Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

CÁC CÔNG cụ KIỂM SOÁT ô NHIỄM nước và QUẢN lý TỔNG hợp tài NGUYÊN nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.19 KB, 29 trang )

CÁC CÔNG CỤ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NƯỚC VÀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP
TÀI NGUYÊN NƯỚC
PGS.TS Trần Đức Hạ
Trường Đại học Xây dựng
1. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
1.1. Các đặc trưng cơ bản của tài nguyên nước và chiến lược quản lý tổng hợp tài
nguyên nước
1.1.1. Các đặc trưng cơ bản của tài nguyên nước
Nước là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên trái đất và
cần thiết cho các hoạt động kinh tế - xã hội cuả loài người. Cùng với các dạng tài nguyên thiên
nhiên khác, tài nguyên nước là một trong 4 nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế – xã hội, là đối
tượng lao động và là một yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Mặc dù lượng nước trên trái đất là khổng lồ (1.454.703. 200 km 3), song lượng nước ngọt
cho phép con người sử dụng chỉ chiếm một phần rất nhỏ ( dưới 1/100.000). Hơn nữa sự phân bố
nguồn nước ngọt lại không đều theo không gian và thời gian càng khiến cho nước trở thành một
dạng tài nguyên đặc biệt, cần phải được bảo vệ và sử dụng hợp lý.
Tài nguyên nước có 4 đặc trưng cơ bản như sau:
• Đặc trưng thứ nhất là sự vận động không ngừng tạo nên vòng tuần hoàn vĩ đại gọi là
chu trình thuỷ văn toàn cầu. Nước ở các trạng thái và khu vực khác nhau của thuỷ quyển đã thông
qua vận động, trao đổi để chuyển hoá cho nhau. Động lực chính của chu trình thuỷ văn toàn cầu
là năng lượng mặt trời. Hàng năm năng lượng do chu trình thuỷ văn tích trữ và phân phối gần
bằng 1/4 tổng năng lượng mặt trời đi tới trái đất. Hàng năm có khoảng 5 triệu km 3 nước bay hơi
từ đất và các thuỷ vực và sau đó lại ngưng tụ và mưa xuống.
• Đặc trưng thứ hai của tài nguyên nước là tính thống nhất các dạng nước. Nhờ sự vận
động, trao đổi và chuyển hoá của tài nguyên nước, các dạng nước khác nhau ở những vùng khác
nhau tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ thuỷ lực chặt chẽ với nhau. Tính thống nhất của tài
nguyên nước thể hiện rõ ở sự trao đổi nước qua chu trình tuần hoàn. Một ví dụ điển hình cho tính
thống nhất này là sự quan hệ qua lại giữa nước mặt và nước ngầm. Vào thời kỳ mưa lũ, mực
nước sông dâng cao tạo thành dòng chảy lũ ở các sông suối, làm tăng áp lực thấm bổ cập nước
cho dòng chảy ngầm. Mực nước ngầm tăng lên. Ngược lại, vào thời kỳ không có mưa, dòng nước
ngầm chảy ra và bổ cập nước cho sông. Hiểu được mối quan hệ qua lại giữa các vực nước, chúng


ta có thể điều chỉnh được vấn đề khai thác, hạn chế được sự cạn kiệt nguồn nước cũng như ngăn
chặn được sự lan truyền ô nhiễm giữa chúng.
• Đặc trưng thứ ba của nguồn nước là nó tồn tại và hoạt động đồng thời dưới dạng tài
nguyên và môi trường. Với vai trò tài nguyên, nước được khai thác triệt để như các loại tài
nguyên thiên nhiên khác cho tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội với nhiều mục tiêu khác nhau.
Bên cạnh đó, nước có mặt và phát triển trên trái đất như một môi trường có tính quyết định đối
với sự sống, bởi nó có quan hệ mật thiết với môi trường thiên nhiên khác như đất, không khí,
thực vật, vi sinh vật ...tạo nên sinh quyển của trái đất. Nước vừa là tài nguyên vật liệu, vừa là vật
mang năng lượng, môi trường trung gian di chuyển vật chất dinh dưỡng (dạng hoà tan, lơ lửng...)
từ lục địa đến đại dương. Nước làm sạch và pha loãng nhiều chất thải tự nhiên và nhân tạo. Nước
rất nhạy cảm với những biến động của môi trường, dễ bị ô nhiễm, suy thoái và cạn kiệt.
1


Đặc trưng thứ tư của tài nguyên nước là sự phân phối và phân bố không đều theo thời gian
và không gian (vùng lãnh thổ). Lượng mưa và hệ quả của nó là dòng chảy phụ thuộc vào nhiều
yếu tố tự nhiên nên chúng biến đổi theo quy luật ngẫu nhiên và điều kiện tự nhiên, trong đó điều
kiện tự nhiên ( vị trí địa lý, địa hình, khí hậu...) quy định tính đặc thù của sự phân bố tài nguyên
nước theo không gian và thời gian ở mức vĩ mô trong chuỗi nhiều năm: vùng ẩm ướt, vùng khô
hạn, vùng chuyển tiếp hoặc mùa mưa, mùa khô. Mặt khác sự biến đổi ngẫu nhiên của các yếu tố
khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm, áp suất khí quyển, độ bức xạ... là nguyên nhân của sự phân phối
không đều tài nguyên nước theo không gian và thời gian ở mức vi mô, cụ thể đối với từng thời
đoạn (mùa, năm). Sự biến đổi ngẫu nhiên của tài nguyên nước là khó khăn trở ngại lớn nhất đối
với việc khai thác sử dụng nước, là nguồn gốc gây ra các hiện tượng bất lợi như lũ lụt, hạn hán,
kéo theo đó là xói mòn, bạc màu, chua mặn... Do sự biến đổi ngẫu nhiên của tài nguyên nước
cho nên khi lập các dự án thuỷ lợi, người ta phải sử dụng các khái niệm tần suất đảm bảo để tính
toán và lựa chọn các thông số thuỷ văn ( Ví dụ Q và P – lưu lượng và tần suất, %, để xuất hiện
lưu lượng với giá trị Q đó ).
Do có ý nghĩa quan trọng và 4 đặc trưng cơ bản như vậy, tài nguyên nước đang đứng trước
nguy cơ bị ô nhiễm, suy thoái và cạn kiệt. Nó là nguyên nhân của nhiều sự tranh chấp trên thế

giới và những biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Trong bối cảnh dân số sẽ tăng trong tương lai, cùng
với mức tăng chung về yêu cầu đơn vị do tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện sống, áp lực
trên toàn cầu đối với tài nguyên nước vẫn tiếp tục tăng lên.
1.1.2. Các xung đột trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước
Các hoạt động có liên quan đến nước thường thuộc các ngành cụ thể ( cấp thoát nước, nông
nghiệp và tưới tiêu, thuỷ điện và công nghiệp, thuỷ sản, vui chơi giải trí...) và được quản lý bởi
các thể chế theo ngành, chịu tác động của các mục tiêu và quyền lợi cụ thể. Kết quả là việc quản
lý tài nguyên nước với tư cách là nguồn tài nguyên có hạn và có thể tái tạo được thường có
khuynh hướng bị lấn át bởi quyền lợi ngành. Thông thường xung đột sẽ nảy sinh do sự kết hợp
tình trạng khan hiếm nước với mối quan hệ bất bình đẳng về quyền lực giữa các nhóm sử dụng
nước mà những nhóm này thường không giải quyết được những vấn đề nói trên trong khuôn khổ
cơ cấu xã hội, kinh tế và thể chế hiện hành. Trong mỗi quốc gia, khan hiếm nước thường mang
tính địa phương. Các xung đột về tài nguyên nước phổ biến nhất là:
• Xung đột giữa cùng một loại đối tượng sử dụng nước ở cùng địa phương;
• Xung đột giữa cùng một loại đối tượng sử dụng nước ở cùng địa phương;
• Xung đột giữa các địa phương khác nhau (các đối tượng sử dụng nước ở thượng lưu và
hạ lưu);
• Xung đột giữa đô thị và nông thôn;
• Xung đột giữa các nhóm có quyền lợi khác nhau trong chính quyền.
Vì nhiều ngành khác nhau cần sử dụng nước, việc quản lý nguồn tài nguyên này cần phải
có sự phối hợp và điều tiết các yêu cầu xuất phát từ các quyền lợi mâu thuẫn với nhau. Việc quản
lý tổng hợp và có hiệu quả tài nguyên nước không thể tiến hành trong nội bộ những biên giới
hành chính của mỗi ngành, mà phải được xử lý như một vấn đề liên ngành. Trong trường hợp có
những ngành mạnh cũng như những quyền lợi kinh tế có liên quan, quản lý tổng hợp tài nguyên
nước thường trở thành vấn đề mang rất nhiều tính chất chính trị.
1.1.3. Các nguyên tắc Dublin về nước và môi trường

2



Phản ứng lại tình hình không khả quan về nguồn nước ngọt, cộng đồng thế giới đã huy
động các nước nhằm đưa ra một loạt các mục tiêu và nguyên tắc để bảo đảm sự kết hợp trên quy
mô thế giới các sáng kiến trong lĩnh vực nước. Tháng 1 năm 1992, hội nghị quốc tế ở Dublin về
nước và môi trường đã cho ra một bản tuyên bố trong viễn cảnh một sự phát triển bền vững. Nó
gồm 4 nguyên tắc chỉ đạo lớn, đó là:
-Nguyên tắc 1: Nước ngọt là tài nguyên hạn chế và dễ suy thoái, tối cần thiết cho sự sống,
phát triển và môi trường. Vì nước là cần thiết cho cuộc sống, nên việc quản lý tốt các nguồn
nước đòi hỏi một tiếp cận tổng thể nhằm phối hợp sự phát triển kinh tế – xã hội với việc bảo vệ
các hệ sinh thái tự nhiên. Một sự quản lý hiệu quả đạt được khi sử dụng tổng thể và hài hoà đất và
lưu vực nước mặt hoặc nước ngầm.
-Nguyên tắc 2: Quản lý và phát triển nguồn nước cần dựa trên cách tiếp cận cùng tham
gia của người dùng nước, người lập kế hoạch và quyết định chính sách ở mọi cấp. Để làm được
việc này, các nhà hoạch định chính sách cũng như toàn bộ dân chúng cần phải ý thức được tầm
quan trọng cuả nguồn nước. Các quyết định phải được lựa chọn ở cấp có thẩm quyền thấp nhất,
thống nhất với ý kiến quần chúng và bằng liên kết các người sử dụng vào việc kế hoạch hoá và
thực hiện các dự án về nước.
-Nguyên tắc 3: Phụ nữ có vai trò trung tâm trong cấp nước, quản lý và bảo vệ nguồn
nước. Sự thiết lập thể chế liên quan đến khai thác và quản lý nước thường rất ít khi quan tâm đến
vai trò trung tâm của phụ nữ, những người sử dụng nước và bảo vệ môi trường sống. Việc thông
qua và áp dụng nguyên tắc này đòi hỏi người ta phải quan tâm hơn nữa đến các nhu cầu đặc biệt
của phụ nữ và cần thiết phải cho phụ nữ các phương tiện và cơ hội tham gia chương trình nước
ở mọi cấp, kể cả việc đề xuất và thực hiện các quyết định về chính sách nước.
-Nguyên tắc 4: Nước có giá trị kinh tế trong mọi dạng sử dụng cạnh tranh và phải được
coi như hàng hoá. Theo tinh thần của nguyên tắc này, đầu tiên là phải công nhận quyền cơ bản
của con người là có được một dịch vụ cung cấp nước và vệ sinh thích ứng với giá hợp lý. Giá trị
kinh tế của nước từ lâu nay đã không được biết đến. Điều đó dẫn đến việc lãng phí nguồn tài
nguyên này và khai thác nó một cách bừa bãi mà không đề cập đến vấn đề môi trường. Coi nước
như một hàng hoá kinh tế nên phải quản lý, sử dụng và bảo vệ nó có hiệu quả.
Hội nghị thượng đỉnh Rio de Janeiro cuối năm 1992 đã thông qua 4 nguyên tắc Dublin về
nước và môi trường .

