Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của cơ quan cảnh sát điều tra ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 174 trang )

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LẠI THỊ HUỆ

HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ
TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT
ĐIỀU TRA Ở VIỆT NAM

Ngành:
Mã số:

Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
9 38 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Anh

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ
TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT


ĐIỀU TRA Ở VIỆT NAM

Ngành:
Mã số:

Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
9 38 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

LẠI THỊ HUỆ


MỤC LỤC

Trang

Mở đầu

1


Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

9

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

9

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

14

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

30

Chương 2: Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội
phạm, hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ
quan Cảnh sát điều tra
2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội
phạm
2.2. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp
hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động
hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan
Cảnh sát điều tra
3.1. Khái quát tình hình có liên quan đến hợp tác quốc tế về tương
trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
3.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế về

tương trợ tư pháp hình sự
3.3. Thực trạng hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp
hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
3.4. Nhận xét, đánh giá
Chương 4: Dự báo tình hình và các giải pháp nâng cao hiệu hợp tác quốc
tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
ở Việt Nam trong phòng, chống tội phạm thời gian tới
4.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hợp tác quốc tế về tương trợ
tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
4.2. Các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở
Việt Nam trong phòng, chống tội phạm thời gian tới
Kết luận
Danh mục công trình công bố của tác giả
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

35

35
48
71

71
83
89
106
122

122

131

148
151
152
163


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANTT

: An ninh trật tự

BCA

: Bộ Công an

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CAND

: Công an nhân dân


CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

CSND

: Cảnh sát nhân dân

HTQT

: Hợp tác quốc tế

NXB

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTHS


: Tố tụng hình sự

TTTP

: Tương trợ tư pháp

TTTPHS

: Tương trợ tư pháp hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống các vấn đề
lí luận và thực tiễn về hợp tác quốc tế (HTQT) trong hoạt động tương trợ tư
pháp hình sự (TTTPHS) của Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) ở Việt Nam
để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này là rất cần thiết bởi
các lý do sau:
Thứ nhất, xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của thế giới, và
ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương và song phương ngày
càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên thế

giới. Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế và
khu vực; có quan hệ ngoại giao với 189 nước, quan hệ kinh tế với trên 230
nước và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 3
nước, quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 13 nước.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Việt Nam đã mở rộng và củng cố quan
hệ với trên 80 nước và nhiều tổ chức quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả
hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nga,
Ấn Độ, Nhật Bản. Ngày 7/1/2016, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký
Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Thứ hai, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
Quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại những thuận lợi để cộng đồng
quốc tế phát triển bền vững, nhưng đồng thời không ít những nguy cơ, thách
thức đang đe dọa an ninh toàn cầu, trong đó đặc biệt là vấn đề tội phạm. Đối
với Việt Nam, tình hình tội phạm, trong đó tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội
phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm phi truyền thống, tội

1


phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng đáng kể về số vụ và mở rộng phạm vi
hoạt động, tính chất thủ đoạn hoạt động mới, tinh vi xảo quyệt, hậu quả xảy ra
nghiêm trọng và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp khó lường, …
Trước yêu cầu đó, HTQT về TTTPHS là một biện pháp phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm trở thành yêu cầu cấp thiết của các cơ quan tiến
hành tố tụng Việt Nam nói chung, Cơ quan CSĐT nói riêng trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh - trật tự của đất nước.
Thứ ba, thực trạng HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT
Thời gian qua, Cơ quan CSĐT đã coi trọng và thực hiện bước đầu có
hiệu quả HTQT về TTTPHS giữa Việt Nam với các quốc gia theo quy định

của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia
nhập. Mỗi năm tiếp nhận thực hiện và đề nghị phía nước ngoài thực hiện
khoảng 300 yêu cầu TTTPHS. Kết quả hoạt động này đã góp phần giải quyết
nhiều vụ án hình sự, nhất là các vụ án thuộc tội phạm xuyên quốc gia. Tuy
nhiên, hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc hạn chế đến hiệu
quả phòng chống tội phạm như: hệ thống điều ước quốc tế cũng như pháp luật
trong nước chưa đầy đủ, đồng bộ; sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia;
cơ chế phối hợp, ràng buộc giữa các quốc gia; nội dung yêu cầu tương trợ có
những trường hợp còn chung chung, thiếu cụ thể, thiếu chính xác về địa danh,
tên, thông tin khác; chất lượng dịch thuật tài liệu có trường hợp chưa chính
xác; thực hiện yêu cầu tương trợ thường mất nhiều thời gian trong khi việc
giải quyết các vụ án hình sự phải tuân thủ thời hạn luật định …
Thứ tư, hệ thống điều ước quốc tế và pháp luật trong nước
Việt Nam đã tích cực kí kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế thuộc lĩnh
vực HTQT về TTTPHS. Tuy nhiên, các hiệp định song phương về TTTPHS
còn ít. Có những hiệp định ký đã lâu, từ những năm 1980 nên đến nay có
những quy định không còn phù hợp. Có các hiệp định chung gồm nhiều lĩnh

