Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Giải pháp để hoàn thiện pháp luật về xúc tiến thương mại trong nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.66 KB, 33 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

LỜI NÓI ĐẦU
Bước vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tạo nhiều điều kiện
thuận lợi trong việc thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh dưới
nhiều hình thức, ngành nghề khác nhau. Từ đó, việc hoạt động, sản xuất trong cùng
một lĩnh vực, tranh giành thị trường liên quan là điều không thể tránh khỏi. Như
vậy, cạnh tranh sẽ là vấn đề tất yếu. Trong cuộc ganh đua đó, các doanh nghiệp sử
dụng mỏi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ
như: Tuyên truyền, giới thiệu, khuyếch trương hàng hóa, dịch vụ, tổ chức việc bán
hàng có giảm giá, phát quà tặng... Các hoạt động này được gọi là xúc tiến thương
mại (XTTM) và là quá trình tất yếu mà doanh nghiệp phải tiến hành để đáp ứng
nhu cầu cạnh tranh. Quá trình này do thương nhân tự tổ chức thực hiện hoặc thông
qua quan hệ dịch vụ do thương nhân khác cung cấp.
Chính vì những lợi ích mà hoạt động XTTM mang lại, từ đó nhằm liên hệ
với thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng quan tâm đến các “kỹ thuật
thuyết phục” khác nhau thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Với hiệu
quả đạt được trong tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
XTTM đã sớm được coi là công cụ cạnh tranh lợi hại, có khả năng mang lại lợi ích
thương mại to lớn cho thương nhân, đồng thời có những ảnh hưởng không nhỏ đến
lợi ích của đối thủ cạnh tranh và của người tiêu dùng.
Xét về góc độ kinh tế, XTTM là thuật ngữ xuất hiện trong kinh tế học từ
những năm đầu của thế kỷ XX cùng với sự hình thành và phát triển của khái niệm
marketing. Trong tiếng Anh, “xúc tiến” (Promotion) có nghĩa là sự khuyến khích,
ủng hộ, sự khuyếch trương, thúc đẩy hay sự thăng tiến. Vì vậy, “trade promotion”
không chỉ là XTTM mà còn có ý nghĩa là sự khuyếch trương thương mại, sự thúc
đẩy thương mại. Thậm chí, ở tầm quốc gia, môi trường toàn cầu hóa và tự do hóa
thương mại đã và đang đòi hỏi Chính phủ và các tổ chức XTTM phải có những nỗ


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí



lực hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Như vậy, từ góc
độ kinh tế, có thể khẳng định: XTTM không chỉ là hoạt động nhằm mục tiêu thúc
đẩy phát triển thương mại của thương nhân mà còn bao gồm hoạt động thúc đẩy
phát triển thương mại của Chính phủ và các tổ chức XTTM.
Xét về góc độ pháp lý, khoa học pháp lý nghiên cứu XTTM với ý nghĩa là
quyền của cá nhân, tổ chức được ghi nhận trọng các quy định của pháp luật. Cụ thể
là tại khoản 3 điều 10 Luật thương mại 2005 quy định: XTTM là hoạt động thúc
đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động
khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội
chợ, triển lãm thương mại. Như vậy, theo quy định trên, XTTM mang bản chất là
hoạt động xúc tiến bán hàng và cung ứng dịch vụ do thương nhân tiến hành. Đây
cũng là định nghĩa duy nhất về XTTM trong pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chủ thể hoạt động XTTM có rất nhiều nhưng có thể chia các chủ thể này
thành 3 nhóm: Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp.
Trong đó, thương nhân là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động XTTM nhằm
tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cơ hội cung ứng dịch vụ cho mình.
Theo khuôn khổ của pháp luật thương mại, thương nhân hoạt động XTTM bao gồm
2 loại:
 Thương nhân kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực khác nhau tự hoạt động
XTTM cho mình trong khuôn khổ quyền tự do kinh doanh, tự do hoạt động
XTTM mà không cần phải đăng ký kinh doanh để có quyền thực hiện các
hoạt động đó.
 Thương nhân kinh doanh dịch vụ XTTM. Có nghĩa là, dịch vụ XTTM trở
thành dịch vụ thương mại được thương nhân lựa chọn để kinh doanh. Điều
kiện để thương nhân hoạt động XTTM một cách hợp pháp là phải đăng ký
kinh doanh.
Trong phạm vi môn học, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là hoạt động XTTM do
thương nhân tiến hành.



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về XTTM, thương nhân có
thể sử dụng các hình thức XTTM sau đây:
 Khuyến mại.
 Quảng cáo thương mại.
 Trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.
 Hội chợ, triển lãm thương mại.
Việc quy định như trên là phù hợp với thông lệ quốc tế về XTTM, tuy nhiên nội
hàm của các hình thức XTTM được quy định theo pháp luật Việt Nam vẫn còn hẹp
hơn so với các nước trên thế giới. Các hình thức quản trị mối quan hệ khách hàng
(CRM), quan hệ công chúng (PR)... mặc dù cũng đã xuất hiện trên thị trường Việt
Nam nhưng vẫn chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này, em xin phép được trình bày về từng hình
thức XTTM trong 4 hình thức được quy định theo pháp luật Việt Nam hiện hành,
đồng thời đưa ra một vài lời bình luận, đánh giá khách quan về các hình thức này,
từ đó để đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
này, góp phần phát triển hơn nữa hoạt động XTTM nói riêng và nền kinh tế đất
nước nói chung.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

NỘI DUNG CHÍNH
I/ Bình luận về các hình thức XTTM theo quy định của pháp luật
Việt Nam:
1/ Khuyến mại:
1.1/ Khái niệm:
Theo khoản 1 điều 88 Luật thương mại 2005: Khuyến mại là hoạt động

XTTM của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Nói cách khác, khuyến
mại được coi là cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi
ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hoặc lợi ích phi vật
chất (được cung ứng dịch vụ miễn phí).
Xuất phát từ khái niệm khuyến mại, có thể thấy được hoạt động khuyến mại
có các đặc điểm sau:
 Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Để tăng cường cơ hội
thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến
mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác để kinh
doanh.
 Cách thức xúc tiến thương mại là dành cho khác hàng những lợi ích nhất
định. Khách hàng được khuyến mại có thể là người tiêu dùng hoặc các trung
gian phân phối (ví dụ: Các đại lý bán hàng).
 Mục đích khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ của
thương nhân, thông qua đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
hàng hóa dịch vụ.
* Từ các quy định của pháp luật về khái niệm của khuyến mại, ta có thể rút
ra một số nhận định sau:


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

- Thứ nhất, so với Luật thương mại 1997, Luật thương mại 2005 khi định
nghĩa về khuyến mại có bổ sung thêm 2 điểm về mục đích của khuyến mại và cách
thức khuyến mại thông qua quan hệ dịch vụ.
Cụ thể là, mục đích khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn
nhằm xúc tiến việc mua hàng... Mặc dù khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ
biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để cạnh
tranh mở rộng thị phần nhưng đối với các doanh nghiệp thương mại, việc khuyến

mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu cần thiết để hoàn thành
kế hoạch kinh doanh.
Đáp ứng yêu cầu thực tế này, pháp luật hiện hành đã quy định khuyến mại là
hoạt động động thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ (chứ không chỉ là xúc tiến việc bán hàng như Luật 1997 quy
định).
- Thứ hai, về cách thức thực hiện khuyến mại, thương nhân được lựa chọn
thực hiện khuyến mại theo cách thức tự tổ chức hoặc thuê dịch vụ do thương nhân
khác cung cấp. Đây là điểm mới tiến bộ mà Luật thương mại 1997 và các văn bản
pháp luật trước đây không quy định. Quy định này đã bù đắp sự thiếu hụt và kịp
thời đáp ứng được đòi hỏi điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ kinh tế
mới phát sinh.
1.2/ Các hình thức khuyến mại:
Có 9 hình thức khuyến mại được quy định tại điều 92 Luật thương mại 2005.
Các quy định về hình thức khuyến mại là cơ sở pháp lý để thương nhân dành lợi
ích cho khách hàng theo những cách thức khác nhau, nhằm mục đích xúc tiên mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Pháp luật hiện hành cũng có một số quy định
riêng đối với từng hình thức khuyến mại, chủ yếu là các quy định về hạn mức giá
trị và thời gian khuyến mại, trình tự thủ tục tiến hành, nghĩa vụ của thương nhân
thực hiện khuyến mại.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

* Nhìn chung, pháp luật hiện hành đã quy định khá rõ ràng, đầy đủ về các
hình thức khuyến mại thông qua Luật thương mại 2005 và một số văn bản pháp
luật có liên quan, tuy nhiên một số điều luật còn thể hiện tính bất cập và hạn chế
như sau:
- Thứ nhất: việc quy định như trên về 2 hình thức: khuyến mại hàng mẫu và
quà tặng sẽ dẫn đến khó phân biệt 2 hình thức này. Nếu thương nhân dung hàng

hóa, dịch vụ mà mình được kinh doanh hợp pháp để phát quà tặng không thu tiền
của khách hàng, không kèm theo hành vi mua bán thì khi nào là hình thức hàng
mẫu, khi nào là hình thức tặng quà? Chính vì vậy, pháp luật chỉ nên quy định việc
tặng quà kèm theo việc mau bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Còn lại, các trường
hợp đưa hàng hóa cho khách hàng không thu tiền sẽ được coi là hình thức hàng
mẫu. Tuy nhiên, sự phân biệt này sẽ không còn cần thiết nếu như quy định về hạn
mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại được xóa bỏ trong pháp
luật hiện hành.
- Thứ hai, về các hình thức khuyến mại, mặc dù có bổ sung thêm mục đích
xúc tiến việc mua hàng, nhưng quy định về các cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập
trung vào hoạt động xúc tiến việc bán hàng. Trong thực tế, nếu như việc giảm giá
để tiêu thụ hàng hóa có thể làm nảy sinh hiện tượng bán phá giá, thì việc nâng giá
để thu mua, gom hàng hóa cũng có thể làm xuất hiện những nguy cơ đáng kể cho
hoạt động kinh doanh của thương nhân trong cùng một lĩnh vực hoạt động.
- Thứ ba, quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa dịch vụ dùng để
khuyến mại gặp khá nhiều khó khăn, khúc mắc khi thi hành. Cụ thể là đối với các
chương trình khuyến mại của thương nhân kinh doanh dịch vụ, việc xác định hạn
mức giá trị dùng để khuyến mại là rất khó thực hiện; khi xảy ra tranh chấp sẽ không
tránh khỏi bất đồng giữa cơ quan quản lý và thương nhân do mọi số liệu có thể chỉ
là ước tính. Trường hợp thương nhân thực hiện nhiều hình thức khuyến mại trong
một chương trình khuyến mại thì việc xác định hạn mức giá trị dùng để khuyến mại
cũng không đơn giản do còn thiếu cơ sở pháp lý để tính toán cụ thể.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Các phân tích trên đây cho thấy, quy định về hạn mức giá trị vật chất dùng
để khuyến mại và thời gian khuyến mại không những có thể gây khó thực hiện
được mục đích chống cạnh tranh không lành mạnh (vì việc này Luật cạnh tranh đã
làm) mà còn có thể gây cản trở cho thương nhân trong việc thực hiện quyền tự do

hoạt động XTTM và quyền tự do cạnh tranh.
1.3/ Quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại:
Để hoạt động khuyến mại diễn ra lành mạnh, an toàn, tôn trọng lợi ích của
người tiêu dùng và thương nhân khác, pháp luật quy định cho thương nhân khuyến
mại các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt
động khuyến mại được quy định cụ thể tại điều 95 và điều 96 Luật thương mại
2005.
Mục đích của việc quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân là vừa
ghi nhận quyền tự do thực hiện khuyến mại của thương nhân, vừa đảm bảo cho
quyền đó được thực hiện lành mạnh, tông trọng lợi ích của thương nhân khác và
của người tiêu dùng.
* Bên cạnh những quy định đúng đắn, hợp lý; chúng ta vẫn cần phải bình
luận về một số nội dung hạn chế sau:
- Thứ nhất: mặc dù được ban hành nhưng một số quy định về khuyến mại đã
gây phản ứng trong giới thương nhân. Có một số ý kiến cho rằng, khoản 4 điều 96
Luật thương mại 2005 là không đảm bảo quyền lợi của thương nhân hoạt động
khuyến mại. Mục đích ban hành quy định này là nhằm hạn chế tình trạng khuyến
mại gian dối, thiếu trung thực của thương nhân nhưng có nhược điểm là không phù
hợp với lợi ích kinh doanh của thương nhân.
- Thứ hai: quy định pháp luật về trách nhiệm của thương nhân khuyến mại
chưa thật sự đầy đủ để bảo đảm lợi ích của khách hàng. Trong thực tế, khách hàng
là người phải chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại, do các sai sót kỹ
thuật trọng in ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất
khách hàng được hưởng trong đợt khuyến mại.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Ví dụ: Trong đợt khuyến mại từ 15/4 đến 15/8/2005 của Công ty sữa
Hanoimilk, một khách hàng đã trúng thưởng 30.000.000đ sau khi mua sản phẩm