Trên cơ sở 4 nguyên tắc Dublin về nước và môi trường, khái niệm về quản lý tổng hợp
tài nguyên nước (Integrated Water Resources Management – IWRM) được hình thành. Tháng 3
năm 2003, diễn đàn Nước thế giới lần thứ 3 ở Kyoto ( Nhật bản) đã nhấn mạnh 3 chiến lược
trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước là quản lý điều hành, tăng cường năng lực và tài chính.
Theo định nghĩa của Mạng lưới cộng tác vì nước toàn cầu (Global Water Partnership –
GWP), 2000, quản lý tổng hợp tài nguyên nước là một quá trình đẩy mạnh phối hợp phát triển
và quản lý nguồn nước, đất đai và tài nguyên liên quan, để tối đa hoá lợi ích kinh tế và phúc lợi
xã hội một cách công bằng mà không phương hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái thiết
yếu. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước chính là sự khai thác và sử dụng nguồn nước như thế nào
để đảm bảo cho hệ thống kinh tế nước phát triển bền vững. Theo cách hiểu truyền thống, quản lý
tổng hợp tài nguyên nước là sự quản lý hiệu ích tổng hợp đa ngành. Với cách hiểu mới hơn: quản
lý tổng hợp tài nguyên nước là sự tổng hợp của hệ thống tự nhiên và hệ thống con người. Giữa
khai thác sử dụng nước với bảo vệ nguồn nước có quan hệ thống nhất với nhau trên cơ sở nhu
cầu sử dụng nước trong hệ thống kinh tế nước và tiềm năng của nguồn nước. Mối quan hệ này
được thể hiện trên Hình 1.
3


Nhu cầu sử dụng nước

Tiềm năng (trữ lượng và chất
lượng) nguồn nước

Khai thác và sử
dụng nước

Bảo vệ nguồn
nước

Hình 1. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước

Nguồn:
1.1.4. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông
Lưu vực sông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của một khu vực,
một quốc gia hoặc liên quốc gia. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước của một lưu vực sông là một
cách tiếp cận mới nhằm giúp giải quyết các vấn đề lớn về tài nguyên và môi trường nước đang
gặp phải tại nhiều quốc gia, đảm bảo sử dụng có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên vô giá
này. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước các lưu vực sông có một số tiêu chuẩn cơ bản sau đây
(Nguồn):
a.Thống nhất và tổng hợp theo ngành và tiểu ngành. Quản lý thống nhất và tổng hợp tài
nguyên nước theo ngành và tiểu ngành nhằm vào công tác quy hoạch và quản lý tài nguyên nước
có tính đến sự cạnh tranh và mâu thuẫn trong việc sử dụng nước của tất cả các ngành như nông
nghiệp, thuỷ điện, cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp, giao thông vận tải thuỷ... Quy hoạch
thống nhất và tổng hợp tài nguyên nước theo tiêu chuẩn này sẽ dẫn đến việc xây dựng các hồ
chứa đa mục tiêu, vấn đề phân phối nước, hệ thống cấp giấy phép và sử dụng sông cho các hoạt
động giao thông vận tải thuỷ và cho các mục đích sử dụng nước khác.
b.Thống nhất và tổng hợp về môi trường, kinh tế và xã hội. Đây là việc đưa ra các quyết
định không chỉ dựa trên các yếu tố về mặt tài chính , chi phí và lợi ích của công tác quản lý
nguồn nước mà còn phải tính đến cả chi phí về mặt môi trường và xã hội. ở hầu hết các nước,
tiêu chuẩn này được lồng ghép vào trong các văn bản pháp quy về môi trường, đặc biệt là các yêu
cầu về đánh giá tác động môi trường và kinh tế xã hội đối với các dự án mới và đối với những
thay đổi lớn liên quan đến chế độ quản lý nguồn nước hiện hành.
c.Thống nhất và tổng hợp về mặt hành chính. Tiêu chuẩn này liên quan đến sự điều phối
các nhiệm vụ và hoạt động quản lý nguồn nước ở tất cả các cấp chính quyền, bao gồm từ trung
ương, tỉnh đến chính quyền địa phương các cấp. Trước đây, yếu tố này thường bị xem nhẹ nên
4


thiếu đi tính tổng hợp về mặt hành chính và do đó dẫn đến việc quản lý tài nguyên nước nói riêng
và tài nguyên thiên nhiên nói chung không đạt hiệu quả cao.
d.Thống nhất và tổng hợp về mặt địa lý. Tiêu chuẩn này chỉ ra việc sử dụng các ranh giới

thuỷ văn (lưu vực sông) mà không phải là ranh giới hành chính làm đơn vị cơ bản của tổ chức
quản lý nguồn nước. Yếu tố địa lý cũng có nghĩa là xem xét bản thân các lưu vực, các tác động
qua lại giữa việc sử dụng đất và nước trong các lưu vực sông, suối, hồ khi ra các quyết định về
phát triển và quản lý các tài nguyên thiên nhiên.
e.Thống nhất và tổng hợp về mặt tài trợ. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt
nam, yếu tố tổng hợp về mặt tài trợ, tức là sự phối hợp hiệu quả giữa nhiều cơ quan tài trợ nước
ngoài trong phát triển và thực hiện các dự án.
Các mối quan hệ cơ bản trong việc quản lý thống nhất tài nguyên nước theo lưu vực sông được
thể hiện theo sơ đồ Hình 2.
dụng
Các hoạt động phát triển Khai thác và sử tài
kinh tế - xã hội trên lưu vực:
nguyên
-Đô thị hoá
nước và
tài
-Công nghiệp hoá
nguyên
-Nông nghiệp
-Giao thông vận tải
Chất thải và nguy cơ
-Thuỷ lợi, thuỷ điện
gây ô nhiễm môi
-Khai thác các dạng tài
trường nước
nguyên khác

Mâu thuẫn cạnh tranh
giữa các địa phương,
các ngành


Phát triển bền vững lưu vực

Tài nguyên nước (TNN)
lưu vực sông:
-Chất lượng nươc
-Các hệ sinh thái nước
-Đa dạng sinh học
-Các hồ chứa
-Các dạng tài nguyên khác

áp lực ô nhiễm nguồn nước
và suy giảm tính đa dạng
sinh học

Quản lý tổng hợp lưu
vực sông

Khai thác, sử dụng hiệu quả và
hợp lý nhằm bảo vệ tài nguyên
nước

Hình 2. Các mối quan hệ trong quản lý thống nhất tài nguyên nước lưu vực song
Nguồn:
Quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông được xác định là một quá trình quy
hoạch, xây dựng và thực hiện việc khai thác các dạng tài nguyên trong một lưu vực, xem xét
toàn diện và đầy đủ các nhân tố có liên quan đến xã hội, kinh tế, môi trường trong mối tương
tác về không gian (giữa các bộ phận trong lưu vực: thượng lưu, trung lưu và hạ lưu), tương tác
giữa các nhân tố ( chống xói mòn, rửa trôi, làm thoái hoá đất, giảm sức sinh sản của rừng và đất
nông nghiệp, ngăn chặn bồi lắng, lũ đá, chống nhiễm bẩn nước...). Hình thành các tổ chức lưu

vực sông được coi như một phương tiện hữu hiệu để quy hoạch và thực hiện các nội dung phát
triển kinh tế và xã hội.

5


Quy hoạch lưu vực sông phải bảo đảm yêu cầu sử dụng tổng hợp nguồn nước, đáp ứng
các yêu cầu về cấp nước cho sinh hoạt, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, khai khoáng, phát điện, giao thông thuỷ, nuôi trồng thuỷ, hải sản, sản xuất muối, thể thao,
giải trí, du lịch, y tế, an dưỡng, nghiên cứu khoa học và các mục đích khác; bảo đảm các yêu cầu
về phòng, chống lũ, lụt, hạn hán và các tác hại khác do nước gây ra.
Một ví dụ điển hình là quản lý tổng hợp nguồn nước lưu vực sông Đồng Nai. Đây là lưu
vực sông có diện tích 38.600 km 2 nằm trọn trong lãnh thổ Việt Nam bao phủ địa giới hành chính
của các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh,
Bà Rịa – Vũng Tàu và một phần diện tích các tỉnh Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình Thuận và Long
An. Các sông chính trong lưu vực bao gồm: sông Đồng Nai, sông La Ngà, sông Bé, sông Sài
Gòn, sông Vàm Cỏ lớn, sông Nhà Bè, sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp. Với dân số hiện tại trên
11 triệu người, các hoạt động phát triển kinh tế xã hội trên lưu vực sông Đồng Nai rất đa dạng,
phức tạp và đang diễn ra với nhịp độ cao. Các hoạt động đó một mặt gắn liền với việc khai thác
nguồn nước hệ thống sông Đồng Nai cho các mục đích khác nhau như thuỷ điện, thuỷ lợi, cấp
nước đô thị và nông thôn, giao thông đường thuỷ, nuôi trồng thuỷ sản... Mặt khác các hoạt động
này tạo ra và vận chuyển chất thải gây ô nhiễm nước. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế trong khu
vực, các hoạt động gắn với khai thác các dòng sông ngày càng gia tăng làm nguy cơ cạn kiệt tài
nguyên nước cũng như giảm sút đa dạng sinh học càng lớn.
Hiện nay trong khu vực có 5 thách thức liên quan đến việc khai thác và sử dụng tài
nguyên nước:
-Nhu cầu thuỷ điện gia tăng do sự phát triển công nghệp và đô thị;
-Nông nghiệp thiếu nước nghiêm trọng về mùa khô;
-Xâm nhập mặn đối với các vùng ven biển;
-Nhu cầu cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp ngày càng gia tăng;

