Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI TRONG KINH DOANH CÀ PHÊ ROBUSTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.72 KB, 25 trang )

Luận Văn Tốt Nghiệp GVHD: TS. Hà Thị Ngọc Oanh
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI TRONG KINH
DOANH CÀ PHÊ ROBUSTA
I- CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH (DERIVATIVES)
1. Khái niệm:
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ tài chính đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu
khác nhau như phân tán rủi ro tiềm ẩn, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận của
các giao dịch được chia sẻ cho các bên. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy,
làm tăng nhiều giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu hoặc để đảm
bảo rằng nếu giá cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ
phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu.
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán
lại các chứng từ tài chính như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn.
Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng nhưng có bốn công cụ chính
là Hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract), Hợp đồng tương lai (Futures Contract),
Hợp đồng quyền chọn (Options Contract) và Hợp đồng hóan đổi (Swaps
Contract).
2. Các sản phẩm hàng hóa phái sinh
2.1 Hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract)
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng mua hay bán một số lượng nhất định đơn vị
tài sản cơ sở ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá xác
định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Thời điểm xác định trong tương
lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng hay ngày đáo hạn. Thời gian từ khi ký hợp
đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của hợp đồng. Giá xác định áp dụng
trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là giá kỳ hạn.
SVTH: Trần Thị Thiết Trang 1
Lớp 05DQN
1
Luận Văn Tốt Nghiệp GVHD: TS. Hà Thị Ngọc Oanh


(theo www.wikipedia.org)
Ví dụ: Tình hình giá cà phê trên thị trường Việt Nam thường bất ổn và dao
động tùy thuộc vào tình hình giá cà phê trên thị trường thế giới và tình hình
thời tiết. Năm nào thời tiết tốt và giá cà phê thị trường thế giới giảm thì giá cà
phê trong nước giảm theo khiến nông dân trồng cà phê bị thiệt hại. Ngược lại,
năm nào thời tiết không tốt và giá cà phê thị trường thế giới tăng thì giá cà phê
trong nước tăng theo khiến các nhà xuất khẩu cà phê khó khăn khi thu mua cà
phê của nông dân. Để tránh tình trạng bất ổn, nhà xuất khẩu cà phê có thể
thương lượng và ký hợp đồng mua cà phê kỳ hạn với nông dân. Ví dụ, vào
đầu vụ, công ty A ký hợp đồng kỳ hạn 6 tháng mua của ông X 20 tấn cà phê
với giá thỏa thuận trước là 15 triệu đồng/ tấn. Ông X được gọi là người bán,
công ty A là người mua trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 6 tháng ông X phải bán
cho công ty A 20 tấn cà phê với giá thỏa thuận trước là 15 triệu đồng/tấn và
công ty A phải mua 20 tấn cà phê của ông X với giá đó, cho dù giá cà phê trên
thị trường sau 6 tháng là bao nhiêu đi chăng nữa. Với giá thỏa thuận biết trước
và cố định, cả ông X và công ty A đều có được sự an tâm khỏi phải lo lắng về
sự biến động giá cà phê trên thị trường.
2.2 Hợp đồng tương lai ( Futures Contract)
Hợp đồng Futures là một thỏa thuận để mua hoặc bán một tài sản vào một
thời điểm xác định chắc chắn trong tương lai với một mức giá xác định.
(theo www.wikipedia.org)
Ví dụ: Công ty A ký hợp đồng xuất khẩu cà phê cho công ty B giao tháng
11/2009 là 100 tấn giá 1,350 USD/ tấn. Như vậy, đến thời điểm giao hàng,
công ty A phải bán cho công ty B 100 tấn cà phê đó với giá 1,350 USD/tấn và
công ty B phải mua 100 tấn cà phê với giá đó cho dù giá cà phê vào thời điểm
đó là bao nhiêu đi chăng nữa.
SVTH: Trần Thị Thiết Trang 2
Lớp 05DQN
2
Luận Văn Tốt Nghiệp GVHD: TS. Hà Thị Ngọc Oanh