sữa Izzi và cào thẻ cào trúng thưởng. Khi liên hệ với công ty để nhận thưởng,
khách hàng được trả lời “phiếu cào không hợp lệ”. Sau đó, công ty TNHH Sáng tạo
– đơn vị thực hiện in ấn toàn bộ thẻ cào trong đợt khuyến mại theo hợp đồng đã ký
với Hanoimilk, đã thừa nhận lỗi sai sót kỹ thuật. Lợi ích mà khách hàng nhận được
chỉ là lời xin lỗi vì không tìm thấy quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm
cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi cho họ trong trường hợp này.1
- Thứ ba: để bảo đảm sự trung thực của thương nhân về giải thưởng trong
các chương trình khuyến mại, khoản 3 điều 96 Luật thương mại 2005 quy định:
thương nhân có nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và
cam kết với khách hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có trường hợp thương nhân
vẫn tiêu thụ được hàng hóa mà số lượng giải thưởng đã trao quá ít. Điều này có thể
sẽ dẫn đến việc vi phạm nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã
thông báo. Làm thế nào để kiểm soát tính trung thực của thương nhân khi thực hiện
khuyến mại, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và quyền lợi của khách hàng là một
vấn đề khó mà pháp luật hiện hành về XTTM vẫn chưa đủ các quy phạm hữu hiệu
để có thể bảo đảm kiểm soát được.
1.4/ Trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại:
Luật thương mại 2005 chưa dự liệu được và chưa liệt kê được về trình tự thủ
tục thực hiện khuyến mại, bao gồm: đăng ký, thông báo và xin phép mà được quy
định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 quy định các thủ tục cơ bản
để thực hiện khuyến mại.
* Dù chưa được quy dịnh cụ thể trong Luật, nhưng thông qua các văn bản
dưới luật khác, ta có thể đưa ra một số nhận định về trình tự thủ tục thực hiện
khuyến mại như sau:
1

Bộ thương mai: Thương mại, thứ 3 ngày 9/8/2005, tr 13)


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


Trong quy định hiện hàn về vấn đề này, pháp luật chưa quy định các điều
kiện cần đáp ứng để thương nhân được sự xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và quyền của thương nhân khi bị từ chối xác nhận việc đăng ký thực hiện
chương trình khuyến mại. Điều này dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện, thiếu cơ sở của
cơ quan công quyền khi thực hiện quyền hạn của mình và có khả năng làm cho
quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân khó được thực hiện một cách
đầy đủ. Đây có thể là một trong nhiều nguyên nhân của việc nhiều chương trình
khuyến mại được thực hiện khi chưa làm thủ tục đăng ký.
1.5/ Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại:
Khuyến mại là quyền của thương nhân trong hoạt động kinh doanh. Cơ hội
thương mại mà thương nhân khuyến mại có được là vấn đề “nhạy cảm” vì nó có thể
tạo ra những khó khăn cho thương nhân khác, có thể “đụng chạm” đến lợi ích của
khách hàng và tính lành mạnh của môi trường kinh doanh. Để ngăn ngừa những tác
động tiêu cực này, một số hoạt động khuyến mại đã bị Nhà nước cấm thực hiện
(điều 100 Luật thương mại 2005).
* Về quy định này, có một số lời bình luận sau:
Mục tiêu của khuyến mại là thu hút hành vi mua sắm và sử dụng dịch vụ của
khách hàng nên thương nhân có thể vì lợi nhuận tối đa mà vượt quá giới hạn cần
thiết, gây ảnh hưởng tiêu cực cho xác hội và môi trường kinh doanh.
2/ Quảng cáo thương mại:
2.1/ Khái niệm:
Tại điều 102 Luật thương mại 2005, quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu
dùng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm dịch vụ có mục đích sinh
lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời. Như vậy, có thể hiểu quảng cáo thương
mại là hoạt động XTTM của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt
động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình. Từ định nghĩa này, ta có thể rút ra
các đặc điểm cơ bản để phân biệt quảng cáo thương mại với các hoạt động không
phải là quảng cáo thương mại như: Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

mang tính chính trị, xã hội do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội
thực hiện, hoạt động thông tin của các tổ chức cá nhân không nhằm mục đích kinh
doanh.
* Từ khái niệm quảng cáo thương mại có thể đưa ra nhận định sau:
Thực trạng pháp luật về quảng cáo ở Việt Nam cho thấy, quảng cáo thương
mại đang được coi là một loại quảng cáo nói chung, tồn tại bên cạnh những quảng
cáo không có mục đích sinh lời. Do vậy, thương nhân hoạt động quảng cáo thương
mại phải tuân thủ các văn bản pháp luật về quảng cáo thương mại và các văn bản
pháp luật về quảng cáo nói chung.
Các quy định hiện hành về quảng cáo thương mại chủ yếu đề cập đến các nội
dung về hàng hóa, dịch vụ quảng cáo, sản phẩm quảng cáo thương mại và phương
tiện quảng cáo thương mại. Quảng cáo cái gì, mô tả thông tin về nó như thế nào và
cách thức phát hành thông tin đó tới cộng đồng... là các vấn đề khởi nguồn của
những tác động, ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, của người tiêu dùng và của
các thương nhân khác.
2.2/ Sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại:
Sản phẩm quảng cáo thương mại bao gồm những thông tin bằng hình ảnh,
hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng
nội dung quảng cáo thương mại. Sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa đựng cả
nội dung và hình thức quảng cáo thương mại.
Nội dung quảng cáo bao gồm những thông tin về hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ (thương hiệu, loại sản phẩm và tính ưu việt cũng như tiện ích của
nó...) mà chủ quảng cáo muốn được thể hiện nhằm thông báo, giới thiệu rộng rãi tới
công chúng. Nội dung sản phẩm quảng cáo phải đảm bảo lành mạnh, đúng sự thật,
không gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Hình thức quảng cáo được thể hiện bằng tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu
sắc, ánh sáng, hình ảnh, hành động, âm thanh và các hình thức khác có khả năng

truyền đạt nội dung thông tin quảng cáo tới công chúng. Hình thức quảng cáo phải


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

rõ ràng, dễ hiểu và có tính thẩm mỹ. Đồng thời, ngôn ngữ sử dụng trong quảng cáo
cũng phải tuân theo quy tắc nhất định.2