-Ô nhiễm nước do nước thải công nghiệp và đô thị.
Để quản lý tổng hợp được tài nguyên nước khu vực, cần phải có một số hướng tiếp cận
cơ bản như xây dựng tiêu chí chính sách và hoàn thiện khung thể chế , quy hoạch tổng thể lưu
vực sông trong đó có việc phát triển các công trình thuỷ lợi đa mục tiêu, tạo dựng cơ sở dữ liệu
nền về số lượng và chất lượng nước sông và cập nhật liên tục, cung cấp và đảm bảo các dịch vụ
liên quan đến nguồn nước, quản lý các trách nhiệm liên can về khai thác và bảo vệ nguồn nước,
đảm bảo sự hợp tác liên tục và toàn diện giữa các địa phương, các ngành trên lưu vực, xây dựng
và phát triển các chương trình khuyến khích và thoả hiệp tự nguyện; xã hội hoá việc quản lý và
bảo vệ nguồn nước.
1.2. Sử dụng hợp lý tài nguyên nước
1.2.1. Hệ thống kinh tế nước
Hầu hết các ngành kinh tế và hoạt động xã hội đều có nhu cầu về nước. Tuy nhiên tính
chất sử dụng và nhu cầu nước của các ngành khác nhau sẽ khác nhau. Có thể chia ra hai nhóm
ngành theo đặc điểm sử dụng nước như sau:
1.
Nhóm ngành tiêu thụ nước, trong đó lượng nước sử dụng bị tiêu hao đáng kể. Đó
là các hoạt động tưới nước cho cây trồng, cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp...
2.
Nhóm ngành sử dụng nguồn nước như một nguồn năng lượng và môi trường. Đó
là các ngành thuỷ điện, giao thông vận tải thuỷ, vui chơi giải trí dưới nước...
6


Theo DANIDA, 2000, đối với hoạt động kinh tế xã hội có tiêu thụ nước, nước dùng trong
nông nghiệp chiếm 70,1%, cho cấp nước công nghiệp là 20% và cho sinh hoạt là 9,9%. Ở Việt
Nam, lượng nước tưới hiện nay lên đến 83% lượng nước nhóm ngành tiêu thụ. Một phần nước
lấy từ sông, suối, hồ,đầm lầy và nguồn nước ngầm được tiêu thụ sau đó không được hoàn trở lại
cho các mục tiêu sử dụng khác. Hầu hết nước khai thác sau đó sử dụng trong sinh hoạt và sản
xuất nông nghiệp đều bị nhiễm bẩn. Khi xả vào sông hồ, vào tầng nước ngầm, chúng sẽ gây ô
nhiễm nguồn nước.

Yêu cầu chất lượng nước nhóm 1 (nhóm tiêu thụ) cũng rất khác nhau và đòi hỏi chặt chẽ.
Yêu cầu chất lượng nước sinh hoạt rất cao. Một số ngành công nghiệp như dệt nhuộm, sản xuất
hơi...cũng có quy định riêng đối với chất lượng nước sử dụng.
Nhóm ngành 2 chủ yếu là lợi dụng các tiềm năng của nguồn nước nên sự hao hụt trong
quá trình là nhỏ (chủ yếu là bay hơi). Tuy nhiên không có hoạt động kinh tế xã hội nào lại không
làm tiểu hao và giảm sút chất lượng nước. Cho nên sự phân chia như trên chỉ là tương đối.
Hệ thống khai thác và sử dụng nước trong các hoạt động kinh tế xã hội được gọi là hệ
thống kinh tế nước hay hệ thống thuỷ lợi. Đây là tập hợp các công trình, thiết bị và phương tiện
kỹ thuật để khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Trong phạm vi một quốc gia, hệ thống kinh tế
nước thường được chia thành 5 cấp theo sơ đồ Hình 3.

HÖ thèng kinh
tÕ níc cÊp 1

HÖ thèng kinh
tÕ níc cÊp 2

HÖ thèng
kinh tÕ níc
cÊp 3
HÖ thèng
kinh tÕ níc
cÊp 4
HÖ thèng
kinh tÕ níc
cÊp 5

Hình 3. Sơ đồ phân cấp hệ thống kinh tế nước
Nguồn:
Hệ thống kinh tế nước cấp 1 có thể xem là tổng sơ đồ khai thác sử dụng nước toàn quốc

gia, vì nó được nghiên cứu và lập trên cơ sở tổng cân bằng nước trong phạm vi toàn quốc. Thứ tự
ưu tiên cấp nước cho các đối tượng sử dụng trong hệ thống kinh tế nước cấp 1 do Nhà nước quyết
định trên cơ sở các nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước.
7


Hệ thống kinh tế nước cấp 2 được nghiên cứu hình thành và hoạt động trong phạm vi
vùng lớn hay là miền, vì vậy nó thường được gọi là hệ thống kinh tế nước ( hệ thống thuỷ lợi)
vùng. Quy mô và tính chất đặc trưng của hệ thống kinh tế nước cấp 2 quyết định bởi cân bằng
nước trong khuôn khổ vùng lãnh thổ có tính đến tính chất, tầm quan trọng, thứ tự ưu triên cấp
nước của các thành phần kinh tế vùng.
Hệ thống kinh tế nước cấp 3 được hình thành trên phạm vi một lưu vực sông hoặc một hệ
thống sông. Đặc trưng nổi bật của hệ thống kinh tế nước này là mọi yếu tố cân bằng nước (đầu
vào - đầu ra) được hình thành, phát triển khép kín trong phạm vi lưu vực. Do đó các giải pháp
khoa học và công nghệ khai thác nước được thực hiện một cách triệt để nhất trên nguyên tắc
quản lý thống nhất và tổng hợp lưu vực sông. Tuỳ theo quy mô và tính chất lưu vực sông mà
nhiệm vụ mỗi hệ thống kinh tế nước lưu vực cũng sẽ khác nhau. Ví dụ, đặc trưng nổi bật của lưu
vực sông Hồng là tiềm năng lớn về thuỷ điện (chiếm trên 60% tổng thuỷ năng nước) và dòng
chảy mùa lũ (lưu lượng lũ cực hạn có thể gấp 15 –20 lần lưu lượng nước bình quân nhiều năm).
Do đó các biện pháp khai thác tiềm năng thuỷ điện và phòng chống lũ lụt ở lưu vực này có vị trí
rất quan trọng.
Hệ thống kinh tế nước cấp 4 có nhiệm vụ giải quyết các bài toán khai thác tài nguyên
nước trong phạm vi một nhánh sông hoặc một đoạn sông. Tuỳ theo tính chất , đặc trưng của tài
nguyên nước và nhu cầu sử dụng nước mà hệ thống kinh tế nước cấp 4 có thể đa mục tiêu hay
đơn mục tiêu.
Hệ thống kinh tế nước cấp 5 là một thành phần kinh tế nước cụ thể . Đó là một giải pháp
công trình chuyên môn như một đập dâng nước, trạm bơm, nhà máy thuỷ điện, âu thuyền...
Mỗi ngành kinh tế có một nhu cầu dùng nước cả số lượng lẫn chất lượng khác nhau. Đây
là cơ sở để lập cân bằng nước khi quản lý tổng hợp nguồn nước.
1.2.2. Cấp nước sinh hoạt.

Lưu lượng cần cho nhu cầu cấp nước sinh hoạt được xác định tổng quát như sau:
Q = 10 −3 Nq c K c ,

m3/ngày

(1)

Nguồn:

trong đó: N-số dân khu vực dùng nước ;
qc- tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt. ở nước ta, qc được lấy bằng 100 – 200 l/người.ngày
khu vực đô thị và 50-100 l/người.ngày khu vực nông thôn;
Kch-hệ số không điều hoà chung, lấy từ 1,2 đến 1,8 phụ thuộc vào cấp đô thị.
Tuy nhiên, lượng nước khai thác lớn hơn nhu cầu do nước được sử dụng trong trạm xử lý
(khoảng 10% tổng lượng nước cấp) và thất thoát trong hệ thống phân phối (khoảng 15%). Đối
với các đô thị nước ta, thất thoát nước hiện đang ở mức báo động (hầu hết trên 35%). Trên phạm
vi toàn cầu, tiêu thụ nước đô thị chiếm 7% tổng khối lượng nước ngọt lấy từ sông và 22% lấy từ
hồ. Ở nước ta, gần 70% đô thị lấy nước cấp cho sinh hoạt từ nguồn nước mặt sông hồ và trên
30% lấy nước ngầm.
1.2.3. Cấp nước công nghiệp
Trong quá trình sản xuất, nhu cầu nước bao gồm :
a.

Nhu cầu sinh hoạt : ăn uống, tắm rửa cho công nhân

b.
Nhu cầu sản xuất : chuẩn bị hoá chất, nguyên vật liệu, sản xuất, năng lượng, sản
phẩm ,vệ sinh công nghiệp...
c.


Dự phòng và các nhu cầu khác: dự trữ chữa cháy, tưới cây , rửa đường....
8


Nhu cÇu Níc

NƯỚC SẢN XUẤT

Sinh ho¹t

S¶n xuÊt

Níc n¨ng lîng

Dù phßng

Níc c«ng nghÖ

Níc lµm nguéi

Hình 4. Nhu cầu sử dụng nước trong quá trình sản xuất
Nguồn:
Tính chất và nhu cầu sử dụng nước của các ngành công nghiệp khác nhau sẽ khác nhau.
Một số ngành công nghiệp sử dụng nước như một bộ phận cấu thành của sản phẩm, ví dụ ngành
công nghiệp thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng..; một số ngành sử dụng nước như
nguyên liệu cơ bản như công nghiệp nhiệt điện, thuỷ điện... Các ngành công nghiệp hoá thì sử
dụng nước như chất xúc tác hoặc tác nhân. Nhiều lĩnh vực công nghiệp sử dụng nước để làm
nguội thiết bị, chi tiết máy (trong các ngành cơ khí, hoá chất...) hay sản phẩm chế tạo (công nghệ
luyện kim, đúc...).
Trong số các ngành công nghiệp, ngành điện là một lĩnh vực sản xuất có mức sử dụng

nước khá lớn cho các mục đích như tạo hơi nước, ngưng tụ hơi nước... Lượng nước tiêu thụ
thông thường từ 0,16 đến 0,45 m 3/h cho 1 đơn vị công suất (1kW). Trong công nghiệp giấy,
lượng nước tiêu thụ là 300-800 m3/tấn giấy.
1.2.4 .Cấp nước cho nông nghiệp
Cây trồng tiêu thụ nước nhất là để thực hiện quá trình quang hợp dưới hình thức bốc hơi
qua mặt lá. Nước trong đất không chỉ thoả mãn nhu cầu nước của cây trồng mà còn có vai trò
điều tiết các chế độ nhiệt, độ thoáng khí, nồng độ chất dinh dưỡng... Đây là các yếu tố cần thiết
cho sự sinh trưởng của cây và vi sinh vật. Tưới cây là hộ sử dụng nước ngọt lớn nhất hiện nay
trên thế giới. Tuỳ theo loại cây trồng, điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng, lượng nước cần cho cây
có thể thay đổi trong phạm vi khá lớn, từ 3000 – 15000 m 3/ha.vụ. Lượng nước cần cho cây trồng
hàng năm tính cho một đơn vị diện tích cây trồng có thể sơ bộ tính như sau:
Ec=K.y , m3/ha.năm