2


vực (hình sự, dân sự, lao động, gia đình) đã ký trước năm 2000 không còn
phù hợp với thực tiễn cần tách ra thành hiệp định riêng.
Luật TTTP năm 2007 đã thi hành được 12 năm, quá trình thực tiễn thực
hiện thấy còn những vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu, tổng kết. Cụ
thể: Luật điều chỉnh cả 04 lĩnh vực TTTP về dân sự, hình sự, dẫn độ và
chuyển giao là chưa phù hợp; phạm vi tương trợ về hình sự còn hạn chế, chưa
phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn; chưa quy định về trình tự, thủ tục cam kết không áp dụng hình phạt
tử hình và một số nội dung yêu cầu cụ thể thường gặp. Hiện nay, Bộ Tư pháp

đang dự thảo đề xuất Chính phủ về định hướng sửa đổi Luật TTTP.
Hệ thống văn bản trong nước hướng dẫn thực hiện hoạt động TTTP
chưa đầy đủ, cụ thể dẫn đến việc thực hiện của các cơ quan chức năng còn
gặp lúng túng, khó khăn.
Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Hợp tác quốc tế về tương
trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở Việt Nam” làm đề tài
luận án Tiến sỹ, chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, mã số
9 38 01 05.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, luận án tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận
HTQT phòng, chống tội phạm, HTQT về TTTPHS; quy định của pháp luật,
điều ước quốc tế về HTQT về TTTPHS; đánh giá thực trạng hoạt động HTQT
về TTTPHS của Cơ quan CSĐT trong CAND từ 1/7/2008 đến 31/12/2019; từ
đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động này
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

3


Thứ nhất, thu thập, hệ thống hoá các công trình khoa học về HTQT
phòng, chống tội phạm, TTTPHS có tính tiêu biểu, chọn lọc; phân tích, đánh
giá các tài liệu này theo những nội dung cụ thể và đưa ra các bình luận về xu
hướng nghiên cứu trong thời gian qua;
Thứ hai, luận giải những vấn đề lý luận chung về hoạt động HTQT
phòng, chống tội phạm, HTQT về TTTPHS: khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm,
nội dung, chủ thể...;
Thứ ba, phân tích làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực

trạng hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam từ năm 2008 đến
31/12/2019, làm rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế;
Thứ tư, dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận về HTQT về TTTPHS và
thực trạng hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án xác lập phạm vi nghiên cứu gồm:
Thứ nhất, trong phạm vi lý luận, luận án tiếp cận hoạt động HTQT về
TTTPHS dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, trong phạm vi thực tiễn, luận án tiếp cận hoạt động HTQT về
TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam trong giai đoạn 12 năm, từ 1/7/2008
(khi Luật TTTP năm 2007 có hiệu lực) đến 31/12/2019.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận

4


Luận án nghiên cứu HTQT về TTTPHS theo cách tiếp cận đa ngành,
liên ngành khoa học xã hội và đa ngành, liên ngành tội phạm học, luật học.
Cụ thể:
Thứ nhất, luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hoà với các học thuyết, quan điểm, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam trong toàn bộ cấu trúc nghiên cứu của
luận án.
Thứ hai, luận án kết hợp sử dụng các phương pháp luận, phương pháp

nghiên cứu và lý luận về tội phạm học để phân tích các mối quan hệ: tình hình
tội phạm tác động đến HTQT về TTTPHS; HTQT về TTTPHS là biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Kết hợp sử dụng các phương pháp
luận, phương pháp nghiên cứu và lý luận về luật học trong việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa các quy phạm pháp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế và
thực tiễn thực hiện hoạt động TTTPHS.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sẽ sử dụng cách tiếp
cận nghiên cứu thực định, tội phạm học, luật học, xã hội học để tiếp cận
nghiên cứu và chứng minh các vấn đề đặt ra đối với luận án. Nghiên cứu sinh
dự kiến sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê: phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân
tích các số liệu (mặt lượng) về tội phạm xuyên quốc gia trên thế giới và ở Việt
Nam; về hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam giai
đoạn 2008 đến 31/12/2019 để tìm hiểu được bản chất (mặt chất) của tình hình
tội phạm và công tác này.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tổng kết thực tiễn hoạt động HTQT
về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam. Thông qua các báo cáo tổng kết,
báo cáo chuyên đề để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này.

5


Phương pháp phân tích, tổng hợp: từ các thông tin, tài liệu thu thập
được, tiến hành phân tích làm rõ tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm
có yếu tố nước ngoài, thực trạng hoạt động HTQT về TTTPHS. Thông qua
việc phân tích để tổng hợp lại kết quả đạt được, những hạn chế.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có
liên quan đến luận án phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ
thực tiễn cho đề tài luận án.