Phương tiện quảng cáo thương mại là

công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm quảng cáo thương mại. Phương
tiện quảng cáo bao gồm tất cả những phương tiện có khả năng truyền tải thông tin
đến công chúng như: báo chí, mạng thông tin máy tính, xuất bản phẩm, chương
trình...
Ngoài ra, nhằm đảm bảo trật tự quản lý nhà nước trong hoạt động quảng cáo,
bảo đảm hài hòa lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh,
của Nhà nước, của công chúng, pháp luật còn quy định một số giới hạn về diện tích
quảng cáo, thời lượng chương trình quảng cáo, số lần quảng cáo... đòi hỏi chủ thể
hoạt động quảng cáo phải thực hiện.
* Như vậy, các quy định của pháp luật hiện hành về sản phẩm và các phương
tiện quảng cáo là tương đối đầy đủ và rõ ràng, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại cần
khắc phục như sau:
- Thứ nhất, về hình thức quảng cáo thương mại: Pháp luật có quy định, hình
thức quảng cáo thương mại “phải có dấu hiệu để phân biệt những thông tin quảng
cáo với những thông tin không phải là quảng cáo để không gây nhầm lẫn cho người
sản xuất – kinh doanh và người tiêu dùng (theo khoản 3 điều 7 Pháp lệnh quảng
cáo). Quy định này có mục đích tích cực, để bảo vệ người tiêu dùng, song không có
tính khả thi do Pháp lệnh quảng cáo không chỉ ra được bằng những dấu hiệu nào để
phân biệt. Thực tế, chỉ có thể dựa vào những cảm nhận của người tiếp nhận thông
tin mà thôi.

- Thứ hai, sản phẩm quảng cáo thương mại và phương tiện quảng cáo thương
mại không có gì khác biệt so với sản phẩm quảng cáo và phương tiện quảng cáo.
Tuy nhiên, các nội dung này đồng thời được quy định trong Luật thương mại 2005
và Pháp lệnh quảng cáo 2001, điều này thể hiện rất rõ sự trùng lặp không cần thiết.
2

Xem: Điều 8 Pháp lệnh quảng cáo ngày 16/11/2001.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

- Thứ ba, việc quy định về giới hạn trong hoạt động quảng cáo là rất hợp lý
và phù hợp với thực tiễn pháp luật về quảng cáo của nhiều nước trên thế giới. Ví
dụ: các quy định trong Luật quảng cáo của Philippin, hay Bộ luật thương mại của
Cộng hòa Pháp và Pháp lệnh số 92-280 ngày 23/7/1992 về tự do thông tin và quy
định những nguyên tắc chung cho quảng cáo và tài trợ.3
2.3/ Chủ thể trong hoạt động quảng cáo thương mại:
Có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại với mục
đích, cách thức và mức độ khác nhau. Đó có thể là thương nhân quảng cáo (người
quảng cáo), thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng
cáo, người cho thuê phương tiên quảng cáo... Quyền tham gia vào hoạt động quảng
cáo của các chủ thể này được quy định tại điều 103 Luật thương mại 2005; khoản
2,4 điều 4 và điều 23,24,25,26 Pháp lệnh quảng cáo 2001. Cụ thể như:
- Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo về hoạt động
kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và
dịch vụ không có mục đích sinh lời. Do đó người quảng cáo có thể là thương nhân
hoặc không phải là thương nhân. Người quảng cáo có nghĩa vụ đảm bảo nội dung
quảng cáo trung thực, chính xác, phải xuất trình văn bản đảm bảo tính trung thực,
chính xác của nội dung thông tin quảng cáo khi người kinh doanh dịch vụ quảng
cáo hoặc người phát hành quảng cáo yêu cầu.4

- Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ chức, cá nhân thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động quảng cáo nhằm
mục đích sinh lời. Để kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người quảng cáo phải đăng ký
kinh doanh dịch vụ này tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thương nhân kinh
doanh dịch vụ quảng cáo này có một số quyền

hư: lựa chọn hình thức, lĩnh vực

kinh doanh, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo của
3

Tài liệu do Bộ Văn hóa – Thông tin, Cục Văn hóa – Thông tin cơ sở biên dịch, 2005.

4

Xem: điều 15 Pháp lệnh quảng cáo 2001.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

mình... Đồng thời, thương nhân này cũng có nghĩa vụ thực hiện đúng các quy đinh
của pháp luật về quảng cáo, nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các
cam kết trong hợp đồng dịch vụ quảng cáo...
- Người phát hành quảng cáo là người nắm giữ các phương tiện quảng cáo,
có khả năng đưa sản phẩm quảng cáo đến với công chúng, bao gồm cơ quan báo
chí, nhà xuất bản, tổ chức quản lý mạng thông tin máy tính, người tổ chức chương
trình văn hóa – thể thao... Người phát hành quảng cáo được quảng cáo trên phương
tiện của mình và thu phí dịch vụ phát hành quảng cáo. Đồng thời, họ có nghĩa vụ
tuân thủ các quy định pháp luật về sử dụng phương tiện quảng cáo thương mại,
pháp luật về báo chí, xuất bản, quản lý mạng... và có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng

phát hành quảng cáo đã ký. Bên cạnh đó, họ còn có một số quyền và nghĩa vụ khác
theo quy định pháp luật.
- Người cho thuê phương tiện quảng cáo là tổ chức, cá nhân sở hữu phương
tiện quảng cáo. Người này có thể là thương nhân hoặc không phải thương nhân
nhưng đều có quyền lựa chọn khách hàng cho mình và thu phí từ việc cho thuê đó
theo thỏa thuận trong hợp đồng.
* Nhìn chung, các quy định về chủ thể quảng cáo thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện hành là tương đối đầy đủ và nhất quán. Điều này đã tạo điều kiện
cho các chủ thể trong hoạt động quảng cáo thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ
của mình trong hoạt động quảng cáo.
2.4/ Thẩm quyền và thủ tục cấp phép quảng cáo thương mại:
Khi thực hiện hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo thương mại nói
riêng, thương nhân quảng cáo hoặc thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo
phải làm thủ tục xin cấp giấy phép thực hiện quảng cáo. Ở Việt Nam, công việc này
do cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin đảm nhiệm vai trò chính. Vì
vậy mà Luật thương mại 2005 không quy định về thẩm quyền và các thủ tục cấp