(2)

Nguồn:

trong đó:
k- hệ số cần nước của cây, tính cho một đơn vị trọng lượng hay sản lượng khô của cây,
m3/tấn;
y – trọng lượng hay sản lượng thu hoạch cây tính cho một đơn vị diện tích gieo trồng,
tạ/ha.năm.
9


Lượng nước tưới còn phụ thuộc vào phương pháp và thiết bị tưới, hiệu quả hoạt động
của hệ thống kênh mương...
Ở nước ta, lượng nước cấp cho nông nghiệp rất lớn và tăng lên hàng năm. Hiện nay nước
ta có 75 hệ thống thuỷ lợi lớn và vừa và nhiều hệ thống thuỷ lợi nhỏ. Lượng nước sử dụng hàng
năm cho nông nghiệp 70 tỷ m3, chiếm 84% của tổng nhu cầu. Dự báo đến năm 2010 nhu cầu tưới

sẽ tăng lên đến 88,8 tỷ m3 (ứng với diện tích được tưới là 12 triệu ha). Chất lượng nước sông hồ
(trừ vùng bị ảnh hưởng của chua, phèn,..) nói chung đáp ứng được các yêu cầu tưới.
1.2.5. Thuỷ điện
Thuỷ điện là một nguồn năng lượng sạch, rẻ , có thể tái tạo nhờ công nghệ tiền tiến.
Ngoại trừ lượng bốc hơi từ hồ chứa là không được sử dụng, thuỷ điện là hộ sử dụng nhưng không
tiêu thụ nước. Công trình thuỷ điện bao gồm đập, hồ chứa, hệ thống tuabin quay máy phát điện ...
Một khi được xây dựng, thuỷ điện cũng như mọi nguồn tài nguyên tái tạo, được đánh giá là có
chi phí vận hành thấp, tuổi thọ cao, điều chỉnh công suất dễ dàng và nhanh chóng...Sản xuất điện
là lý do quan trọng để xây dựng đập lớn ở nhiều nước. Đập có thể dùng cho sản xuất điện như là
mục đích chính hoặc như một chức năng kết hợp. Dung tích hồ chứa nước trước đập thuỷ điện
phụ thuộc vào lưu lượng của sông. Hồ chứa nước có thể dùng để giải quyết các mục tiêu khác
như chống lũ, tạo nguồn cấp nước... Thuỷ điện là ngành khai thác tài nguyên nước có hiệu quả
lớn nhất. Tuy nhiên thuỷ điện có nhược điểm lớn là làm ngập đất đai và các tài sản khác trong
phạm vi hồ chứa, đòi hỏi phải di chuyển dân, khôi phục công trình, tái trồng rừng.
Công suất của nhà máy thuỷ điện được xác định theo biểu thức sau đây:
N=

γQT Hn
ηT
102

(3) Nguồn:

trong đó: γ - trọng lượng thể tích của nước, kg/m3;
QT-lưu lượng của tua bin, m3/s;
H- thế năng hay cột nước làm việc của tua bin, m;
n-số lượng tua bin;

ηT –hiệu suất của trạm thuỷ điện.
Với điều kiện lượng mưa hàng năm phong phú và 3/4 lãnh thổ là đồi núi nên nước ta là

một trong 14 nước trên thế giới có tiềm năng thuỷ điện to lớn.
1.2.6 .Giao thông đường thuỷ
Ngành giao thông vận tải thuỷ có ưu điểm lớn là chi phí vận tải tương đối rẻ so với các
hình thức vận tải khác, có khả năng vận chuyển hàng có trọng lượng và kích thước lớn. Đặc
điểm sử dụng nước của ngành vận tải thuỷ là lợi dụng nước như một môi trường, cho nên lượng
nước tiêu hao không đáng kể, chủ yếu là tổn thất do bốc hơi. Tuy nhiên để tạo luồng vận tải phù
hợp với các yêu cầu của tàu thuyền, tuyến tải phải đảm bảo các thông số cần thiết như độ sâu
nước, bề rộng mặt nước, vận tốc lớn nhất cho phép của dòng chảy, bán kính chỗ ngoặt của tuyến
vận tải...
Ngành giao thông đường thuỷ không chỉ đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hoá và hành
khách mà còn đảm nhận vai trò thực hiện giao lưu văn hoá - kinh tế – xã hội, tạo điều kiện phân
bố lại lực lượng sản xuất và nâng cao dân trí.

10


Tác động bất lợi của vận tải thuỷ đối với nguồn nước là khả năng gây ô nhiễm do các
chất thải như dầu, mỡ. Trường hợp có sự cố giao thông thì hàng hoá vận chuyển sẽ là nguồn gây
ô nhiễm, trong đó nguy hiểm nhất là dầu, hoá chất và phân bón.
1.2.7. Sử dụng nước cho du lịch
Nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong ngành du lịch, dịch vụ. Những sông suối tự
nhiên, thác nước... được sử dụng làm điểm tham quan, du lịch. Những vùng đất ngập nước, nơi
quần tụ các loại động thực vật hoang dã là những nơi du lịch sinh thái lý tưởng. Các hồ tự nhiên,
nhân tạo, các vùng cửa sông... đã và đang được sử dụng làm điểm tham quan du lịch hấp dẫn.
Nước dùng cho du lịch nói chung không nhiều nhưng đòi hỏi chất lượng cao. Mặt khác
các trung tâm du lịch cũng là nơi thải ra nhiều loại chất thải lỏng, rắn, rất dễ gây ô nhiễm môi
trường.
2. Các công cụ quản lý tổng hợp tài nguyên nước
2.1. Các công cụ luật pháp và chính sách
2.1.1. Luật Bảo vệ môi trường

Luật Bảo vệ môi trường là văn bản pháp lý quan trọng nhất của quốc gia trong công tác quản
lý môi trường. Mỗi quốc gia những cách riêng để hình thành luật môi trường của mình. ở nhiều nước
có các luật môi trường riêng cho từng thành phần môi trường . Ví dụ ở Mỹ ban hành việc kiểm soát ô
nhiễm nước, không khí, luật nước sạch, không khí sạch, nước an toàn... ở các nước đang phát triển
như Việt Nam, luật môi trường chỉ đưa ra các quy định chung dưới dạng khung pháp lý cho các quy
định dưới luật của các ngành chức năng. Các bộ luật môi trường quốc gia cũng thường xuyên được
bổ sung và hoàn thiện theo thời gian, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11. Luật Bảo vệ môi
trường được sửa đổi này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường phải tuân theo nguyên
tắc: Gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất
nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; bảo vệ
môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân; hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính,
kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường; bảo vệ môi trường
phải phù hợp với quy luật , đặc điểm tự nhiên, văn hóa lịch sử, trình độ phát triển kinh tế xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm , suy thoái môi
trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy
định của pháp luật.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 gồm 10 chương với 136 điều. Ngoài các chương I là
Quy định chung và chương II là Tiêu chuẩn môi trường, cơ cấu nội dung của Luật như sau:
Chương III: Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết
bảo vệ môi trường, có 3 mục, 14 điều. Nội dung các mục như sau:
-

Mục 1: Đánh giá môi trường chiến lược, quy định về: Đối tượng phải lập báo cáo đánh
giá môi trường chiến lược; lập báo cáo môi trường chiến lược; nội dung báo cáo đánh
giá môi trường chiến lược và quy định về thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến
lược.


11


-

Mục 2: Đánh giá tác động môi trường, quy định về: Đối tượng phải lập báo cáo đánh
giá tác động môi trường; lập báo cáo đánh giá tác động môi trường;nội dung báo cáo
đánh giá tác động môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trườngvà quy định về trách nhiệm thực hiện và
kiểm tra việc thực hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.

-

Mục 3: Cam kết bảo vệ môi trường quy định về: Đối tượng phải có bản cam kết bảo vệ
môi trường; nội dung bản cam kết bảo vệ môi trường; đăng ký bản cam kết bảo vệ môi
trường và quy định về trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện cam kết bảo vệ
môi trường.

Chương IV: Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều quy định về:
Điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ đa
dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi trường trong khảo sát,
thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo và sản phẩm thân thiện với môi trường và quy định về xây dựng thói quen tiêu dùng thân
thiện với môi trường.
Chương V: Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, có 15 điều
quy định về: Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ; bảo vệ môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; bảo vệ
môi trường đối với cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; bảo vệ môi trường đối với làng nghề; bảo
vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế khác; bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng;

bảo vệ môi trường trong hoạt động giao thông vận tải; bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, quá
cảnh hàng hóa; bảo vệ môi trường trong nhâpọ khẩu phế liệu; bảo vệ môi trường trong hoạt
động khoáng sản; bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch; bảo vệ môi trường trong sản xuất
nông nghiệp; bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản; bảo vệ môi trường trong hoạt động
mai táng và quy định về xử lý cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ gây ô nhiễm môi trường.
Chương VI: Bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư có 5 điều, quy định về: Quy hoạch bảo
vệ môi trường đô thị, khu dân cư tập trung; bảo vệ môi trường nơi công cộng; yêu cầu bảo vệ
môi trường đối với hộ gia đình và quy định về tổ chức tự quản bảo vệ môi trường.
Chương VII: Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác, có 3 mục, 11
điều, cơ cấu nội dung các mục như sau:
-

Mục 1: Bảo vệ môi trường biển, quy định về: Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển; bảo
tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển và
quy định tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển.

-

Mục 2: Bảo vệ môi trường nước sông, quy định về: Nguyên tắc bảo vệ môi trường
nước sông; kiểm soát , xử lý ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực sông; trách
nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với bảo vệ môi trường nước trong lưu vực
sông, quy định về tổ chức bảo vệ môi trường nước của lưu vực sông.

-

Mục 3: Bảo vệ môi trường các nguồn nước khác, quy định về: Bảo vệ môi trường
nguồn nước hồ, ao, kênh, mương, rạch; bảo vệ môi trường hồ chứa nước phục vụ mục
đích thủy lợi, thủy điện và quy định về bảo vệ môi trường nước dưới đất.

Chương VIII: Quản lý chất thải, có 5 mục , 20 điều, cơ cấu nội dung các mục như sau:

-

Mục 1: Quy định chung về quản lý chất thải, quy định về: Trách nhiệm quản lý chất
thải; thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ; tái chế chất thải và quy định
về trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải.
12


-

Mục 2: Quản lý chất thải nguy hại, quy định về: Lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép và mã số
hoạt động quản lý chất thải nguy hại; phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải
nguy hại; vận chuyển chất thải nguy hại; xử lý chất thải nguy hại; cơ sở xử lý chất thải
nguy hại; khu chôn lấp chất thải nguy hại và quy định về quy hoạch về thu gom, xử lý,
chôn lấp chất thải nguy hại.