Phương pháp chuyên gia: tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học có
chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu điển hình: ngoài việc nghiên cứu chung, luận
án còn tập trung nghiên cứu những yêu cầu TTTPHS điển hình và cách giải
quyết để rút ra những đặc điểm đặc trưng và xu hướng của hoạt động này.
Phương pháp trao đổi, tọa đàm: tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi để
thu thập thông tin từ cán bộ của các cơ quan chức năng có nhiều kinh nghiệm
trong HTQT về TTTPHS.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn được luận giải, phân tích, tổng
hợp, đánh giá là đóng góp chính của luận án. Cụ thể những đóng góp mới bao
gồm: Thứ nhất, phân tích sâu sắc hơn về khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội
dung, mục đích của HTQT phòng, chống tội phạm. Thứ hai, phân tích sâu sắc
hơn về khái niệm, chủ thể, nguyên tắc, nội dung, nhiệm vụ, kênh thực hiện,
thủ tục áp dụng,... của HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT. Thứ ba, đánh
giá rõ hơn thực trạng quy định của pháp luật, thực trạng kết quả, ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của hạn chế của HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT
trong 12 năm qua. Đây là phạm vi nghiên cứu mới về thời gian, không gian,
chủ thể. Thứ tư, dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần

6


nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt
Nam trong thời gian tới, trong đó kiến nghị xây dựng Luật TTTPHS là một
ngành luật riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu các điều ước quốc tế, văn bản pháp luật và công
trình nghiên cứu có liên quan, Luận án đưa ra nhận thức về khái niệm HTQT
về TTTPHS của Cơ quan CSĐT; nguyên tắc, nội dung, chủ thể, nhiệm vụ,

kênh thực hiện, thủ tục áp dụng một số hoạt động cụ thể... trong thực hiện
HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT với tính chất là nội dung, biện pháp
phòng, chống tội phạm.
Với những kết quả nghiên cứu này, tác giả mong muốn góp phần hình
thành xu hướng nghiên cứu HTQT về TTTPHS là một lĩnh vực cần thiết,
quan trọng trong khoa học tội phạm học ở nước ta hiện nay, nhất là trong thời
kỳ hội nhập quốc tế. Các vấn đề mà luận án đề cập đến và giải quyết mang
tính tổng quát, cô đọng về mặt lý luận và cụ thể về mặt thực tiễn, do đó, nếu
đạt được sự ủng hộ của các nhà khoa học, những kết quả này sẽ có khả năng
làm cơ sở cho việc triển khai các nghiên cứu chuyên sâu hơn các vấn đề về
HTQT về TTTPHS thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết quả nghiên cứu sẽ làm giàu có và phong phú hơn hệ thống tri
thức, hiểu biết về lĩnh vực HTQT phòng, chống tội phạm, HTQT về
TTTPHS; góp phần hoàn thiện lý luận về các hoạt động này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng để tổng hợp, phân tích,
đánh giá thực tiễn hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở nước
ta hiện nay; dự báo tình hình tác động và xu hướng hoạt động này thời gian

7


tới; từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở nước ta…
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác
giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
bố cục gồm có 4 chương, 11 mục và các tiểu mục. Bốn chương gồm:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm,
hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát
điều tra
Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng hợp tác quốc tế
về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Chương 4: Dự báo tình hình và các giải pháp nâng cao hiệu hợp tác quốc tế
về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong
phòng, chống tội phạm

8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm thì vấn đề HTQT về TTTPHS được hầu hết các quốc gia quan tâm thúc
đẩy, đều có những nghiên cứu cũng như quy định của pháp luật về vấn đề
này. Tuy nhiên, do sự khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và nhất
là hệ thống pháp luật, chính sách hình sự và vấn đề chủ quyền quốc gia, nên
mỗi quốc gia có những quy định pháp luật cũng như quan niệm, cách tiếp cận
nghiên cứu về hoạt động này không giống nhau. Hoạt động HTQT về
TTTPHS không đơn giản chỉ là một nội dung của nghĩa vụ HTQT mà chính là
hoạt động đối ngoại của của nhà nước thể hiện chủ quyền quốc gia. Việc chấp
thuận hay từ chối thực hiện và nội dung, mức độ, thủ tục thực hiện HTQT về
TTTPHS phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quyền của quốc gia được yêu cầu.
Vấn đề HTQT trong lĩnh vực TTTPHS rất rộng, được nhiều nhà khoa
học và các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ và

khía cạnh khác nhau. Trong luận án này, nghiên cứu sinh đề cập đến các khía
cạnh nghiên cứu thông qua các tác phẩm mà cá nhân tiếp cận được. Theo đó,
tập trung nghiên cứu các công trình mang tính chất phổ biến rộng rãi của Văn
phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC) và một số tác
giả trên thế giới. Có thể kể đến các công trình sau:
Sách: “The theory and practice of international criminal law” (Lý luận
và thực tiễn về pháp luật hình sự quốc tế), các tác giả Leila Nadya Sadat và
Michael P. Schart, của NXB Martinus Nijhoff, Hoa Kỳ, năm 2008. Cuốn sách
gồm tập hợp các bản luận văn về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
quốc tế trên các lĩnh vực như: các hoạt động chống chủ nghĩa khủng bố,