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

giấy phép quảng cáo thương mại. Nội dung này được quy định tại điều 16 Pháp
lệnh quảng cáo 2001 và một số văn bản pháp luật có liên quan.
* Việc quy định về thẩm quyền và thủ tục cấp phép quảng cáo thương mại có
một số khó khăn, tồn tại là:
Thực tế hiện nay cho thấy có rất nhiều cơ quan có thẩm quyền cấp phép
quảng cáo thương mại tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn phải đến từng cơ quan để
xin phép và để được cấp phép cho một tấm biển quảng cáo cũng phải mất khoảng 3
tháng. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đa số các biển quảng cáo
đều không có giấy phép hoặc đặt sai phép.
Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh vô cùng sôi động như hiện nay, pháp

luật quy định từ một băng rôn quảng cáo đến một tấm biển quảng cáo lớn, một màn
hình quảng cáo điện tử... đều phải xin phép thì tình trạng vi phạm thủ tục thực hiện
quảng cáo là tất yếu và cơ quan có thẩm quyền cũng không đủ sức để kiểm tra, xử
lý hết mọi trường hợp vi phạm.
Quy định pháp luật nhiều nhưng lại chồng chéo, chưa phù hợp, thủ tục hành
chính rườm rà, xử lý vi phạm chưa triệt để... là nguyên nhân chính của tình trạng vi
phạm quy định pháp luật về quảng cáo.
2.5/ Các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm:
Nhằm XTTM và đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, thương nhân có thể sử dụng
quảng cáo như một công cụ để dèm pha, hạ thấp uy tín của thương nhân khác với
mục đích thủ tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc ngăn cản sự gia nhập thị trường của
thương nhân mới. Để bảo đảm trật tự thương mại, bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
người tiêu dùng và của các thương nhân, pháp luật nghiệm cấm một số hoạt động
quảng cáo thương mại như: quảng cáo ảnh hưởng xấu đến lợi ích của Nhà nước và
của toàn xã hội, quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh hoặc
cấm quảng cáo, quảng cáo sai sự thật, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh...


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

* Đánh giá về những quy định pháp luật về các hoạt động quảng cáo thương
mại bị cấm:
Các quy định cấm đoán trên đối với một số quảng cáo thương mại được xây
dựng trên cơ sở bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, lợi ích của thương nhân
khách, của khách hàng, đồng thời tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh lành
mạnh.
Quảng cáo là hoạt động XTTM của thương nhân, diễn ra trong khuôn khổ
quyền tự do kinh doanh, do đó không thể được thực hiện một cách không giới hạn.
Không thể đánh giá các quy định cấm đoán này dựa trên cơ sở số lượng các hành vi

bị cấm nhiều hay ít mà phải xuất phát từ tiêu chí: những quy định cấm đó có căn cứ
hay không và có phải là sự hạn chế tự do thương mại hay không?
Dựa trên cơ sở này, quy định về các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
trọng pháp luật Việt Nam được đánh giá là tương đối phù hợp. Trên thực tế, pháp
luật của các nước trên thế giới đều có quy định cấm hoặc hạn chế những hoạt động
quảng cáo không phù hợp với “quốc kế, dân sinh”.
Bên cạnh những quy định về hoạt động quảng cáo bị cấm, việc xử lý các vi
phạm pháp luật về quảng cáo cũng được các văn bản pháp luật chú ý. Các vi phạm
này không thực hiện theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại mà được quy định riêng trong Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày
6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa
thông tin. Ngoài ra, với những vi phạm ở mức độ nghiêm trọng, có thể bị xử lý theo
quy định của Bộ luật hình sự. Đây cũng là một quy định tương đối phù hợp và có
hiệu quả.
3/ Trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ:
3.1/ Khái niệm:
Trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động XTTM của thương nhân
dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách
hàng về hàng hóa, dịch vụ đó ( quy định tại điều 117 Luật thương mại 2005). Trưng


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

bày hàng hóa, dịch vụ là một cách thức thông tin đến khách hàng mà phương tiện
để truyền tải thông tin chính là hàng hóa, dịch vụ đó. Đây chính là đặc điểm cho
phép phân biệt hình thức trưng bày giới thiệu với hình thức quảng cáo thương mại.
* Như vậy, luật thương mại 2005 đã đưa ra một khái niệm khá phù hợp và
bao quát được toàn bộ nội dung của hoạt động trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ.
3.2/ Các hình thức trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ:

Pháp luật hiện hành cho phép thương nhân được tự tổ chức việc trưng bày
hoặc thuê thương nhân khác thực hiện dịch vụ trưng bày với các hình thức mở
phòng trưng bày, trưng bày tại hội thảo, hội nghị, trung tâm thương mại, trưng bày
trên internet... Các hình thức này được quy định trong Luật thương mại 2005 và
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về
XTTM.
* Có thể nhận xét rằng, so với Luật thương mại 1997, Luật thương mại 2005
quy định bổ sung hình thức trưng bày hàng hóa trên internet. Tuy nhiên, hàng hóa
khi được trưng bày trên internet sẽ trở thành hình ảnh của hàng hóa chứ không còn
là hàng hóa. Thực chất, hình thức trưng bày trên internet là hình thức quảng cáo
trên mạng thông tin máy tính và phải tuân thủ quy định pháp luật về quảng cáo.
Pháp luật quy định tài liệu về hàng hóa cũng được sử dụng để trưng bày,
song những tài liệu này được trưng bày cùng với hàng hóa và chứa đựng thông tin
giới thiệu chi tiết về hàng hóa đang được trưng bày. Cho nên, cũng không nên coi
hình ảnh về hàng hóa trên internet là tài liệu về hàng hóa dùng để trưng bày.
3.3/ Hàng hóa, dịch vụ trưng bày và các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu
hàng hóa:
Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, do vậy,
hàng hóa dịch vụ được trưng bày giới thiệu phải đáp ứng được một số điều kiện
nhất định để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động thương mại đó. Những điều kiện
đó là:


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

 Hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu phải là những hàng hóa, dịch vụ kinh
doanh hợp pháp trên thị trường.
 Hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu phải tuân thủ quy định pháp luật về
chất lượng hàng hóa và ghi nhãn hàng hóa.
 Với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam để trưng bày, giới thiệu, ngoài việc

đáp ứng 2 điều kiện trên còn phải đáp ứng các điều kiện như: là hàng hóa
được phép nhập khẩu; nếu là hàng hóa tạm nhập khẩu phải tái xuất khẩu sau
khi kết thúc trưng bày và nếu hàng hóa tạm nhập khẩu đó tiêu thụ tại Việt
Nam thì phải tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam đối với hàng hóa
nhập khẩu.
Bên cạnh những điều kiện trên, pháp luật Việt Nam còn quy định về việc cấm trưng
bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trong một số trường hợp nhất định, nhằm bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội và lợi ích của các tổ chức, cá nhân
có liên quan.
* Nhận xét về các quy định trên, có thể thấy rằng: Điều kiện đối với hàng
hóa, dịch vụ được trưng bày và các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ là vấn đề được pháp luật quan tâm nhiều nhất trong hình thức XTTM.
Do tính chất giới thiệu trực tiếp bằng hàng hóa, hình thức trưng bày có khả
năng phát tán thông tin đến công chúng với phạm vi hẹp hơn so với quảng cáo
thương mại. Chính vì vậy có những hàng hóa hạn chế kinh doanh doanh bị pháp
luật cấm quảng cáo nhưng không cấm việc trưng bày như thuốc lá, rượu có độ cồn
từ 30 độ trở lên. Đây là quy định hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
việc thi hành quy định về trưng bày giới thiệu hàng hóa và các hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm thực hiện đang gặp phải vướng mắc, nổi bật là quảng cáo thuốc
lá.
Việc trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ do không xuất hiện hành vi bán
hàng như trong hội chợ, không được tổ chức tập trung như trong triển lãm, hiệu quả


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

tác động đến lợi ích của khách hàng và thương nhân khác cũng không nhiều nên
trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ được đánh giá là hình thức XTTM có tính
chất đơn giản nhất.
Các quy định của pháp luật hiện hành cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu điều

chỉnh bằng pháp luật, ít xuất hiện các vấn đề bức xúc từ phía thương nhân, khách
hàng và cơ quan quản lý nhà nước, ngoài việc pháp sinh một số vấn đề bất cập liên
quan đến hành vi quảng cáo thương mại.
4/ Hội chợ, triển lãm thương mại:
4.1/ Khái niệm:
Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động XTTM tập trung trong một thời
gian và tại một địa điểm nhất định, để thương nhân trưng bày giới thiệu hàng hóa
dịch vụ, tài liệu về hàng hóa dịch vụ nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ. Các vấn đề về hội chợ, triển lãm
thương mại được quy định từ điều 129 đến điều 140 Luật thương mại 2005.
Hình thức XTTM này vừa chứa đựng yếu tố trưng bày giới thiệu hàng hóa,
vừa có ý nghĩa khuyếch trương, quảng cáo cho thương nhân và được phân biệt với
các hành vi khác là:
 Hội chợ, triển lãm thương mại có tính xác định về thời gian, địa điểm và nội
dung.
 Hội chợ, triển lãm thương mại có sự tham gia đồng thời của nhiều thương
nhân.
 Mục đích trực tiếp của thương nhân khi tham gia hội chợ, triển lãm thương
mại là tìm kiếm khách hàng để giao kết hợp đồng.
* Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật hiện hành của Việt Nam không có sự
phân biệt giữa hội chợ thương mại và triển lãm thương mại do 2 hoạt động này
thường được tiến hành đồng thời. Tuy nhiên, dựa vào thực tế thực hiện hoạt động


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại, pháp luật
có quy định nghĩa vụ về thuế và thủ tục hành chính phải thực hiện với thương nhân.
4.2/ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của thương nhân tổ chức, tham gia hội chợ, triển
lãm thương mại:

- Thương nhân có quyền tự tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại hoặc thuê
thương nhân kinh doanh dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện,
có quyền chọn tên, chủ đề, địa điểm, thời gian tổ chức hội chợ, triển lãm thương
mại.
- Thương nhân có quyền tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở
Việt Nam hoặc ở nước ngoài. Thương nhân tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại
không phải làm thủ tục xin phép nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước
về thương mại (về thời gian, địa bàn, chủ đề, tên gọi của hội chợ) và phải được sự
xác nhận của cơ quan này.
- Thương nhân Việt Nam tham gia hội chợ nước ngoài và thương nhân nước
ngoài tham gia hội chợ Việt Nam được phép bán, tặng cho khách hàng hàng hóa tại
hội chợ, triển lãm nhưng phải tuân thủ quy định về xuất nhập khẩu và các quy định
khác có liên quan.
* Quyền và nghĩa vụ của thương nhân khi tổ chức, tham gia hội chợ, triển
lãm thương mại đã được quy định khá nhất quán và đầy đủ.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam
tồn tại một vấn đề nan giải là khắc phục tính “chợ” và thiếu chuyên nghiệp. Trong
khi mục tiêu thực sự của hội chợ, triển lãm là marketing, tiếp thị thì thương nhân
tham gia hội chợ chủ yếu là để thăm dò hoặc bán hàng tại chỗ, nhiều hội chợ giống
như chợ tạm, không có chọn lọc về hàng hóa. Ngoài ra, việc sử dụng tên gọi của
hội chợ, triển lãm nhiều khi gây nhầm lẫn cho khách hàng, cho người tiêu dùng và
có tác động sai lệch đến quyết định mua sắm của họ. Hiện trạng này diễn ra khá
phổ biến nhưng pháp luật vẫn chưa có những quy định điều chỉnh trực tiếp, có hiệu
quả.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Trong thời gian gần đây, góp phần khắc phục những tồn tại nều trên, Luật
thương mại 2005, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 quy định chi tiết