-

Mục 3: Quản lý chất thải rắn thông thường, quy định về : Phân loại chất thải rắn thông
thường; thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường; cơ sở tái chế, tiêu hủy, khu
chôn lấp chất thải rắn thông thường và quy định về quy hoạch thu gom, tái chế, tiêu hủy,
chôn lấp chất thải rắn thông thường.

-

Mục 4: Quản lý nước thải, quy định về : Thu gom, xử lý nước thải; hệ thống xử lý nước
thải.

-


Mục 5: Quản lý và kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ, quy
định về: Quản lý và kiểm soát bụi, khí thải; quản lý khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá
hủy tầng ô zôn và quy định về hạn chế tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ,...

Chương IX: Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường, có 2 mục 8 điều, cơ cấu nội dung như sau:
-

Mục 1: Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, quy định về: Phòng ngừa sự cố môi
trường; an toàn sinh học; an toàn hóa chất; an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ; ứng phó
sự cố môi trường và quy định về xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi trường.

-

Mục 2: Khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường, quy định về: Căn cứ để xác định
khu vực môi trường bị ô nhiễm và quy định về khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường.

Chương X: quan trắc và thông tin về môi trường, có 12 điều , quy định về: Quan trắc
môi trường; hệ thống quan trắcmôi trường; quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường; chương
trình quan trắc môi trường; chỉ thị môi trường; báo cáo hiện trạng môi trường cấp tỉnh; báo cáo
tình hình tác động môi trường của ngành, lĩnh vực; báo cáo môi trường quốc gia; thống kê, lưu
trữ dữ liệu, thông tin về môi trường; công bố và cung cấp thông tin về môi trường; công khai
thông tin, dữ liệu về môi trường và quy định về thực hiện dân chủ cơ sở về bảo vệ môi trường.
Chương XI: Nguồn lực bảo vệ môi trường có 12 điều, quy định về: Tuyên truyền về bảo
vệ môi trường; giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường; phát triển
khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp môi trường, xây dựng năng
lực dự báo, cảnh báo về môi trường; nguồn tài chính bảo vệ môi trường; ngân sách nhà nước về
bảo vệ môi trường; thuế môi trường; phí bảo vệ môi trường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường
trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên; quỹ bảo vệ môi trường; phát triển dịch vụ bảo

vệ môi trường và quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường.
Chương XII: gồm 3 điều nêu lên vấn đề quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường, trong đó
khẳng định việc nước ta thực hiện các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà đã tham gia ký
kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa.
Chương XIII: Trách nhiệm các cơ quan nhà nước, tổ chức, đoàn thể về bảo vệ môi
trường, có 4 điều.
Chương XIV: Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt
hại về môi trường, có 2 mục 10 điều.
Chương XV: Điều khoản thi hành có 2 điều.
13


Như vậy, luật BVMT được xây dựng trên cơ sở các điều 29 và điều 8 Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam năm 1992 đã khẳng định quyền con người được sống trong
môi trường trong lành, xác định nội dung và hình thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường
của Nhà nước, xem đó là chức năng cơ bản và thường xuyên của Nhà nước, xác định trách
nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
2.1.2. Luật tài nguyên nước
Luật Tài nguyên nước được thông qua ngµy 20 th¸ng 5 năm 1998 và đã có hiệu lực từ
tháng 1 năm 1999. Hiện nay, chỉ mới thực thi được một phần những cải cách mà luật này đem lại. Hệ
thống các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết việc thực thi luật còn đang trong quá trình xây dựng
(cấp phép khai thác tài nguyên nước dưới đât, cấp phép sử dụng tài nguyên nước mặt, các giới hạn
thải,..)
Điểm đặc biệt của Luật Tài nguyên nước (TNN) là cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước
mang tính liên ngành và phối hợp. Cách tiếp cận này đã được triển khai thông qua việc thành lập
Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước ở cấp quốc gia và các Ban quản lý và quy hoạch lưu vực ở
cấp địa phương. Các cơ quan này là các đơn vị trực tiếp trực thuộc Chính phủ và có nhiệm vụ tư
vấn, điều phối và quy hoạch giúp Chính phủ.
Về cơ bản, Luật Tài nguyên nước được xây dựng làm khung pháp lý linh hoạt, và sẽ được
bổ sung một số nghị định tiếp theo. Các nghị định này sẽ quy định trách nhiệm và nhiệm vụ của

các tổ chức, cơ quan thực hiện Luật TNN.
Những nội dung cơ bản của Luật Tài nguyên nước là:
-Sở hữu tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý;
-Sử dụng tổng hợp, quản lý thống nhất tài nguyên nước;
-Quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông;
-Cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước;
-Nhà nước quản lý thống nhất tài nguyên nước;
-Các chính sách về tài nguyên nước.
-Hợp tác sử dụng công bằng tài nguyên nước quốc tế.
Luật Tài nguyên nước có 10 chương với 75 điều như sau:
• Chương I nêu lên những quy định chung về sở hữu và quản lý tài nguyên nước cũng như
giải thích các từ ngữ có liên quan.
• Chương II nêu lên vấn đề bảo vệ tài nguyên nước. Trong chương này chỉ rõ trách nhiệm
của Nhà nước, tập thể và cá nhân trong việc bảo vệ các loại nguồn nước cũng như chất lượng của
nó; vấn đề xả nước thải ....


Chương III nêu lên việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước.

• Chương IV đề cập đến vấn đề khắc phục hậu quả lũ, lụt và tác hại khác do nước gây ra.
Chương V là vấn đề khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.


Chương VI là quan hệ quốc tế về tài nguyên nước.



Chương VII là quản lý Nhà nước về tài nguyên nước.




Chương VIII là thanh tra chuyên ngành về tài nguyên nước.
14


• Chương IX và chương X là các điều khoản về khen thưởng, xử lý vi phạm và điều khoản
thi hành.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999 Chính phủ đã có Nghị định số 179 /1999/NĐ-CP Quy định
việc thi hành Luật tài nguyên nước. Nghị định này quy định việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước; xả nước thải vào nguồn nước, cấp giấy phép về tài nguyên nước và phòng,
chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Nghị định cũng được quy định đối với các hoạt
động gây ô nhiễm nước biển; quy định quy hoạch xây dựng công trình trên biển như các công
trình giao thông, thuỷ lợi, thuỷ sản và các công trình khác; các hoạt động liên quan đến quai đê
lấn biển, thoát lũ, phòng, chống xâm nhập mặn, nước biển dâng, tràn, làm muối, nuôi trồng thuỷ,
hải sản và các hoạt động khác có liên quan.
2.1.3. Quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường
Quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường là phương tiện chính để trực tiếp điều chỉnh chất
lượng môi trường ở hầu hết các nước trên thế giới. Chúng xác định các mục tiêu môi trường và
đặt ra các giới hạn số lượng hay nồng độ cho phép của các chất thải vào khí quyển, nước, đất hay
được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. Mỗi loại tiêu chuẩn được dùng làm quy chiếu
cho việc đánh giá hoặc mục tiêu hành động là cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát môi tr ường. Đây
là các giá trị được ghi nhận trong các quy định chính thức, xác định nồng độ tối đa cho phép của
các chất trong thức ăn, nước uống... hoặc là giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật với các
yếu tố môi trường xung quanh. Các tiêu chuẩn cũng có thể bao gồm các quy cách kỹ thuật và
thiết kế các thiết bị hoặc phương tiện xử lý ô nhiễm môi trường và tiêu chuẩn hoá các phương
pháp lấy mẫu hoặc phân tích môi trường.
Để quản lý môi trường nước, các quốc gia trên thế giới thường xây dựng hệ thống quy
chuẩn và tiêu chuẩn riêng. Ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đều đã sử dụng các quy
chuẩn và tiêu chuẩn môi trường nước và các tiêu chuẩn nước thải ra là các công cụ pháp lý cơ
bản để kiểm soát và bảo vệ môi trường nước.

Các quy chuẩn (QCVN) và tiêu chuẩn Việt nam (TCVN) về môi trường nước quy định
chất lượng cho ba loại nước: nước mặt, nước biển ven bờ và nước ngầm. Các QCVN và TCVN
về môi trường nước đang hiện hành:
• QCVN 8:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt;
• QCVN 9:2008/BTNMT -Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm;
• QCVN 10:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước biển ven bờ;
• TCVN 6773:2000 - Chất lượng nước – Chất lượng nước dùng cho thuỷ lợi
• TCVN: 6774-2000 - Chất lượng nước - Chất lượng nước ngọt bảo vệ đời sống thuỷ sinh
Các quy chuẩn và tiêu chuẩn chất lượng nước thải gồm:
• QCVN 01:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế
biến cao su thiên nhiên;
• QCVN 11:2008/BTNMT –Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế
biến thuỷ sản;
• QCVN 12:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy
và bột giấy
• QCVN 13:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt
may;
15


• QCVN 14:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt
• QCVN 24:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp ;
• QCVN 25:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải của bãi chôn lấp
chất thải rắn
• TCVN 7382:2004: Chất lượng nước. Nước thải bệnh viện. Tiêu chuẩn thải
Theo QCVN 24:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp
giá trị giới hạn nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải công nghiệp được phân thành 2 cấp: A, B
và đặc điểm nguồn tiếp nhận. Nước thải công nghiệp có nồng độ các chất thải ô nhiễm bằng hoặc
nhỏ hơn giá trị giới hạn cấp A thì có thể đổ thải vào các khu vực dùng làm nguồn nước cấp sinh
hoạt. Nước thải công nghiệp có nồng độ các chất nhiễm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị ở cấp B thì chỉ