9


chống tra tấn và các tội phạm tàn bạo khác; bí mật giam giữ, bí mật sự đầu
hàng và cưỡng bức mất tích trong “chiến tranh” chống khủng bố thời kỳ Tổng
thống Bush; đường tới kỷ nguyên của trách nhiệm; ICC và sự thay đổi của
pháp luật quốc tế; ICC và Công-gô: từ lý luận đến thực tiễn; tội phạm chống
loài người: kế hoạch quốc gia hay yếu tố chính sách; sử dụng pháp luật quốc
tế về bảo vệ quyền con người trong bảo vệ nạn nhân bị buôn bán, cưỡng bức
nô lệ, cưỡng bức tình dục, cưỡng bức lao động và sự tù tội...
Sách: “Fighting Terrorism and Drugs - Europe and International
Police cooperation” (Đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố và ma túy - Sự
hợp tác của Cảnh sát quốc tế và châu Âu), tác giả Jorg Friedrichs, của NXB
Routledge, Vương quốc Anh, năm 2008. Cuốn sách đã nghiên cứu việc áp
dụng điều ước thông qua sự hợp tác quốc tế của cảnh sát, vấn đề mà các chính
phủ mong muốn thông qua sự hợp tác quốc tế của cảnh sát, khi mà việc đó có
thể ảnh hưởng đến sự độc quyền của họ trong việc sử dụng vũ lực một cách
hợp pháp và khi mà các các yếu tố liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ lại đóng vai trò thứ hai.

Bài viết: “International cooperation against transnational organized
crime: Extradition and mutual legal assistance in criminal matters” (Hợp tác
quốc tế chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia: Dẫn độ và tương trợ tư
pháp về hình sự”, tác giả Matti Joutsen, Trưởng phòng Đối ngoại Bộ Tư pháp
Phần Lan: bài viết phân tích về hoạt động dẫn độ và TTTP về hình sự là hai
công cụ cơ bản của hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề về hình sự. Việc
điều tra và truy tố các vụ án chống lại người bị tình nghi tham gia tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia luôn gặp nhiều khó khăn. Đó là những khó khăn khi
xử lý vụ việc mà nghi can, nạn nhân, chứng cứ, nhân chứng, vấn đề mấu chốt
hoặc hồ sơ tội phạm nằm ngoài thẩm quyền xét xử. Điều này dẫn đến việc các
vụ án này có thể bị gạt sang một bên và “quên lãng”, với hi vọng rằng các cơ

10


quan thẩm quyền của quốc gia khác có thể sẽ giải quyết được vụ việc. Từ đó
cho thấy việc HTQT giữa các quốc gia trong việc điều tra, truy tố tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia đã trở thành hết sức cần thiết, trong đó dẫn độ và
TTTPHS trở thành hai công cụ chính để giải quyết vấn đề này.
Manual on Mutual Legal Assistance and Extradition (2012): Nguồn
UNODC “Sổ tay về Tương trợ tư pháp và dẫn độ năm 2012”: Sổ tay này
nhằm đưa ra trong yêu cầu của Nghị quyết 5/8 tại Hội nghị các quốc gia thành
viên có tiêu đề “Thực hiện các quy định về HTQT của Công ước Liên hợp
quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia”. Trong nghị quyết này,
UNODC đã trực tiếp phát triển một hướng dẫn để tạo thuận lợi trong việc
soạn thảo, truyền tải và thực hiện các yêu cầu dẫn độ và TTTP. Sổ tay này
hướng tới các cơ quan trung ương hoặc các cơ quan có thẩm quyền của các
quốc gia, các nhà hoạch định chính sách và những người thực thi pháp luật
hình sự bao gồm các luật sư, điều tra viên, thẩm phán và quan tòa, những
người có liên quan đến việc TTTP quốc tế.

