Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Quan niệm của i kant về tự do

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.91 KB, 53 trang )

.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT
VỀ TỰ DO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN
Khoa:Triết học
Mã sinh viên : 16031924

QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT
VỀ TỰ DO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền



Hà Nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan :
Khóa luận “Quan niệm của I. Kant về tự do” là do tôi viết và chưa công
bố. Các trích dẫn trong khóa luận đều là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này .
Hà Nội , ngày 18 tháng 5 năm 2020.


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp : “ Quan niệm về tự do của
Immanuel Kant” bằng tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Khoa Triết học – trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em có môi trường học tập tốt trong
suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới cô PSG.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn
thành đề tài luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới
thầy cô và bạn bè trong Khoa đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
Phần nội dung ............................................................................................................ 6
Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do .................................... 6

1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa ............................................................ 6
1.2. Quan niệm về tự do trước Kant:.................................................................. 11
1.3. Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant ............... 15
1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Kant............................................. 21
Chương 2 . Nội dung cơ bản quan niệm của Kant về tự do .................................... 24
2.1. Khái niệm của I. Kant về tự do...................................................................... 24
2.2. Quan niệm của I.Kant về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu ....................... 26
2.3. Tự do thực hành ............................................................................................. 29
2.4. “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao.......................................... 35
2.5. Đánh giá quan niệm về tự do của Kant ......................................................... 40
2.5.1. Giá trị của quan niệm tự do của Kant ...................................................... 40
2.5.2. Hạn chế của quan niệm tự do của Kant ................................................... 42
Phần kết luận ............................................................................................................ 43


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ thời cổ đại đến nay, tự do vẫn luôn là cái đích mà loài người
hướng đến, con người đã trải qua các cuộc đấu tranh phá bỏ gông cùm, xiềng
xích về mọi mặt để vươn mình đến với tự do theo nghĩa đầy đủ nhất. Với tư
cách là một phạm trù triết học, khái niệm tự do không ngừng vận động, phát
triển qua từng thời kì, gắn với quan điểm của các nhà tư tưởng khác nhau. Tự
do là khát vọng thường trực trong mỗi con người. Tự do đã trở thành bản chất
tự nhiên, bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng
ao ước nó. Chính vì thế, không một
con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một
dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng
chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và áp bức.
Tự do là một chủ đề xuất hiện sớm và được bàn luận nhiều nhất ở phương Tây,
kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng có lẽ phải đến thời kỳ Khai sáng mới đánh

dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử hướng tới văn hoá, văn minh, mà
còn trong nhận thức của con người. Các nhà tư tưởng thời kỳ này không phải
những người đầu tiên bàn về tự do nhưng họ là những người có công rất lớn
trong việc xây dựng những nhận thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về
các giá trị của nó. Kant chính là một trong số những nhà tư tưởng tiêu biểu đó.
Để cho thấy tính chất thực tại khách quan của tự do, chúng ta cần tìm hiểu
những tương quan giữa tự do và các yếu tố khác như: tất yếu, các quy luật đạo
đức... Từ đó, ta sẽ thấy được tự do theo Kant được quy định như thế nào, và có
ý nghĩa như thế nào đối với con người. Việc Kant đưa ra quan điểm về tự do
đã góp phần như thế nào trong việc phát triển con người. Đi sâu nghiên cứu
quan niệm của Kant về tự do góp phần khẳng định giá trị của quan niệm triết
học Kant nói chung và quan niệm về tự do nói riêng.

1


Trong bối cảnh xã hội hiện nay, thì tự do vẫn luôn là vấn đề quan trọng
trong xã hội. Do sự phát triển ngày càng cao của xã hội, nên nhận thức về tự do
cũng ngày càng khác biệt. Ở nước ta, nhận thức về tự do cũng có sự khác nhau
giữa các tầng lớp người trong xã hội, xuất hiện những quan niệm đặc biệt ở lớp
trẻ về việc Việt Nam không có tự do, hay quyền tự do bị xâm phạm. Để có cái
nhìn đúng về vấn đề này thì việc nâng cao nhận thức cho mỗi người về tự do
có ý nghĩa quan trọng. Việc trở lại nghiên cứu quan niệm của các nhà triết học
trong lịch sử về vấn đề tự do sẽ giúp chúng ta có được một cơ sở lý luận cho
cách hiểu về tự do. Với những lý do trên, tôi chọn: “Quan niệm của I.Kant về
tự do” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
Immanuel Kant là nhà triết học có ảnh hưởng lớn đến nền triết học
phương Tây nói chung và đặc biệt là triết học Cổ Điển Đức nói riêng. Điều
này được thể hiện qua hơn 1000 luận văn chuyên đề và những tập tiểu luận