được đổ thải vào nguồn nước có mục đích cho giao thông thủy, tới tiêu, bơi lội, nuôi thủy sản,
trồng trọt.
Từ nền tảng là các nhóm chất gây ô nhiễm, các phương pháp đánh giá, các tiêu chuẩn áp
dụng và các chỉ thị về môi trường nước, việc đánh giá tác nhân gây ô nhiễm, các ô nhiễm trước
mắt, lâu dài, thấy được và tiềm tàng sẽ được thực hiện đối với các nguồn nước.
2.2. Các công cụ và phương tiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước và bảo vệ môi
trường
2.2.1. Đánh giá tài nguyên nước
Quản lý tài nguyên nước đòi hỏi kiến thức về bản chất và phạm vi vấn đề quản lý. Điều
tra cơ bản, đánh giá tài nguyên nước là nhiệm vụ kỹ thuật đầu tiên của quản lý tài nguyên nước.
Đánh giá tài nguyên nước là xem xét một cách thích đáng hiện trạng tài nguyên nước (nước mặt
và nước dưới đất) và tác động qua lại của nó với việc sử dụng cho nhu cầu xã hội của một vùng
hay một quốc gia. Nội dung đánh giá tài nguyên nước là xem xét khả năng của nguồn nước và
yêu cầu dùng nước. Đánh giá tài nguyên nước là xem xét diễn biến thay đổi số lượng, chất lượng
nước mặt, nước ngầm theo không gian và thời gian và thử nghiệm sự đánh giá này cho từng kịch
bản phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Mục tiêu của đánh giá tài nguyên nước không chỉ là giải
quyết các vấn đề khó khăn mà còn là xác định và liệt kê các vấn đề liên quan, xác định các lĩnh
vực ưu tiên để có thể điều tra đánh giá cụ thể hơn. Các nội dung phân tích tài nguyên nước như
sau.
-Xây dựng cơ sở thông tin dữ liệu về tài nguyên nước. Thông tin có sẵn về hiện trạng tài
nguyên nước thường là hiếm, rời rạc, lạc hậu và không phù hợp với mục tiêu quản lý. Nếu không
có tiếp cận hợp lý với thông tin khoa học về chu trình thuỷ văn và sự cân bằng nước của các hệ
sinh thái liên quan sẽ không có kết luận đúng đắn về nguồn tài nguyên cũng như cân đối khả
năng và chất lượng với yêu cầu về nguồn nước. Vì vậy xây dựng cơ sở kiến thức và dữ liệu về tài
nguyên nước là điều kiện tiên quyết để quản lý nước hiệu quả. Cơ sở kiến thức về nước phải bao
gồm dữ liệu các biến số ảnh hưởng đến yêu cầu dùng nước. Chỉ từ những dữ liệu như vậy mới có
thể thực hiện phương pháp đánh giá linh hoạt và hiện thực. Quản lý hiệu quả yêu cầu dùng nước
có thể tác động lớn đến yêu cầu dùng nước cụ thể. Xây dựng đề án sử dụng nước có thể có tác
dụng tốt để hỗ trợ xác định mức độ sử dụng nước trong tương lai. Hơn nữa, đánh giá nhu cầu
thực tế bằng cách phân tích thái độ người sử dụng trong tình hình khan hiếm nước sẽ chỉ ra

những thông tin thiết yếu để xác định chính sách giá hợp lý.
-Hệ thống monitoring và đo đạc môi trường nước. Việc đánh giá tiềm năng và chất lượng
nguồn nước, sự biến đổi trạng thái nguồn do tiêu thụ nước, thay đổi khí hậu, thời tiết... phụ thuộc

16


vào độ tin cậy của hệ thống monitoring. Việc đánh giá này chỉ ra nhu cầu nguồn lực để phân bổ
đầu tư, vận hành và bảo dưỡng hạ tầng kỹ thuật công trình cấp nước.
-Đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Đánh giá tác động môi trường có vai trò trung
tâm khi lấy thông tin về tác động xã hội và môi trường, kể cả các tác động tài nguyên nước, trong
các chương trình và dự án phát triển, khi xác định những biện pháp cần thiết để bảo vệ nguồn tài
nguyên và hệ sinh thái liên quan, và bảo đảm tính khả thi của các biện pháp đó. Phương pháp tiếp
cận quản lý tổng hợp tài nguyên nước có ý nghĩa đánh giá những tác động của phát triển ngành
có thể đối với tài nguyên nước. Những đánh giá đó phải được xét đến khi thiết kế cũng như đặt
ưu tiên cho các dự án phát triển. ĐTM nghiên cứu không những đối với môi trường tự nhiên mà
cả môi trường xã hội, vì vậy nó gắn với vấn đề tổng hợp xuyên ngành là lôi kéo sự tham gia của
những người xây dựng dự án, người quản lý nước, người ra quyết định và công chúng. ĐTM đề
ra cơ chế hoặc công cụ để thực hiện tổng hợp chuyên ngành.
-Đánh giá và quản lý rủi ro. Rủi ro trong quản lý tài nguyên nước có các hình thức khác
nhau, thông thường là diễn biến thời tiết cực đoan, tác hại đối với sức khoẻ và cộng đồng. Không
bao giờ có thể loại trừ hoàn toàn rủi ro. Kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho phép đánh giá những
mối nguy hại (tần suất, độ lớn và khả năng diễn biến) và rủi ro tiềm tàng. Tuy nhiên những đánh
giá như vậy chưa toàn diện vì bỏ qua câu hỏi xã hội có thể chấp nhận bỏ qua những rủi ro nào.
Đây là vấn đề có tính văn hoá và nhận thức mà chỉ có thể giải quyết dựa trên phương pháp tiếp
cận cùng tham gia của quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Để hài hoà giữa các lợi ích, các quốc
gia trong những thời điểm khác nhau không những phải chấp nhận mức độ rủi ro nào đó mà còn
phải chấp nhận khắc phục một số nguy cơ gây hại. Quản lý rủi ro nhất thiết phải có cân bằng hợp lý
giữa lợi ích và mất mát nếu có rủi ro và chuẩn bị các phương tiện để con người và tài sản được bảo
vệ khi những điều kiện bất lợi xảy đến. Trên quan điểm môi trường, nguyên tắc phòng ngừa trong

quản lý rủi ro có thể giảm thiểu chi phí bỏ ra bằng cách tránh thiệt hại hơn là phải khắc phục thiệt
hại. Ở đây không có nghĩa là loại hẳn tất cả các rủi ro.
2.2.2. Điều hành trực tiếp.
Công cụ để điều hành trực tiếp trong quản lý tài nguyên nước bao gồm các quy định thi
hành, quy định quyền sử dụng và dịch vụ cung cấp nước, tiêu chuẩn hướng dẫn, kiểm soát quy
hoạch sử dụng đất.
Quy định thi hành là những hướng dẫn và quy tắc quản lý làm sáng tỏ và chi tiết hoá luật
pháp về nước. Những quy định thi hành tạo điều kiện thuận lợi mà luật không có là soạn thảo và
điều chỉnh những điều khoản nhỏ, nhanh chóng đáp ứng khi hoàn cảnh môi trường, kinh tế xã hội
thay đổi. Tiêu biểu là những quy định về lấy nước và xả nước thải có thể yêu cầu người sử dụng
phải có giấy phép lấy và xả nước thải. Những quy định sẽ mô tả thủ tục cần thiết để xin giấy phép
và tiêu chuẩn cấp phép. Quy tắc chung cho thấy chỉ những quy định thi hành có tính cưỡng chế
mới đảm bảo được thực hiện. Ở Việt Nam, Nghị định số 149 ngày 27 tháng 7 năm 2004 của
Chính phủ quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải
vào nguồn nước. Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư hướng dẫn thực
thi Nghị định số 149/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước.
Cấp nước và vệ sinh là công nghiệp độc quyền cung cấp dịch vụ thiết yếu. Nhà nước điều
tiết ngành công nghiệp này tạo cân bằng giữa những nhà cung cấp với động cơ đầu tư hoạt động
hiệu quả cũng như bảo vệ quyền lợi xã hội nói chung. Các khía cạnh như độc quyền sản phẩm
nước, yêu cầu vốn lớn và kẹt vốn để xây dựng hạ tầng, cạnh tranh không điều tiết trên thị trường
tự do gây những khó khăn cho ngành nước. Một số nhiệm vụ điều hành trực tiếp là xác định và
17


giải quyết rủi ro, tạo cơ cấu thực hiện hợp đồng, xác định chỉ số đánh giá công việc, kiểm soát
tuân thủ và thực hiện đánh giá tiêu chuẩn một cách công khai minh bạch.
Kiểm soát quy hoạch sử dụng đất là một trong những biện pháp hữu hiệu quản lý tổng
hợp tài nguyên nước. Nhiều cấp có thẩm quyền quản lý nước đã sử dụng biện pháp này để bảo vệ
nguồn cấp nước của họ. Ví dụ: điều hoà các mục đích sử dụng đất ở khu vực bổ sung nước

thượng lưu và quanh hồ chứa để tránh ô nhiễm, nhiễm mặn và thay đổi chế độ dòng chảy mặt.
Tuy vậy khả năng kiểm soát đất phụ thuộc vào cơ sở pháp lý về chức năng và phạm vi không
gian địa lý. Trong bối cảnh quản lý tổng hợp tài nguyên nước, quản lý sử dụng đất cũng quan
trọng như chính quản lý tài nguyên nước vì nó sẽ tác động đến dòng chảy, mô hình sử dụng nước
và các chất ô nhiễm. Hơn nữa quy hoạch sử dụng đất hiệu quả có thể góp phần tăng cường quay
vòng và quy hoạch tái sử dụng nước.
2.2.3. Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế và công cụ pháp lý luôn gắn liền và bổ trợ cho nhau. Hành lang pháp lý
luôn là cơ sở đảm bảo việc áp dụng có hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý. Ngược lại,
công cụ kinh tế sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của con nguời, giúp con người kiểm soát và cân
nhắc hành vi của mình, nâng cao thu nhập để có đầu tư cần thiết, xác lập ưu tiên và đạt được mục
đích quản lý với chi phí thấp nhất có thể đối với xã hội. Để vận dụng thành công các công cụ kinh
tế, điều kiện đầu tiên là phải có những tiêu chuẩn hợp lý, năng lực thực sự về hành chính, kiểm
soát và hiệu lực thi hành, phối hợp tổ chức và ổn định kinh tế. Xây dựng công cụ kinh tế hợp lý
cần xem xét đồng thời mức độ hiệu quả, tính bền vững môi trường, công bằng và các vấn đề xã
hội khác, cùng với đó là khung hoàn chỉnh về thể chế và điều hành. Các công cụ kinh tế tiêu biểu
trong quản lý tài nguyên nước và bảo vệ môi trường là giá nước, biểu thuế, trợ cấp, cơ chế
khuyến khích, phí nước thải và cơ chế phí, thị trường nước và các loại thuế...
- Giá, biểu thuế và bao cấp về nước: Theo nguyên tắc quản lý nước và giá trị kinh tế xã
hội, mục đích của mọi đối tượng sử dụng nước là thu hồi đủ vốn, trừ khi có lý do đặc biệt. Sự thu
hồi được chi phí cấp nước sẽ đảm bảo được tính bền vững đầu tư và độ tin cậy cung cấp dịch vụ.
Tuy vậy, trong nhiều tình huống, để đạt được mục đích đề ra, trong những năm đầu phải chấp
nhận bao cấp trực tiếp. Vì chính sách xoá đói giảm nghèo , có thể không thu hồi vốn cấp nước ở
một số hệ thống tưới. Tại các đô thị và một số vùng nông thôn, thực hiện bao cấp chéo từ những
người sử dụng nước có khả năng kinh tế cao hơn cho những người nghèo. Bao cấp chéo không
làm suy giảm bền vững tài chính của những cơ quan cung cấp dịch vụ nhưng sẽ làm lệch lạc cơ
cấu giá và yêu cầu về nước. Để quản lý tốt, bao cấp nước phải được thực hiện công khai. Trong
điều kiện thông thường, các cơ sở công nghiệp ít nhất phải trả đủ chi phí cấp nước.
- Biểu thuế khuyến khích: Trong sử dụng nước sinh hoạt, mức tiêu thụ nước tương đối ít.
Tuy vậy về tổng thể vẫn có thể giảm lượng nước sử dụng. Hệ thống biểu thuế và phí nước là một