Manual on International Cooperation in Criminal Matters related to
Terrorism (2009): Nguồn UNODC “Sổ tay về Hợp tác quốc tế trong giải
quyết các vấn đề hình sự liên quan đến khủng bố năm 2009”: Mục tiêu của
cuốn sổ tay này nhằm hướng dẫn những chuyên gia pháp lý trong đấu tranh
chống khủng bố có được hành động hiệu quả và nhanh chóng hơn. Bên cạnh
đó, cuốn sổ tay cung cấp cho người đọc những câu trả lời liên quan tới các
công cụ mà họ có thể sử dụng hoặc các hình thức liên quan để HTQT về vấn
đề dẫn độ và TTTP, cũng như đưa ra những bài học thực tế về những khó
khăn và trở ngại mà họ có thể phải đối mặt. Cuốn sổ tay cũng dự kiến được sử
dụng như một công cụ trong việc đào tạo những chuyên gia pháp lý trong đấu
tranh chống khủng bố.

11


Counter-Terrorism

Legal

Training

Curriculum:

Module

3:

International Cooperation in Criminal Matters: Nguồn UNODC “Chương
trình đào tạo pháp lý về chống khủng bố. Bài giảng số 3: Hợp tác quốc tế
trong các vấn đề hình sự”:Chương trình đào tạo là nền tảng để đưa ra những

kiến thức và chuyên môn cần thiết để tăng cường năng lực cho những cán bộ
trong nước làm việc trong lĩnh vực tư pháp hình sự nhằm thực hiện khung
pháp lý phổ quát về chống khủng bố. Bài giảng số 3 của chương trình đào tạo
tập trung vào vấn đề HTQT trong các vấn đề hình sự, đặc biệt là TTTP và dẫn
độ trong các vụ việc khủng bố.
Model Law on Mutual Assistance in Criminal Matters (2007): Nguồn
UNODC: “Luật mẫu về tương trợ tư pháp về hình sự năm 2007”: Luật mẫu
về TTTP về hình sự được phát triển bởi UNODC để hỗ trợ các quốc gia thành
viên thực thi các quy định của các hiệp định mẫu đã được Đại hội đồng thông
qua để tăng cường có hiệu quả việc HTQT. Luật mẫu được xây dựng sau khi
các hiệp định mẫu được thông qua, đặc biệt là sự ra đời của Công ước Liên
hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Công ước Liên hợp
quốc về chống tham nhũng.
Bài viết “Evaluating mlats in the era of online criminal conduct”
(Đánh giá các hiệp định tương trợ tư pháp trong kỷ nguyên tội phạm mạng),
tác giả Shalini S thuộc Trung tâm quản lý Viễn thông Ấn Độ, Nhóm nghiên
cứu loạt bài viết CCG (năm 2015 – 2016). Bài viết nhấn mạnh vai trò quan
trọng của các hiệp định TTTP trong quá trình điều tra, truy tố các vụ án hình
sự có yếu tố nước ngoài. Tác giả chỉ ra những khó khăn trong việc sử dụng
các hiệp định TTTP để thu thập thông tin, chứng cứ, dữ liệu điện tử: nguyên
tắc tội phạm kép; tính kịp thời trong việc cung cấp kết quả tương trợ. Từ đó,
tác giả đề xuất các hiệp định TTTP trong kỷ nguyên tội phạm mạng cần đáp
ứng đòi hỏi sau: Đơn giản hóa, giải quyết trực tiếp và kịp thời các yêu cầu

12


tương trợ; các cơ quan thực thi pháp luật mỗi nước cần chủ động xác định,
lưu giữ hay quả lý kho dữ liệu thông tin điện tử mà các quốc gia khác có thể
cần thu thập; cần phải có thiện chí chính trị giữa các quốc gia trong việc dành

cho nhau sự tương trợ.
Bài viết “The mutual legal assistance problem explained” (Giải thích
những vấn đề tồn tại của hoạt động tương trợ tư pháp), tác giả Gail Kent,
nguồn trang web của Trung tâm về Xã hội và Internet Hoa Kỳ ngày
23/02/2015. Tác giả cho rằng để giải quyết các vụ tội phạm mạng, chỉ riêng
hệ thống pháp luật Hoa Kỳ là chưa đủ mà cần sự hỗ trợ của các hệ thống pháp
luật quốc gia khác thông qua hoạt động TTTP. Tuy nhiên, kênh TTTP còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thu thập chứng cứ ở nước ngoài:
Việc thực hiện tương trợ phải áp dụng đồng thời nhiều hệ thống pháp luật;
quá trình thực hiện tương trợ kéo dài; yêu cầu tương trợ đòi hỏi thỏa mãn
nguyên tắc tội phạm kép; việc thực hiện tương trợ có thể phải tiếp cận dữ liệu
cá nhân, bí mật đời tư của công dân, do đó sẽ vi phạm các quyền công dân
được pháp luật bảo vệ.
Các công trình nghiên cứu trên chưa thể khái quát được tình hình
nghiên cứu nước ngoài về HTQT trong lĩnh vực TTTPHS nhưng bước đầu đã
gợi mở những luận điểm mang tính phương pháp luận, đã đóng góp giá trị
khoa học không nhỏ như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu chỉ ra sự cần thiết thúc đẩy hoạt
động HTQT nói chung, hoạt động TTTPHS nói riêng trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Đây là công cụ, biện pháp quan trọng để các nước cùng hợp tác đấu tranh
chống tội phạm.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã làm rõ khung pháp lý của HTQT
về TTTPHS: điều ước quốc tế, nội luật của các nước và một số định hướng
hoàn thiện khung pháp lý này.