Luật thương mại về XTTM, Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy
định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện đã có những quy định cụ thể.
4.3/ Hàng hóa, dịch vụ tại hội chợ, triển lãm:
Theo các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này, hàng hóa dịch vụ trưng
bày tại hội chợ, triển lãm thương mại phải có một số điều kiện nhất định để đảm
bảo trật tụ kinh doanh thương mại. Đó là:
 Không phải là hàng hóa, dịch vụ thuộc diện cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh, chưa được phép lưu thông.
 Không phải là hàng hóa thuộc diện cấm nhập khẩu đối với thương nhân nước
ngoài tham gia hội chợ, triển lãm tại Việt Nam.
 Không phải là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trừ trường hợp
trưng bày để so sánh với hàng thật.
 Phải ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài việc tuân thủ các quy định về hội chợ, triển lãm thương mại của Luật này,
hàng hóa dịch vụ thuộc diện quản lý chuyên ngành phải tuân thủ các quy định về
quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa, dịch vụ đó;.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã có những quy định riêng đối với những hội
chợ, triển lãm mang tên, chủ đề có sử dụng từ ngữ để quảng bá chất lượng, danh
hiệu của hàng hóa, dịch vụ, quảng bá khẳng định uy tín, danh hiệu của thương
nhân. Đồng thời, cung quy định rõ việc cấp giải thưởng chứng nhận chất lượng,
danh hiệu của hàng hóa, dịch vụ hoặc uy tín của thương nhân, tổ chức, cá nhân
tham gia hội chợ triển lãm.
* Từ những quy định trên có thể khẳng định: dù chưa được thực tiễn kiểm
nghiệm nhiều nhưng các quy định mới về hội chợ, triển lãm thương mại trong pháp


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

luật hiện hành do được sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu thực tiễn hoạt động thương

mại sẽ có nhiều khả năng cải thiện được chất lượng và độ tin cậy đối với các hội
chợ, triển lãm thương mại.
Mặc dù vậy, thực tiễn pháp luật và thi hành pháp luật về hội chợ, triển lãm
thương mại tiếp tục gặp phải một số bất cập như:
 Do thời hạn đăng ký quá dài (trước mùng 1 tháng 10 năm trước) nên khó có
thể đảm bảo thương nhân sẽ trung thành với những nội dung đã đăng ký.
 Việc xét tặng danh hiệu cho thương nhân tham giai hội chợ sẽ vẫn thiếu
chuẩn mực, thiếu độ tin cậy khi mà trong pháp luật hiện hành chỉ tìm thấy
một số bản quy chế tuyển chọn giải thưởng chất lượng của Bộ khoa học,
công nghệ và môi trường ban hành, còn các ngành, lĩnh vực khác chưa có
quy định cụ thể.
 Quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại chưa theo
kịp những sửa đổi, bổ sung trong pháp luật thương mại, chưa có quy định xử
lý vi phạm về trưng bày hàng hóa thuộc diện hạn chế kinh doanh, về vi phạm
những nội dung về tổ chức hội chợ đã đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước
về thương mại.

Tóm lại, pháp luật hiện hành đã kịp thời điều chỉnh các hình thức XTTM
phổ biến do thương nhân thực hiện, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho thương nhân
thực hiện quyền tự do hoạt động XTTM trong sự tôn trọng lợi ích của Nhà nước,
của người tiêu dùng và của thương nhân khác.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng còn khá nhiều tồn tại trong thực trạng pháp
luật và thi hành pháp luật về vấn đề này. Ngoài những nguyên nhân đã được lý giải,
bình luận ở trên, còn có những hạn chế về kỹ thuật và quy trình lập pháp. Đây là
những hạn chế chung nổi bật của pháp luật về các hình thức XTTM. Điều này dẫn


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

đến những hạn chế về nội dung các quy định và sự thiếu hụt về tính đồng bộ, tính

phù hợp của các quy định đó.

II/ Giải pháp để hoàn thiện pháp luật về XTTM trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam:
1/ Định hướng trong việc hoàn thiện pháp luật về XTTM ở Việt Nam:
- Thứ nhất: Hoàn thiện pháp luật XTTM nhằm đáp ứng yêu cầu tự do hóa
thương mại và quyền tự do hoạt động XTTM.
Như ta đã biết, XTTM là những hoạt động thương mại do thương nhân tiến
hành, do đó nó không thể nằm ngoài xu hướng tự do hóa thương mại đang diễn ra
trong quan hệ thương mại nội địa và thương mại quốc tế. Về cơ bản, các yêu cầu
nhằm thực hiện tự do hóa được đặt ra là những yêu cầu áp dụng chung cho toàn bộ
chính sách thương mại. Đối với một số lĩnh vực, các nước có thể đặt ra các yêu cầu
cụ thể trong quá trình đàm phán. Chính vì vậy, với nhiều yêu cầu tương tự như đối
với pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về XTTM nói riêng cần quy định
những vấn đề nhằm thực hiện tự do hóa thương mại.
Như vậy, mục đích đầu tiên của việc hoàn thiện hệ thông pháp luật về
XTTM là nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và quyền tự do hoạt động XTTM
của thương nhân.
- Thứ hai: Hoàn thiện pháp luật XTTM nhằm hài hòa hóa lợi ích quốc gia,
lợi ích của thương nhân và người tiêu dùng.
Thật vậy, XTTM là hoạt động thương mại do thương nhân tiến hành nhằm
mục đích tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại. Vì mục đích lợi nhuận tối đa,
thương nhân XTTM có thể rơi vào tình trạng bất chấp lợi ích của các chủ thể khác,
gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia, lợi ích của thương nhân khác và lợi
ích của người tiêu dùng. Đây là lý do đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt
động XTTM của thương nhân.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