yếu tố quản lý cần thiết, chỉ rõ giá mà người sử dụng phải trả. Trong thâm canh nông nghiệp,
định giá nước sẽ khuyến khích việc thay đổi cơ cấu cây trồng nhiều nước sang dùng ít nước.
- Cơ cấu phí: Biểu thuế nước ít có tác dụng khuyến khích sử dụng vững bền nguồn nước
nếu nó được tính đồng hạng không phụ thuộc vào lượng nước. Trong trường hợp như vậy, đề ra
cơ chế tính phí nước đúng, áp giá luỹ tiến trên mỗi đơn vị nước sử dụng khối lượng lớn có thể
khuyến khích sử dụng nước có cân nhắc hơn. Cơ cấu như vậy cũng góp phần bền vững tài chính
cho những cấp thẩm quyền về nước và hoàn chi phí quản lý tài nguyên nước.
- Phí nước thải: Theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả phí ô nhiễm”, phí thải nước
có thể thu trên lượng nước xả. Phí này phải phản ánh được yếu tố môi trường bên ngoài và gắn
liền với quá trình xử lý ô nhiễm và sử dụng nước. Phí nước thải có thể được tính theo khối lượng
và chất lượng của từng nguồn thải riêng biệt và điều chỉnh thích đáng để khuyến khích tối đa
18


những cơ sở gây ô nhiễm sử dụng công nghệ xử lý tiền tiến, tái sử dụng nước và giảm thiểu ô
nhiễm nguồn nước. Áp dụng phí nước thải cần kết hợp với những biện pháp điều tiết để khống
chế và kiểm soát chất bẩn xả ra, nhất là đối với các cơ sở gây ô nhiễm. Phối hợp hợp lý giữa thuế
nước luỹ tiến và phí xả nước thải sẽ là động cơ khuyến khích bảo vệ nguồn nước, quay vòng và
tái sử dụng nước ở các cơ sở công nghiệp. Ở Việt Nam, ngày 13/6/2003, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 67/2003/NĐ - CP về bảo vệ môi trường đối với nước thải. Trước đây, việc thu phí
nước thải cũng đã được thực hiện theo phần trăm sử dụng nước cấp tại một số địa phương.
Trước mắt, việc thu phí chỉ áp dụng đối với nước thải công nghiệp. Do phí xả thải sẽ phải tính
vào giá thành sản phẩm, vì vậy các cơ sở sản xuất muốn cạnh tranh cần phải giảm thiểu tải lượng
chất bẩn xả vào môi trường. Tuy nhiên, để nghị định thực sự có ý nghĩa, các cơ quan quản lý cần
phải thực hiện triệt để, toàn diện, chính xác và công bằng. Ngoài phí nước thải còn có phí thu
gom rác thải. Công cụ này khá phổ biến ở một số thành phố, thị xã và một số địa phương, nó tuỳ
thuộc vào đề xuất hoặc qui định của từng thành phố, cộng đồng. Tuy nhiên ở cấp độ quốc gia
chưa có một chương trình phí thu gom nào thực hiện về mặt quản lý nhà nước.
- Thị trường nước. Trong những điều kiện thích hợp, thị trường nước có thể cải thiện hiệu
quả phân phối nước và góp phần bảo đảm sử dụng nước cho mục đích đem lại giá trị cao hơn.

Tuy vậy thị trường nước đòi hỏi khung cơ cấu điều tiết và thể chế thích hợp để điều chỉnh những
khiếm khuyết thị trường và tác động bên ngoài khác.
- Thuế sản phẩm. Thuế sản phẩm đánh vào những sản phẩm gây hại đối với môi trường.
Đây có thể là công cụ đắc lực làm thay đổi thái độ và phù hợp trong trường hợp người sử dụng có
những phương án lựa chọn sản xuất và xả chất thải ít tác động xấu hơn đối với môi trường. Công
cụ này có thể áp dụng với những sản phẩm yêu cầu sản xuất tiêu thụu nhiều nước và sản phẩm
gây ô nhiễm nước. Đối với vấn đề ô nhiễm diện, ví dụ sử dụng hoá chát nông nghiệp, việc đánh
thuế rất có tác dụng khi nguồn thải không thể khống chế và xử lý trực tiếp. Do đó, giảm ô nhiễm
nhờ hạn chế sử dụng hoá chất nông nghiệp tương ứng để đối phó với việc đội giá sản phẩm.
Ở nước ta, quan niệm về công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường còn khá mới mẻ, một số
công cụ bước đầu đã được áp dụng trong thực tế và phần nào đã mang lại các kết quả đáng khích
lệ trong việc kiểm soát ô nhiễm và làm sạch môi trường. Tuy nhiên, các công cụ này chưa thực sự
đi vào cuộc sống. Phần lớn đây mới chỉ là những hoạt động mang tính tự phát, xuất phát từ lợi ích
kinh tế của các cá nhân và cộng đồng nhỏ hẹp trước những nhu cầu nảy sinh trong thực tiễn.
Cơ sở pháp lý của việc thực hiện các công cụ kinh tế để quản lý nguồn nước là:
- Luật bảo vệ môi trường. Luật BVMT qui định: "Tổ chức cá nhân sử dụng thành phần
môi trường vào mục đích sản xuất, kinh doanh trong trường hợp cần thiết phải đóng góp tài chính
cho BVMT”. Theo qui định của Luật, tất cả các cá nhân, tập thể và cơ sở sản xuất phải xử lý
nước trước khi xả nước thải xuống hồ và chịu trách nhiệm nếu có hành vi gây ô nhiễm. Tuy
nhiên, hiện tại tất cả các hành vi gây ô nhiễm chất lượng nước hồ chưa bị xử phạt và đóng góp
tài chính.
- Luật đất đai ban hành 14/7/1993, sửa đổi năm 2001, cũng đã qui định rõ mức độ xử phạt
hành chính và truy tố trước pháp luật đối với các hành vi vi phạm đất công cộng. Như vậy, tất cả
các hành vi lấn chiếm hồ được coi là hành vi vi phạm đất công. Các hành vi này không những
phải bị cưỡng chế mà còn phải bị xử phạt hành chính và có thể bị truy tố trước pháp luật.
- Chỉ thị số 487/TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/7/1996 về tăng cường quản lý
nhà nước đối với tài nguyên nước và Luật Tài nguyên nước ban hành ngày 20/5/1998 cùng với
nghị định số 179/1999/NĐ- CP ngày 10/7/1999 về thi hành luật tài nguyên.

19



Một số công cụ kinh tế đã bắt đầu được áp dụng ở Việt Nam như là: thuế tài nguyên, quĩ
môi trường, phí thu gom rác thải, phí môi trường đối với nước thải. Thuế tài nguyên quy định thu
một số loại thuế, phí gắn với khai thác và sử dụng tài nguyên. Những hình thức thuế và phí này
có liên quan mật thiết tới công tác bảo vệ môi trường. Thông tư 07-TC/TCT của Bộ Tài chính
ngày 7/2/1991 hướng dẫn chi tiết việc thực hiện những qui định về Thuế tài nguyên, căn cứ tính
toán là số lượng tài nguyên khai thác, giá tài nguyên và thuế suất, trong đó thuế suất được qui
định cụ thể đối với từng loại tài nguyên. Quĩ môi trường là công cụ tài chính được sử dụng tại
nhiều nước trên thế giới.
3. Kiểm soát ô nhiễm nước
3.1.Các nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm nước
3.1.1. Điều kiện vệ sinh khi xả nước thải vào nguồn
Nước mặt trong trạng thái tự nhiên rất đa dạng về thành phần hoá học, về sự phân bố các
chất hữu cơ, chất vô cơ và vi sinh vật. Đặc điểm này cùng với các yếu tố khí hậu thuỷ văn tạo
nên sự hình thành hệ thống thuỷ sinh vật đặc trưng cho các vùng sinh thái. Dưới tác động của
con người, thành phần và tính chất của nước thiên nhiên có thể bị thay đổi, dẫn đến sự mất cân
bằng của hệ sinh thái. Để đảm bảo chất lượng nước theo yêu cầu sử dụng, người ta chia nguồn
nước theo hai nhóm sử dụng chính (Nguồn):
- Nguồn nước loại A phục vụ cho mục đích làm nguồn cung cấp nước ăn uống và sinh
hoạt;
- Nguồn nước loại B phục vụ cho các mục đích sản xuất hoặc vui chơi giải trí,...
Bảng 1. Tiêu chuẩn chất lượng nước sử dụng
Loại nguồn

Tiêu chuẩn chất lượng nước sử dụng

Tiêu chuẩn nguồn cấp nước đô thị và công nghiệp
Cấp nước sinh hoạt


A

Cấp nước sản xuất

A
Tiêu chuẩn nguồn cấp nước nước cho nông nghiệp

Nuôi trồng thuỷ sản

B

Nước cho tưới tiêu

B
Nguồn cấp nước cho các mục đích khác

Vui chơi giải trí dưới nước

A

Giao thông đường thuỷ

B
Nguồn:

Nguồn nước phải đảm bảo các yêu cầu sử dụng. Sau khi tiếp nhận nước thải, tại một
điểm nhất định nào đó, chất lượng nước phải đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn sử dụng. Điểm này

20



thường ở phía trước điểm lấy nước sử dụng với một khoảng cách an toàn (thường gọi là khoảng
cách ly vệ sinh). Điểm này được gọi là điểm kiểm tra chất lượng nước nguồn.
Nồng độ giới hạn cho phép của các chất ô nhiễm trong nước thải trước khi xả ra nguồn
phải đáp ứng hai điều kiện sau đây :
- Nước thải sau khi pha loãng, xáo trộn và làm sạch trong nguồn nước, tính đến điểm
kiểm tra không được làm cho nước nguồn có nồng độ chất ô nhiễm vượt giá trị quy định đối
với chất lượng nước nguồn theo mục đích sử dụng (quy định trong các QCVN 08:2008/BTNMTQuy chuẩn quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 10:2008/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng nước biển ven bờ, TCVN 6774:2000 đối với nước mặt nuôi trồng thuỷ sản và
TCVN 6773:2000 đối với nước tưới nông nghiệp);
- Nước thải sau khi xả ra nguồn không được làm ô nhiễm thuỷ vực hạ lưu miệng xả (quy
định trong các QCVN 24:2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp,
QCVN 14:2008/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt, TCVN 7382:
2004- tiêu chuẩn nước thải bệnh viện xả vào các loại vực nước hoặc các quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia khác quy định điều kiện xả một số loại nước thải công nghiệp đặc thù.
3.1.2. Các giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường nước
Để bảo vệ nguồn nước có hiệu quả, tất cả các tính toán kiểm tra các chỉ tiêu môi trường
của nguồn nước phải được thực hiện trong điều kiện xáo trộn nước thải với nước nguồn yếu
nhất. Nếu trong trường hợp này, chất lượng nước nguồn đảm bảo thì trong các trường hợp khác,
với mức độ tự làm sạch cao hơn, chất lượng nước chắc chắn sẽ đảm bảo yêu cầu sử dụng. Đối
với sông suối, điểm kiểm tra thường ở hạ du miệng xả nước thải và cách điểm lấy nước sử dụng
là 500 đến 1000m. Trường hợp nguồn nước mặt sử dụng nuôi cá, điểm kiểm tra cách cống xả
nước thải 500 m (đối với sông lớn) hoặc ngay tại cống. Đối với hồ, hồ chứa nước và biển ven bờ,
do dòng chảy luôn thay đổi, điểm kiểm tra cách cống xả nước thải 1000m (đối với hồ) và 300 m
(đối với biển) về mọi hướng. Sơ đồ kiểm tra đánh giá chất lượng nước được nêu trên Hình 5.