13


Thứ ba, một số công trình nghiên cứu đã đánh giá, phân tích những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động TTTPHS, qua đó đưa ra một số

giải pháp khắc phục.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu cho thấy giá trị của nghiên cứu
HTQT về TTTPHS trong việc phân tích, định hướng các xu hướng phát triển
của hoạt động này trong bối cảnh toàn cầu hóa của thế giới.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm
Hiện nay, các nghiên cứu về HTQT phòng, chống tội phạm trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn chưa nhiều. Chúng ta chủ yếu trao đổi trên
nguyên tắc hợp tác chung trong khuôn khổ các công ước quốc tế, nghị định
thư, nghị quyết của Liên Hợp quốc, các thoả thuận khu vực, đa phương, song
phương, trong các văn kiện của Liên Hợp quốc, Cảnh sát Hình sự quốc tế
(Interpol), các hội nghị, hội thảo phòng chống tội phạm quốc tế, khu vực mới
chỉ đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm chung chung,
chưa chú trọng đến các biện pháp cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Việc ký kết,
tham gia các công ước quốc tế, hiệp định TTTP, nghị định thư... như là các
công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý, về phòng chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia, phòng chống tham nhũng, chống khủng bố của Việt Nam mới
chỉ là những cơ sở pháp lý cơ bản, chưa được cụ thể hoá và tính khả thi chưa
cao. Mặt khác, sự khác biệt về điều kiện chính trị, kinh tế, địa lý cũng như tổ
chức hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, khác biệt trong tổ chức, nhiệm
vụ quyền hạn của lực lượng chức năng Việt Nam với các nước trong phòng
chống tội phạm nói chung, HTQT phòng, chống tội phạm nói riêng và để giải
quyết hài hoà giữa yêu cầu tăng cường HTQT phòng, chống tội phạm với việc
giữ gìn bí mật an ninh quốc gia và bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện

14


gia nhập WTO đang là những vấn đề cần phải làm rõ trong HTQT phòng,
chống tội phạm.

Một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
PGS.TS Nguyễn Phong Hòa có hai tác phẩm: Tương trợ tư pháp và
hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong quá trình hội nhập quốc tế, sách chuyên khảo, nxb CAND, 2011; và
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống tội
phạm của lực lượng CSND trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài
khoa học cấp Bộ trọng điểm, 2015. Hai công trình nghiên cứu trên nghiên cứu
một số vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động HTQT trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm của lực lượng CSND gồm: tính tất yếu khách quan, khái
niệm, cơ sở pháp lý, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản, nội dung, hình thức, biện
pháp. Hai công trình đã đưa ra khái niệm “HTQT đấu tranh phòng, chống tội
phạm của lực lượng CSND Việt Nam là quá trình hợp tác, thoả thuận, trao
đổi, thống nhất hành động trong những chương trình chung theo các điều ước
quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia (với tư cách Chính phủ hay Bộ, Ngành Bộ Công an hoặc Tư pháp, Nội vụ…) được đảm bảo bằng pháp luật quốc tế;
góp phần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bên tham gia hợp tác nhằm thực
hiện và giải quyết mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch có tính pháp lý được đặt ra
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.” [24; tr.36], [52; tr.42]. Về cơ bản,
khái niệm trên đã phản ánh những dấu hiệu bản chất HTQT trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND Việt Nam; xác định được chủ
thể của quan hệ hợp tác là hai hoặc nhiều quốc gia; xác định được thuộc tính
của quan hệ hợp tác; nội dung và mục đích của quan hệ hợp tác phòng, chống
tội phạm. Đã xác định 5 đặc trưng cơ bản của HTQT phòng, chống tội phạm
của lực lượng CSND Việt Nam gồm: (1) Là mối quan hệ trực tiếp thông qua
các hiệp định, biên bản ghi nhớ giữa Bộ Công an, Nội vụ, Cảnh sát các nước,