2.3 Hợp đồng quyền chọn (Options Contract)
Options là quyền bán hoặc mua một hạng mục hàng hoá cụ thể nào đó
như: cổ phiếu, kim loại quý hoặc trái phiếu Kho bạc, các hợp đồng mua bán
tương lai và hàng hóa theo một giá đã xác lập trước trong một khoản thời gian
nào đó. (theo www.wikipedia.org)
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (Call
Option) và hợp đồng quyền chọn bán (Put Option).
Quyền chọn mua
Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho
người bán. Người mua sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một
lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm
xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải
bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả
thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi
người mua muốn thực hiện quyền chọn mua.
Ví dụ: Giá cổ phiếu của ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000
đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ lên
khoảng 200.000 đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà
đầu tư phải bỏ ra 100.000.000 đồng để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá
cổ phiếu không đúng như dự báo bị giảm xuống còn 60.000 đồng thì nhà đầu
tư bị lỗ: 40.000.000 đồng. Trong trường hợp này, để vừa giảm thiểu rủi ro mà
vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Quyền chọn mua, cụ thể:
mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000 đồng/cổ phiếu, trong thời gian 3
tháng với mức phí quyền chọn là 20.000 đồng/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu =
20.000.000 đồng. Trong thời gian 3 tháng trên, nếu giá cổ phiếu AB tăng như
dự báo lên mức 200.000 đồng/cổ phiếu thì bạn sẽ thu được: 1000 cổ phiếu x
200.000 đồng = 200.000.000 đồng tức là bạn lãi 100.000.000 đồng –
20.000.000 đồng phí mua quyền chọn = 80.000.000 đồng. Trong trường hợp
SVTH: Trần Thị Thiết Trang 3
Lớp 05DQN

3
Luận Văn Tốt Nghiệp GVHD: TS. Hà Thị Ngọc Oanh
giá cổ phiếu của AB không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3
tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu
mất 20.000.000 đồng tiền phí quyền chọn mua.
Quyền chọn bán
Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung
cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán
ở một mức giá nhất định trong tương lai.
Ví dụ: Nhà đầu tư là người nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức
giá thị trường hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ
phiếu có thể giảm xuống còn 70.000 đồng/cổ phiếu thì sẽ bị mất 30.000.000
đồng. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000 đồng/cổ phiếu =
20.000.000 đồng để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán
được 100.000 đồng/cổ phiếu. Tức là nếu như giá cổ phiếu giảm xuống dưới
100.000 đồng/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở
mức cao hơn mức giá của cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó.
Ví dụ khác: Nhà đầu tư muốn bán 1000 cổ phiếu công ty AB nhưng không
nắm toàn bộ số cổ phiếu trên. Nhà đầu tư sẽ đặt quyền chọn bán 1000 cổ
phiếu công ty AB với mức giá 100.000 đồng/cổ phiếu, nếu như giá cổ phiếu
công ty giảm xuống còn 60.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ mua lại 1000 cổ
phiếu của công ty AB với giá 60.000 đồng/cổ phiếu và bán lại với mức giá
100.000 đồng/cổ phiếu theo quyền bán mà ông đã mua. Nếu giá cổ phiếu công
ty AB tăng lên, nhà đầu tư có thể hủy quyền bán cổ phiếu và chịu thiệt hại ít
hơn (số tiền đặt mua quyền bán cổ phiếu AB với mức giá 100.000 đồng/cổ
phiếu).
Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua kỳ hạn và hợp
đồng mua bán tương lai, hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải
giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt
buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền

SVTH: Trần Thị Thiết Trang 4
Lớp 05DQN
4
Luận Văn Tốt Nghiệp GVHD: TS. Hà Thị Ngọc Oanh
hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền . Để có
quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí ; giá
trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày
định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay ngày thực hiện (Expiration date,
The exercise date hay Maturity ).
Người nắm giữ hợp đồng futures
dài hạn được quyền mua tài sản
với giá nhất định vào thời điểm
xác định trong tương lai.
Người ta không phải tốn chi phí
(ngoại trừ tiền ký quỹ theo yêu
cầu) khi tham gia thị trường
futures.
Người mua hợp đồng option có quyền
lựa chọn mua (hay không mua) tài sản
với giá xác định vào thời điểm xác định
trong tương lai.
Trên thị trường option, nhà đầu tư phải
trả trước tiền lệ phí hoặc giá của hợp
đồng option.
SVTH: Trần Thị Thiết Trang 5
Lớp 05DQN
5
Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền
chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn
vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện

quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng khoán
hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ.
Thị trường giao dịch option chứng khoán lớn nhất là Chicago Board Option
Exchange (CBOE).
Có 4 loại người tham gia trên thị trường option:
 Người mua quyền chọn mua ( Long Call )
 Người bán quyền chọn mua ( Short Call )
 Người mua quyền chọn bán ( Long Put )
 Người bán quyền chọn bán ( Short Put )
2.4 Hợp đồng hoán đổi (Swaps Contract)
Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ
trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một
quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy
đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn
lại vốn khi đến kỳ hạn.(theo www.wikipedia.org)
Ví dụ: Để có đủ ngoại tệ là đô la Mỹ cho hoạt động đầu tư tại thị trường Mỹ,
Công ty A của Việt Nam đã thoả thuận một Hợp đồng hoán đổi với Công ty B
của Mỹ, theo đó Công ty B chuyển cho Công ty A một lượng USD nhất định,
đổi lại Công ty A sẽ cung cấp đồng Việt Nam cho hoạt động đầu tư của Công ty
B tại Việt Nam.
Hợp đồng hoán đổi được sử dụng để phòng ngừa rủi ro lãi suất hay đầu cơ
vào sự thay đổi của giá cả hàng hóa cơ sở.
Các loại hợp đồng Swaps thông dụng:
 Hoán đổi lãi suất (Interest Rate Swaps)
 Hoán đổi tiền tệ (Currency Swaps)
 Hoán đổi tín dụng (Credit Swaps)
 Hoán đổi hàng hóa (Commodity Swaps)
 Hoán đối chứng khoán vốn (Equity Swaps)
3. Vai trò của công cụ tài chính phái sinh
 Quản trị rủi ro

Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro
của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là
những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại
rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không
phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn
hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển,
phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị
trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu
cơ. Bởi người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu
đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải
được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực
hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không
thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác
nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong
muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận
được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của
mình cho đối tác.
Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn
vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu
cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu,
họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính
phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu
quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo
ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện
chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có của thị trường tài sản,
chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang
những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm
bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường
không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã
hội.

 Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá
cả. Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định
giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều
hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay
của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay
của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được
xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau trên thế giới thường
nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những
thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều
góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà
những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của
mình.
 Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng
từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết
đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa,
tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong
muốn.
Thứ 3, các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các
nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch
giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm
thấy lợi nhuận.
4. Mức độ áp dụng các công cụ tài chính ở Việt Nam hiện nay:
Tại Việt Nam hiện nay thị trường phái sinh chỉ mới hình thành trên trên lĩnh
vực ngoại hối và gần đây bắt đầu trên thị trường hàng hóa (cà phê, cao su, đậu
nành của Techcombank, cà phê của BIDV, ATB), chưa xuất hiện các giao dịch
trên thị trường chứng khoán. Các giao dịch phái sinh chủ yếu là hợp đồng kỳ
hạn, quyền lựa chọn còn hợp đồng giao sau và hợp đồng hoán đổi chưa được