Thông qua công cụ quan trọng là pháp luật, Nhà nước thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể và bảo đảm sự phát triển bền vững, lành
mạnh của nền kinh tế. Mục tiêu bảo đảm “tính hài hòa” về lợi ích là rất cần thiết,
bởi Nhà nước không thể cản trở tự do thương mại một cách bất hợp lý, không thể
cản trở tự do cạnh tranh của mọi thương nhân và cũng không thể vì khuyến khích
thực hiện mục tiêu phát triển thương mại của thương nhân bỏ qua quyền, lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng. Như vậy, để có thể thực hiện được các nhiệm vụ
đó của Nhà nước, quá trình hoàn thiện pháp luật về XTTM cần phải quan tâm toàn
diện hơn nữa đến nhiều vấn đề liên quan.
- Thứ ba: Hoàn thiện pháp luật XTTM nhằm góp phần bảo đảm thực thi các
cam kết quốc tế của Việt Nam về thương mại.
Ngày này, sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam ta
ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy,
đáp ứng nhu cầu hội nhập, cải cách kinh tế theo hướng mở cửa tất yếu phải được
thực hiện mà theo đó, việc ký kết các điều ước quốc tế và sửa đổi chính sách, pháp
luật trong nước là một nhiệm vụ quan trọng.
Pháp luật thương mại, trong đó có pháp luật về XTTM có sứ mệnh “nội luật
hóa” các cam kết quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của quốc gia. Trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang trong
giai đoạn đàm phán, vấn đề XTTM được đề cập đến với tính chất là các dịch vụ
thương mại. Ngoài các cam kết chung về mởi cửa dịch vụ, các dịch vụ XTTM tuy
không được đặc biệt quan tâm nhưng cũng là một nội dung được đề cập cụ thể
trong nhiều hiệp định thương mại.
Như vậy, để đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế mà nước ta đã hoặc sẽ
tham gia, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật thương
mại và pháp luật về XTTM là sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật trên cơ sở
đòi hỏi chung của các cam kết quốc tế và các cam kết cụ thể về mức độ mở cửa đối
với từng loại hình dịch vụ XTTM.



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

2/ Giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về XTTM ở Việt Nam:
2.1/ Hoàn thiện các quy định về khuyến mại:
- Thứ nhất, sớm nghiên cứu, xem xét việc hủy bỏ quy định nghĩa vụ nộp
50% giá trị giải thưởng đã công bố và ngân sách nhà nước trong trường hợp không
có người trúng thưởng.
Xét về ưu điểm của quy định này, các nhà làm luật cho rằng, việc buộc
thương nhân nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong
trường hợp không có người trúng thưởng là giải pháp hạn chế tình trạng khuyến
mại gian dối, thiếu trung thực của thương nhân về cơ cấu, số lượng giải thưởng và
sự phân phối giải thưởng đến khách hàng.
Tuy nhiên, khi không phải mọi thương nhân đều có hành vi gian lận, thiếu
trung thực về giải thưởng, khi sự trúng thưởng của khách hàng thực sự dựa trên sự
may rủi thì việc còn lại giải thưởng sau thời gian khuyến mại hay chưa hết thời
gian khuyến mại mà toàn bộ giải thưởng đã có khách hàng trúng thưởng cũng là tất
yếu.
Do vậy, trong quá trình thực thi pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại cần có biện pháp để phát hiện, ngăn ngừa tình trạng gian lận về giải
thưởng. Còn quy định về nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân
sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng không phải là giải
pháp phù hợp và hiệu quả, chưa kể sẽ gây bất mãn, bức xúc của thương nhân.
- Thứ hai, sớm nghiên cứu việc hủy bỏ các quy định về hạn mức tối đa giá trị
hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, hạn mức về thời gian thực hiện khuyến
mại. Điều này có nghĩa là, mọi hành vi vi phạm các quy định về hạn mức tối đa giá
trị dùng để khuyến mại của mọi doanh nghiệp đều là hành vi vi phạm pháp luật về
XTTM.
Sau khi Luật thương mại 2005 được ban hành, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP
ngày 4/4/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động XTTM quy định hạn
mức giảm giá và thời gian giảm giá, giá trị dịch vụ khuyến mại... Tuy nhiên, vấn đề



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

đặt ra là có cần thiết quy định các hạn mức tối đa như trên không, trong khi Luật
cạnh tranh hiện hành chỉ phòng ngừa nguy cơ bán phá giá để cạnh tranh đối với các
thương nhân hoặc nhóm thương nhân có vị trí thống lĩnh thị trường, thương nhân
độc quyền.
Mặt khác, việc xác định đúng giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trước thời
gian khuyến mại, từ đó xác định mức giảm giá có vượt quá quy định của pháp luật
hay không là rất khó. Đồng thời, pháp luật cũng không quy định cụ thể nguyên tắc,
tiêu chí xác định hạn mức giá trị tối đa dùng để khuyến mại. Điều này có nghĩa là,
tính khả thi của quy định này không cao và tạo ra những phức tạp không cần thiết.
Bên cạnh đó, các quy định ngăn cấm không cần thiết như vậy sẽ là yếu tố cản trở tự
do thương mại, không thúc đẩy, khuyến khích cạnh trạnh.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, các quy định về hạn mức tối đa giá trị
dùng để khuyến mại và thời gian khuyến mại là không cần thiết và nên được bãi
bỏ. Cần quy về một mối, đó là chỉ cần thông qua Luật cạnh tranh để ngăn ngừa tất
cả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Thứ ba, cần bổ sung quy định về trách nhiệm cá nhân của thương nhân
hoặc người đại diện hợp pháp của thương nhân và trách nhiệm cá nhân của người
được giao tổ chức chương trình khuyến mại, từ đó đảm bảo tính trung thực về giải
thưởng và chọn người trúng thưởng trong các chương trình khuyến mại mang tính
may rủi.
Thực tế, mặc dù pháp luật hiện hành đã quy định nghĩa vụ trung thực của
thương nhân trong hoạt động khuyến mại, tuy nhiên tình trạng thiếu khách quan
hay gian lận trong việc chọn người trúng thưởng vẫn xảy ra. Chính vì vậy, pháp
luật cần bổ sung quy định buộc thương nhân hoặc người đại diện hợp pháp của
thương nhân, người được giao trách nhiệm tổ chức chương trình khuyến mại phải
chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự về hành vi gian lận, lừa dối

khách hàng trong chương trình khuyến mại.


×