15


Cảnh sát quốc tế và quan hệ “phát sinh” qua con đường ngoại giao; qua
TTTPHS, dẫn độ tội phạm; qua Bộ Tư pháp, VKSNDTC. (2) Vì mục đích của

từng quốc gia và của các quốc gia có quan hệ hợp tác. (3) Mang tính đa dạng
với nhiều hình thức, luôn gắn với quản lý nhà nước về ANTT, trong các lĩnh
vực: trao đổi thông tin, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, hoạt động tố tụng
hình sự, hợp tác TTTP, dẫn độ tội phạm, chuyển giao phạm nhân... (4) Cần có
kế hoạch hoặc đề án chung thống nhất để đảm bảo có hiệu quả trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm. (5) Góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội, kiên trì giữ vững
nguyên tắc mềm dẻo trong sách lược, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, bảo vệ chủ
quyền quốc gia, quyền, lợi ích của đất nước, của công dân Việt Nam.
Học viện CSND, Trung tâm nghiên cứu tội phạm học, Giáo trình “Hợp
tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm”, nxb CAND, 2014. Giáo trình đã
nghiên cứu lý luận về HTQT phòng, chống tội phạm ở các khía cạnh: khái
niệm, lịch sử hình thành phát triển, mục đích, vai trò, cơ sở pháp lý, chủ thể,
phạm vi, nguyên tắc, trình tự thủ tục thực hiện. Về khái niệm, giáo trình đã
nhận định ở góc độ phản ánh những dấu hiệu bản chất của HTQT trong
phòng, chống tội phạm, xác định chủ thể, các thuộc tính, nội dung và mục
đích của hợp tác. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước và quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết, gia nhập, giáo trình đã đưa ra 4 nguyên tắc mà HTQT phòng, chống tội
phạm phải tuân thủ: phù hợp với chính sách đối ngoại của nhà nước; tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế; phù hợp với điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.

16


ThS. Chử Văn Dũng (2010), Hoạt động Interpol trong thực hiện tương
trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội.

Công trình nghiên cứu đã đưa ra một số nhận thức lý luận chung về: HTQT là
yêu cầu bức thiết trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay; TTTPHS
và dẫn độ tội phạm trong HTQT phòng, chống tội phạm; hoạt động Interpol
trong thực hiện TTTPHS và dẫn độ. Tác giả đánh giá "Hoạt động Interpol là
một thực tiễn HTQT trong phòng, chống tội phạm hiệu quả không chỉ đối với
Việt Nam mà còn phổ biến đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Vai trò của
Interpol ngày càng tăng và có tác dụng to lớn trong quá trình hỗ trợ, giải
quyết và thực hiện TTTPHS và dẫn độ tội phạm, cũng như là biện pháp để
tăng cường nâng cao hiệu quả của HTQT trong phòng, chống tội phạm ở Việt
Nam." [18; tr.203-204]. Tác giả nhận định một số tồn tại, hạn chế của hoạt
động này ở các vấn đề: giá trị pháp lý không phải lúc nào cũng được thừa
nhận, một số trường hợp sử dụng hoạt động Interpol chỉ như là thủ tục kín hồ
sơ, như là biện pháp trung gian nên chưa được coi trọng. Từ đó, tác giả đề ra
các nhóm giải pháp: hoàn thiện cơ sở pháp lý; tăng cường tổ chức, bộ máy,
nguồn nhân lực và đào tạo cán bộ; xây dựng và hoàn thiệt quy chế phối hợp
giữa Văn phòng Interpol Việt Nam và các đơn vị liên quan; tăng cường hoạt
động Interpol; tăng cường quan hệ quốc tế giữa Văn phòng Interpol Việt Nam
với Tổng hành dinh Interpol và Văn phòng Interpol các quốc gia.
Bùi Anh Dũng (2005), Hợp tác quốc tế của lực lượng Cảnh sát nhân
dân Việt Nam với Cảnh sát nước ngoài trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Nội
dung của đề tài luận án này có một số nội dung mà đề tài có thể tham khảo
được như các khái niệm, nguyên tắc, nội dung, hình thức, cơ sở pháp lý về
HTQT phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND. Tuy nhiên nghiên cứu
trước đây chưa làm rõ được vị trí, vai trò, tác động của HTQT góp phần đảm