thực hiện.
Đối với thị trường ngoại hối, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn trên thị
trường ngoại hối được Ngân hàng Nhà nước cho phép từ năm 1998 theo quyết
định số 17/1998/ QĐ-NHNN7 ngày 10/1/1998. Với quyết định này, cho phép
các Ngân hàng Thương mại triển khai các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất và mua
bán ngoại hối kỳ hạn với khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhờ
vậy đã giúp cho các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế Đông Nam Á. Đến năm 2002, được sự cho phép của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu
Eximbank đã tiến hành thí điểm giao dịch quyền lựa chọn (Options). Mặc dù
mới đưa vào giao dịch trên thị trường, cơ chế còn khá mới mẻ nhưng bước đầu
đã được nhiều khách hàng tham gia. Sang năm 2004, trước tình hình biến động
giá cà phê trên thị trường gây rủi ro cho nông dân và các công ty xuất khẩu cà
phê, Ngân Hàng Kỹ Thương đã đứng ra làm đầu mối tổ chức cho các doanh
nghiệp thực hiện giao dịch phái sinh trên thị trường London, bước đầu mang lại
hiệu quả đáng kể.
Với tình hình hoạt động của thị trường các chứng khoán phái sinh ở Việt
Nam thời gian qua có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế sau:
° Những thành quả bước đầu:
+ Nhận thức về các công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt
động kinh doanh ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa các công cụ
phái sinh hoán đổi (Swaps), kỳ hạn (Forwards) và quyền lựa chọn (Options) vào
giao dịch trên thị trường, bước đầu Ngân hàng đã tạo được nhận thức cho khách
hàng trong việc vận dụng chúng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh hạn chế
rủi ro do biến động tỷ giá. Trên cơ sở những thành quả đạt được trên thị trường
ngoại hối hoạt động giao dịch phái sinh được triển khai sang lĩnh vực thị trường
hàng hóa, cụ thể là sản phẩm cà phê trên thị trường London được Ngân Hàng Kỹ
Thương Techcombank áp dụng, Ngân hàng Á Châu thực hiện nghiệp vụ quyền
lựa chọn mua bán vàng.
+ Cung ứng thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng

sản phẩm dịch vụ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối. Một số Ngân hàng
năng động giờ đây không chỉ tập trung vào những sản phẩm kinh doanh ngân
hàng truyền thống mà còn hướng tới nghiên cứu triển khai các phái sinh hiện
đại.
° Những hạn chế:
+ Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với như cầu thực tế: các giao dịch kỳ
hạn và giao dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối
lượng các giao dịch này ở các Ngân hàng Thương Mại vẫn còn rất ít, vẫn chưa
tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng. Điều này xuất phát từ những nguyên
nhân sau: Tỷ giá giữa USD/VND được Ngân hàng Nhà Nước can thiệp khá ổn
định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu
+ Nhận thức về các công cụ phái sinh chưa phổ biến và chưa am hiểu sâu sắc
về các công cụ từ các doanh nghiệp.
+ Tính hiệu quả kém của thị trường làm cho các giao dịch phái sinh không
phát huy hết vai trò là công cụ dựa trên những biến động ngẫu nhiên của thị
trường để hạn chế rủi ro và tạo ra lợi nhuận
+ Hệ thống thông tin thị trường chưa kịp thời và đầy đủ.
+ Giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị
trường khác vẫn chưa hình thành hoặc trong giai đoạn phôi thai. Điều này một
phần xuất phát từ nguyên nhân về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch
chứng khoán phái sinh chưa đầy đủ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể
tham gia chưa được đảm bảo do đó chưa tạo được sự quan tâm của các định chế
tài chính cũng như các nhà đầu khi tham gia trên thị trường chứng khoán trong
vận dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư kiếm lợi.
+ Khung pháp lý điều chỉnh các giao dịch phái sinh trên thị trường chưa
được hoàn thiện. Các giao dịch phái sinh mà các Ngân hàng Thương Mại kinh

×