân và thể nhân. Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ giao
dịch với các doanh nghiệp mà còn với các tác nhân khác thuộc mọi thành phần kinh
tế, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, tín dụng Ngân hàng có được những ưu điểm và được coi là hình

thức tín dụng cơ bản và quan trọng nhất. Bởi lẽ huy động vốn và cho vay bằng tiền
dưới nhiều hình thức khác nhau nên đảm bảo tính linh hoạt. Ngân hàng có chức
năng “tạo tiền” để bổ sung nguồn vốn cho vay. Hệ thống Ngân hàng có mạng lưới
chi nhánh rộng khắp lãnh thổ, thậm chí ngoài lãnh thổ. Tín dụng Ngân hàng còn sử
dụng công cụ lãi suất trong việc điều chỉnh cung cầu tín dụng của nền kinh tế quốc
dân. Do đó tín dụng ngân hàng đảm bảo kịp nhu cầu về vốn cho mọi khách hàng.
2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Việc phân loại tín dụng dựa trên một số tiêu thức nhất định tùy theo yêu cầu
của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân
loại:
a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:

18


Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn, sinh lợi của tín dụng và khả năng hoàn trả của
khách hàng. Có 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng, được sử dụng để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: trên 60 tháng, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc
cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
b. Căn cứ vào hình thức tín dụng:
Dựa vào tiêu chí này tín dụng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê, trong đó:

- Chiếu khấu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng
với giá trị của một giấy nợ trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy
nợ chưa đến hạn.
- Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Cho vay bao gồm các loại sau:
 Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo. Do đó chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu
nhập đều đặn và ổn định.
19


 Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay của ngân hàng đối với
các khách hàng có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mà không có nhu
cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
 Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở
kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
 Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi bán
hàng.
 Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà khách hàng trả gốc làm nhiều
lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
 Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay

nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng, nhằm giảm bớt chi phí và rủi ro.
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Phân theo mục tiêu có các loại bảo lãnh như sau:
 Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu)
về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định
trong hợp đồng dự thầu.
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam
kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
20


 Bảo lãnh tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền
ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không trả.
 Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ
chức tín dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc lãi đúng hạn nếu khách hàng
(người đi vay) không trả được.
 Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền
theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân
hàng không thanh toán đủ.
- Cho thuê: là việc ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn
sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng
lãi (thời hạn khoảng 80-90% đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách
hàng có thể mua lại tài sản đó.
c. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: có 2 loại:
- Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba bằng tài sản. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp
lý để ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không có

hoặc không đủ.
- Tín dụng không bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Loại tín dụng này có thể được cấp cho các khách hàng
có uy tín, kinh doanh thường xuyên có lãi, tình hình tài chính hiệu quả, vững mạnh.
d. Phân loại theo rủi ro:
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn
của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời hiệu quả. Có 2 loại như
sau:
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.

21


- Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, gặp thiên tai, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, trì
hoãn nộp báo cáo tài chính…
Tín dụng có vấn đề được chia làm 2 loại, đó là:
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn

ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn, thanh
khoản cao…
 Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn khá lâu, khả năng trả nợ

kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
2.4. Hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại
Cấp tín dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân
hàng.
Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín
dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có
hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,bảo lãnh

ngân hàng và các nghiệp vụ khác."
Có thể hiểu cấp tín dụng một cách đơn giản là việc ngân hàng cho khách
hàng "vay" một khoản tiền hoặc uy tín của mình trong một khoảng thời gian nhất
định. Sau đó khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả "khoản vay" nêu trên cho ngân hàng
cộng với khoản "lãi" kèm theo.

22


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh
doanh về tiền tệ và tín dụng. Hoạt động kinh doanh cơ bản của các NHTM là các
hoạt động đem lại lợi nhuận cho NHTM bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt
động cho vay và hoạt động kinh doanh dịch vụ khác. Như vậy, NHTM VN “sống”
bằng tín dụng. Khảo sát cho thấy, thu nhập từ tín dụng của các NHTM VN chiếm
trên 80%, ngay cả NHTM lớn, thu nhập từ tín dụng cũng chiếm hơn 90%.

Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2014
Tình hình tăng trưởng tín dụng:
Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay cho khối tư nhân,
cá nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng. Tăng trưởng tín dụng là chỉ tiêu phản ánh
lượng tiền được “bơm” ra lưu thông - một trong những điều kiện quan trọng để
tăng trưởng kinh tế.

23


Biểu đồ: Tình hình tín dụng một số Ngân hàng thương mại các năm từ 2012-2014


Nếu như năm 2014, ngân hàng Á Châu có tổng huy động cao hơn hẳn, thì
trong tăng trưởng tín dụng, ngân hàng Sài Gòn Thương tín lại có dư nợ tín dụng
nhiều hơn, khoảng 156 ngàn tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 136%, cùng tốc độ tăng
trưởng đó là ngân hàng Kỹ thương với dư nợ tín dụng hơn 90 ngàn tỷ đồng. Tốc độ
tăng trưởng tín dụng cao nhất vẫn là ngân hàng An Bình, 506%.
2. Nguyên nhân các Ngân hàng thương mại phải xử lý vấn đề thông tin bất cân
xứng
a. Nợ xấu: Nợ xấu là một trong những vấn đề luôn làm đau đầu các nhà
quản trị Ngân hàng. Theo tiêu chuẩn quốc tế, “nợ xấu” là những khoản nợ quá hạn
90 ngày mà không đòi được và không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao
24


gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ
án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu là khoản nợ có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày.
Nợ xấu có thể chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có: nợ tồn đọng ngân hàng đã thu
giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; nợ tồn đọng ngân hàng chưa thu giữ tài sản
như nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn
trên 360 ngày.
Nhóm 2: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu,
gồm có: nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh
doanh nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ

khoanh do thiên tai của hộ sản xuất…
Nhóm 3: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại,
đang hoạt động, gồm có: nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính
sách còn khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.
Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ
không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xoá.
b. Tình hình nợ xấu:
Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, đến cuối năm
2012, tỷ lệ nợ xấu (quá hạn) của các ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm 4,47%
tương đương với 117.723 tỷ VNĐ. Nhưng theo số liệu của Cơ quan giám sát ngân
hàng thì tỷ lệ nợ xấu có khi lên đến 8,6%. Và bất ngờ hơn cả là số liệu của Fitch
25


×