17


bảo ANTT, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế chưa được

đánh giá đầy đủ, đặc trưng của từng loại văn bản liên quan trong HTQT
phòng, chống tội phạm và các vướng mắc trong hợp tác với các nước trong
phòng, chống tội phạm.
Nguyễn Thành Long (2015), Phòng, chống tội phạm trên tuyến biên
giới Tây Nam Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội. Luận án đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng, chống tội
phạm nói chung, lý luận về phòng, chống tội phạm buôn lậu nói riêng. Luận
án đã khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá trình hình tội phạm và tình hình
hoạt động phòng, chống loại tội phạm này trên tuyến biên giới Tây Nam,
trong đó đã khẳng định những thành công, kết quả đạt được của hoạt động
phòng, chống tội phạm này đã góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên
toàn tuyến và các địa phương lân cận mặc dù vẫn còn một số hạn chế, tồn tại.
Từ đó, luận án đề ra các giải pháp phòng, chống tội buôn lậu trên tuyến biên
giới Tây Nam trong thời gian tới gồm 2 nhóm: nhóm biện pháp loại trừ và
nhóm biện pháp ngăn chặn. Trong đó, luận án đề cập đến biện pháp "Tăng
cường HTQT phòng, chống tội buôn lậu trên nguyên tắc phù hợp với pháp
luật hiện hành của nước ta và pháp luật quốc tế, phù hợp với chương trình
chống buôn lậu của Liên hợp quốc, của tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế
(Interpol) và tổ chức Cảnh sát các nước ASEAN (Aseanpol)" [33; tr.43].
Nguyễn Mai Trâm, (2017), Phòng, chống tội phạm mua bán người tại
Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã
nghiên cứu về tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành. Luận án đi sâu phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình tội
phạm mua bán người ở Việt Nam, nhận định về nguyên nhân và điều kiện của
tình hình đó. Từ đó, luận án đưa ra các giải pháp phòng, chống tội phạm mua
bán người, trong đó có giải pháp về HTQT gồm: tăng cường ký kết các hiệp

18



định đa phương, song phương; xây dựng các văn bản nội luật hóa; xây dựng
cơ chế hợp tác về phòng, chống tội phạm mua bán người giữa Việt Nam với
các nước; đào tạo cán bộ; xây dựng và mở rộng mạng lưới sỹ quan liên lạc ở
nước ngoài.
Lê Quang Thành, (2016), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã đánh giá tình hình, nguyên nhân
và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện
ở Việt Nam và thực tiễn hoạt động phòng, chống tội phạm này. Qua đó, luận
án đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này. Trong đó có giải
pháp củng cố và tăng cường HTQT phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới gồm các nội dung: thực hiện tốt các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế
đã ký kết, gia nhập; tăng cường đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với các
nước lãng giềng, các nước có động người Việt sinh sống; tranh thủ sự giúp đỡ
về khoa học kỹ thuật của các nước.
Trần Phương Đạt (2000), Hoạt động của Công an nhân dân trong
phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Đề tài này chủ yếu đề cập đến
phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, trong đó có đề
cập đến một số đề xuất tăng cường HTQT của lực lượng Cảnh sát Việt Nam
trong phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra.
Cục Đối ngoại – Bộ Công an, “Interpol - những điều cần biết”, Nxb
CAND, 2017. Sách chuyên khảo giới thiệu tổng quan về Interpol (lịch sử, cơ
cấu, nhiệm vụ, điều lệ,…), Đại hội đồng Interpol. Sách đề cập đến công tác
phòng, chống tội phạm của Interpol ở các khía cạnh: vai trò của Interpol,
mạng lưới I-24/7, các lĩnh vực tội phạm ưu tiên, hệ thống cơ sở dữ liệu, các

19



chiến dịch, dự án, chương trình của Interpol; cơ chế hợp tác của Interpol và
các đối tác; Interpol Việt Nam và hướng dẫn xử lý thông tin tội phạm.
Phạm Quý Ngọ, “Công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia
trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, 2010. Bài viết nhận diện tội phạm
xuyên quốc gia và thực trạng tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở Việt nam;
đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm xuyên quốc
gia ở Việt Nam.
Nguyễn Khắc Hải, “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống
mua bán người tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia
Hà Nội, tập 29, số 1 (2013), tr.20-26. Bài viết đi sâu vào thực trạng pháp luật
Việt Nam liên quan đến hợp tác khu vực và HTQT phòng, chống mua bán
người, đề ra những giải pháp đối với hoạt động này tại Việt Nam.
Nguyễn Thị Mai Nga, “Hợp tác quốc tế phòng, chống ma túy và tình
hình phòng, chống tội phạm ma túy ở một số quốc gia”, Tạp chí Kiểm sát, số
11/2006. Bài viết đánh giá tình hình ma túy ở một số quốc gia: Trung Quốc,
Lào, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Myanma và vấn đề hợp tác của Chính
phủ Việt Nam với tổ chức quốc tế, các quốc gia này trong phòng, chống ma túy.
Việt Hưng, “Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên
quốc gia”, báo CAND, 23/8/2015. Trước những biến động phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, lực lượng CAND Việt Nam tiếp tục triển khai hiệu
quả hoạt động đối ngoại, HTQT, tạo dựng thế trận an ninh nhân dân phòng
tuyến bảo vệ an ninh trật tự từ xa, góp phần quan trọng vào những thành tựu
đối ngoại của đất nước.
Ngoài ra, có một số tác phẩm, bài viết về các vấn đề liên quan đến
HTQT phòng, chống tội phạm như: Phạm Hỗ (2003), Tội phạm xuyên quốc
gia liên quan đến Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Tổng cục Cảnh sát (1999), Dẫn độ tội phạm và

20



×