Nước thải các
xí nghiệp công nghiệp

Nước thải khu dân cư


Kiểm soát theo
QCVN 07:2010

Đối tượng
sử dụng nước

Kiểm soát theo tiêu chuẩn
chất lượng nước sử dụng
Trạm XLNT
Trạm cấp nước

Kiểm soát theo
QCVN 24:2009
Điểm xả

Điểm lấy nước
Điểm kiểm tra

21


Kiểm soát theo
QCVN 08:2008
Hình 5. Sơ đồ kiểm soát ô nhiễm nước
Nguồn:
Để chất lượng nước tại điểm sử dụng đảm bảo yêu cầu việc xả nước thải ra nguồn cần
phải được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời phải có các biện pháp tăng cường tự làm sạch nguồn
nước. Sơ đồ tổng hợp các biện pháp kỹ thuật bảo vệ nguồn nước được nêu trên Hình 6.
Các biện pháp kỹ thuật bảo vệ nguồn nước


Hạn chế xả chất thải vào sông hồ :
• Sản xuát bằng công nghệ sạch và công
nghệ ít phát thải
• Cấp nước tuần hoàn và sử dụng lại
nước thải
• Xử lý nước thải
• Quy hoạch hợp lý các điểm xả nước
thải

Tăng cường tự làm sạch nguồn nước:
• Tăng cường xáo trộn tại điểm xả nước
thải vào nguồn
• Bổ sung nước sạch để pha loãng nước
thải
• Làm giàu oxy cho nguồn nước
• Nuôi trồng thuỷ sinh

Hình 6. Sơ đồ tổng hợp các biện pháp kỹ thuật bảo vệ nguồn nước
Nguồn:
Trong sơ đồ Hình 6, sản xuất bằng công nghệ sạch và công nghệ ít chất thải hoặc cấp
nước tuần hoàn và sử dụng lại nước thải là các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm đầu đường ống. Xử
lý nước thải và quy hoạch hợp lý cống xả nước thải là các biện pháp cuối đường ống. Các biện
pháp tăng cường xáo trộn tại cống xả nước thải và bổ sung nước sạch cho nguồn sẽ làm tăng quá
trình pha loãng nước nguồn với nước thải. Làm giàu oxy cho nguồn nước và nuôi trồng thuỷ sinh
có khả năng tự làm sạch sẽ thúc đẩy quá trình chuyển hoá, phân huỷ các chất ô nhiễm trong
nguồn nước. Một số giải pháp lựa chọn để kiểm soát ô nhiễm nước có thể tham khảo theo ví dụ
của Keese và Bower (1968), nêu trong Bảng 2 như sau.
Bảng 2. Các giải pháp kiểm soát ô nhiễm nước
Nguyên lý

A. Giảm sự
phát sinh chất
thải

Phương pháp

Ví dụ

1. Cấp nước tuần hoàn cho
sản xuất
2. Tách dòng thải có nồng
độ chất ô nhiễm cao
3. Loại trừ chất thải
4. Thay đổi
liệu đầu vào

Thu gom nước làm nguội để tái tuần hoàn và sử
dụng.
Loại chất thải rắn bằng thủ công hay cơ khí và
thải riêng biệt một cách dễ dàng.
Dụng bã thải công nghiệp thực phẩm để nuôi
gia súc hoặc nuôi cá.
loại nguyên Nghiên cứu, tìm kiếm nguyên liệu thay thế
thích hợp.

22


B. Giảm chất
thải sau phát

sinh

C. Tăng cường
khả năng tự
làm sạch của
nguồn tiếp
nhận nước thải

D. Các giải
pháp sinh thái
chống phú
dưỡng nguồn
nước

5. Thay đổi quá trình công Đổi từ chiết suất bằng áp lực sang bằng dung
nghệ sản xuất
môi trong công nghiệp dầu thực vật để đạt hiệu
suất chiết cao và giảm hàm lượng dầu trong
dòng thải.
6. Thay đổi hay hoàn thiện Các chất tẩy rửa với hàm lượng phốt pho thấp
sản phẩm đầu ra
hơn, thay đổi vật liệu bao bì, từ loại thải bỏ sang
có thể thu hồi tuần hoàn trong công nghiệp
đóng bao và đóng chai.
7. Thu hồi vật liệu
Thu gom xơ quả trong công nghiệp dầu cọ, phơi
khô làm nhiên liệu đốt lò hơi.
8. Sản xuất sản phẩm phụ
Kết hợp chăn nuôi, trồng trọt thành thể thống
nhất như hệ chăn nuôi gia cầm, gia súc, thuỷ vật

thuỷ sinh và cây trồng.
9. Xử lý chất thải
Kênh oxy hoá tuần hoàn, hồ sinh học, bãi lọc
ngập nước,...
10. Tái sử dụng dòng thải
Nuôi trồng thực vật thuỷ sinh, tưới cây làm màu
mỡ đất, sản xuất khí sinh học.
11. Bổ sung nước pha
loãng
12. Xả nước thải phân tán
13. Khuấy trộn nước trong
sông hồ
14. Cung cấp oxy cưỡng
bức cho sông hồ
15. Quy hoạch, bố trí lại
dòng thải vào sông hồ
16. Xử lý hoá học trong hồ Dùng các loại phèn nhôm hoặc phèn sắt để kết
tủa phốt pho.
17. Giảm sinh khối trong Đưa động vật ăn cỏ vào ăn cỏ trong hồ hoặc
nguồn nước
phun thuốc diệt cỏ để kiểm soát nồng độ tảo và
cỏ.
Nguồn:

Đối với các nước đang phát triển, giảm sự phát sinh chất thải và nâng cao hiệu quả, thu
hồi chất thải là phương hướng thích hợp và khả thi nhất. Nếu tiến hành kiểm soát ô nhiễm nước
theo phương pháp 1-3 của nguyên lý A, tải lượng chất ô nhiễm được giảm đáng kể và chỉ số chi
phí - lợi ích trong trường hợp này sẽ tăng lên. Nếu đầu tư theo phương pháp 5 – 6 (theo hướng
thay đổi công nghệ sản xuất sạch hơn) thì tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ giảm đi đáng kể.
3.2. Các biện pháp hạn chế xả chất thải ra nguồn

3.2.1. Cấp nước tuần hoàn và sử dụng lại nước
Hệ thống cấp nước tuần hoàn là quá trình dùng lại nước thải sau khi xử lý. Các loại nước
thải quy ước sạch thường được xử lý sơ bộ , sau đó dùng lại trong hệ thống cấp nước tuần hoàn.
Nước cấp bổ sung thêm bù vào phần nước hao hụt trong quá trình sản xuất và để giảm hàm lượng
muối hoà tan do bay hơi nước trong quá trình làm nguội và giải nhiệt. Sơ đồ hệ thống cấp nước
tuần hoàn nêu trên Hình 7.
23


Hệ thống cấp nước dùng lại là hệ thống trong đó nước thải khâu sản xuất phía trước có
thể sử dụng để cấp cho khâu sản xuất phía sau khi yêu cầu chất lượng và lưu lượng không cao.
Hệ thống này sẽ làm giảm lượng nước thải xả ra nguồn. Sơ đồ hệ thống cấp nước dùng lại được
nêu trên Hình 8.

Q
Qu¸ tr×nh s¶n xuÊt

Qh
Tr¹m CNTH

Qs

Qm
Qc

Tr¹m XLNT

Qth

Qt


Qbs

Hình 7. Sơ đồ nguyên tắc hệ thống cấp nước tuần hoàn
Nguồn:
Q: lượng nước sử dụng; Qth: lượng nước tuần hoàn; Qbs-lượng nước cấp bổ sung; Qc: lượng
nước giữ lại cùng cặn nước thải; Qs: lượng nước tham gia vào sản phẩm; Qm: lượng nước hao
hụt, mất mát; Qh: lượng nước sản xuất hơi; Qt: lượng nước thải xả ra nguồn ( do không đáp ứng
yêu cầu sử dụng hoặc để giảm lượng các chất hoà tan trong nước cấp).
Qh1
Q1

Qs1

Qm1

Kh©u s¶n xuÊt 1

Qh2

Qs2

Q2

Qm2

Kh©u s¶n
xuÊt 2

XLNT1

XLNT2
Qbs2
Tr¹m xö lý níc cÊp

Qt2
24


Hỡnh 8. S h thng cp nc dựng li
Ngun:
Q1: lng nc s dng khõu sn xut 1; Q2: lng nc cp cho khõu sn xut 2; Qbs-lng
nc cp b sung; Qs: lng nc tham gia vo sn phm; Qm: lng nc hao ht, mt mỏt;
Qh: lng nc sn xut hi; Qt: lng nc thi x ra ngun .
Nc tun hon cng nh nc dựng li cn tho món yờu cu nht nh v cht lng
theo cỏc thụng s: nhit , cng cacbonat, pH, hm lng cn l lng, cỏc nguyờn t dinh
dng, COD,...
3.2.2. X lý nc thi
X lý nc thi l giai on cui cựng ca h thng thoỏt nc thi. X lý nc thi l
quỏ trỡnh cụng ngh lm cho nc thi tr nờn sch hn, tiờu chun v sinh x vo mụi
trng tip nhn. Trờn c s nguyờn tc kim soỏt ụ nhim nc nờu trờn, nc thi ụ th c
t chc x lý, ỏp ng yờu cu x vo mụi trng theo s nờu trờn Hỡnh 9 sau õy.

Nhà máy
Cấp
nớc
tuần
hoàn

Tái sử dụng nớc
thải đô thị


Sinh hoạt dân

c

A

XLNTsơ bộ

Nớc ma đô
thị

Cấp nớc sinh hoạt

Cấp nớc công
nghiệ

Nớc ma đợt đầu
B

XLNT tập trung
của đô thị

XLNT tại chỗ

Xả nớc ma nớc thải
sau xử lý tại chỗ
QCVN 24:2009

QCVN 24:2009,

QCVN 14:2008
Thuỷ vực tiếp nhận nớc thải

Hỡnh 9. S t chc XLNT ụ th
Ngun:
25


×