được phát hành năm 2004, kỉ niệm 200 ngày qua đời của ông. 1100 người đã
tham dự Hội nghị quốc tế Kant lần thứ IX tại Berlin năm 2000 . Công trình
Nghiên cứu Kant (Kant-Studien) được Hans Vaihinger thành lập năm 1896
với hơn 25 luận văn mỗi năm, sau được xem là diễn đàn của Học hội Kant
(Kant-Gesellschaft) tại Halle/Saale, được thành lập năm 1904 kỉ niệm 100
năm ngày mất của ông. Có Viện nghiên cứu Kant (Kant-Forschungsstelle)
tại đại học Mainz, một công trình tại Bonn nhằm công bố các tác phẩm của
ông bằng những phương tiện điện toán cũng như Kho tư liệu Kant
tại Marburg (Marburger Kant-Archiv). Cũng có một số triết gia Nhật
Bản theo học thuyết của Immanuel Kant và họ cũng lập một Học hội Kant
riêng. Tại thủ đô Tōkyō, trong đền Triết gia, người ta treo một bức tranh
mang tên "Bốn người minh triết trên thế gian", trên đó thể hiện hình ảnh Đức
Phật, Khổng Phu Tử, Sokrates và Kant. Có thể thấy từ ngày ông mất, những
tư tương , quan điểm của hệ thống triết học của ông đã được rất nhiều nhà
triết gia nghiên cứu lại ở nhiều lĩnh vực khác nhau như : chính trị, đạo đức,
pháp quyền, lịch sử ,.... Và ở Việt Nam, những vấn đề trong hệ thống triết
2


học của Kant vẫn là đề tài hấp dẫn các nhà nghiên cứu, các triết gia . Tuy
nhiên, những vấn đề , những tài liệu liên quan đến Kant không được dịch ra
tiếng Việt nhiều, trong chương trình giảng dạy có đưa vào giảng dạy nhưng
nó còn quá ít để tầng lớp trẻ ngày nay hứng thú và tìm hiểu.
Mặc dù vậy, ở Việt Nam vẫn có rất nhiều học giả đã công bố và xuất
bản chính thức các công trình nghiên cứu về triết học của Kant ở nhiều vấn đề
phương diện khác nhau . Trong đó, các học giả cũng dành một phần đáng kể để
luận giải về đạo đức của ông, đặc biệt khái niệm “tự do” . Cụ thể , trong cuốn
I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức của viện Triết học , do nhà
xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1997, các tác giả không chỉ luận giải
về triết học Kant , mà còn đề caapk đến những vấn đề trọng tâm trong đạo đức

học của ông như con người và tương lai của loài người, “tự do”, “quy luật đạo
đức” , “đức tin”,.. Tương tự trong Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIX –
triết học Immanuin Cantơ của Nguyễn văn Huyên , do nhà sản xuất bản Khoa
học xã hội phát hành năm 1996, tác giả xungz đề cập một cách trực diện đến
những khái niệm quan trọng trong đạo đức học của I, Kant như “mệnh lệnh
tuyệt đối”, “tự do” . Còn trong triết học Cổ Điển Đức : những vấn đề nhận thức
luận và đạo đức học của trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn , Đại học
Quốc gia Hà Nội , do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2005,
các học giả cũng không bỏ qua cơ hội để cùng nhau bàn luận về các chủ đề
chính yếu trong đạo đức học của Kant , chẳng hạn như : “ bổn phận” , “trách
nhiệm”, “nghĩa vụ”, “ mệnh lệnh tuyệt đối” , “tự do”, “mục đích tự thân”,
“những nguyên tắc đạo đức”, “hạnh phúc”, “đức tin” , ý nghĩa của học thuyết
đạo đức của Kant, .. Tuy nhiên , theo chúng tôi , những công trình nghiên cứu
này mới chỉ dừng lại ở chỗ luận giải một cách tản mạn về một vấn đề trong đọa
đức học của Kant , chứ chưa phải là sự trình bày chặt chẽ, đầy đủ và có hệ
thống ; đặc biệt , các học giả chưa khai thác triệt để “tự do”, vốn là khái niệm
trọng tâm trong đạo đức học của ông, để từ đó làm rõ hơn nữa giá trị nhân văn
mà học thuyết này mang lại cho xã hội loài người nói chung và cá nhân nói
riêng. Riêng cuốn Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh , do nhà xuất bản Văn
3


hóa thông tin tái bản lần thứ ba năm 2005, tác giả đã trình bày khá đầy đủ và
hệ thống về đạo đức học của Kant. Tác giả cũng dành phần lớn công sức của
mình để luận giải về “tự do” và “sự tự chủ” , “tự do” và đối tượng của đạo đức
học ( Sự Thiện hoàn hảo), chứ chưa đi sâu vào phân tích nội hàm của khái
niệm “ tự do” cũng như nguồn gốc ra đời của khái niệm này trong đạo đức học
Kant.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam đã đề cập
và luận giải được những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của Kant. Tuy

nhiên, tôi thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu dành
riêng để luận giải về “tự do” cũng như nội hàm của nó . Vì vậy , luận văn này
tôi sẽ bổ sung những luận giải cũng như nội hàm giá trị mà quan niệm “tự do”
của Kant mang lại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận tập trung làm rõ quan niệm của I.Kant
về tự do, từ đó đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm đó.
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất, trình bày điều kiện, tiền đề ra đời quan niệm của I.Kant về tự
do.
Thứ hai, phân tích nội dung cơ bản của quan niệm tự do của I.Kant.
Thứ ba, đưa ra đánh giá về những giá trị cũng như hạn chế của quan
niệm của I, Kant về tự do.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: quan niệm về tự do của I. Kant
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung
chủ yếu của quan niệm tự do của I.Kant.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận

Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
4


5.2.


Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng các phương pháp cơ bản sau: phân tích, so sánh, tổng
hợp, kết hợp giữa lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp…
6. Đóng góp của khóa luận:
Khóa luận tìm hiểu những khía cạnh của quan niệm tự do trong triết học
Kant để từ đó làm sáng tỏ những giá trị đặc biệt cũng như những hạn chế ở
quan niệm “tự do” của ông.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận:
7.1.

Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã trình bày những quan niệm về tự do của Kant ở những khía
cạnh mới hơn không chỉ đơn thuần là chỉ trong mối quan hệ với đạo đức
7.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Bài luận có thể dung làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và học tập về
triết học cũng như quan niệm tự do của Kant
8. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 2 chương và 9 tiết

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do

1.1.

Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa
Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren

và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng
lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm
quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên
lỗi thời.
Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh,
Pháp... đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Cách
mạng công nghiệp Anh như một biến cố kinh tế quan trọng nhất trong đời sống
kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy vọt của sản xuất,
làm tăng trưởng mạnh mẽ trình độ, khối lượng và nhịp độ sản xuất. Bên cạnh
đó, các cuộc Cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở đường cho phát triển
các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng Tư sản Pháp (1789 –
1794).
Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại:
“Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người
trong nhận thức thế giới, cách mạng Tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo
thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh
công nghiệp” [12, 8].
Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, hai cuộc cách mạng đó đã có những ảnh
hưởng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, chấm dứt sự thống
trị của chế độ phong kiến hàng nghìn năm gắn liền với hệ thống thần quyền
và giáo luật khắt khe, mở đầu cho sự ra đời và phát triển của chế độ tư bản.
Chủ nghĩa tư bản ra đời đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong
lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trước đó. Bước
chuyển đó đã đem lại cho châu Âu một diện mạo mới với những thành tựu

khổng lồ về kinh tế - xã hội và văn hóa nhân loại đã đạt được trong thời kỳ
6


bình minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản. Đó là những tiền đề quan
trọng thúc đẩy khoa học nói chung và triết học nói riêng phát triển. Đặc biệt
đối với triết học, sự chuyển biến được thể hiện rõ. Trong thời đại tư bản chủ
nghĩa, hệ thống thần học như một chiếc áo khoác lên, che đậy cho chủ nghĩa
duy tâm, chủ nghĩa kinh viện giáo điều với những lý luận hoàn toàn hướng
con người tới một thế giới ảo tưởng, xa rời hiện thực cuộc sống đã bị cởi
bỏ, thay thế bởi chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy lý. Triết học
thâm nhập khám phá cuộc sống, tìm hiểu những bí ẩn trong lý tính của con
người. Các nhà tư tưởng tư sản trả lại cho con người những quyền mà hệ tư
tưởng phong kiến đang phủ nhận: quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền
sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Con người phải
vươn tới trí tuệ tự do và đích thực. Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách
mạng tư sản và bước ngoặtcông nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh
nhất, nước Pháp nhờ Cách mạng Tư sản 1789, giai cấp tư bản đã tiêu diệt chế
độ phong kiến, đang tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, cả châu Âu
đang phát triển nhanh và mạnh mẽ, nhưng trái lại nước Đức vẫn triền
miên trong giấc ngủ Đông – vẫn còn là một nước phong kiến lạc hậu, với chế
độ quân chủ chuyên chế phân quyền, bị phân hóa cả về kinh tế lẫn chính trị.
Triết học I.Kant đã ra đời trong hoàn cảnh đó, một nước Đức hết sức phức
tạp và đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa. Sau khi thất bại trong chiến
tranh nông dân (1525), thế kỷ XVII, nước Đức lại trải qua cuộc chiến
tranh 30 năm kéo theo hậu quả nghiêm trọng là sự tàn phá ghê gớm, nặng nề
cả về con người và của cải. Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một nước
nghèo nàn, lạc hậu, phát triển trì trệ so với các nước Tây Âu xung quanh. Tập
đoàn phong kiến Đức đang thống trị độc đoán và ngoan cố. Liên bang Đức chỉ
tồn tại về hình thức, thực tế đất nước còn phân thành nhiều tiểu vương quốc

tách biệt nhau với hàng trăm cát cứ phong kiến. Đứng đầu mỗi cát cứ là một
chúa đất có quyền lực vô hạn đối với thần dân của mình. Trong mỗi lãnh địa
đều có quân đội, cảnh sát, tiền tệ và thuế quan riêng. Sự phân tán về kinh tế,
7


chính trị cùng với sự bảo thủ độc đoán của triều đình Phổ là lực cản lớn của
nước Đức trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Về kinh tế: nền kinh tế thị trường bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế sản
xuất phong kiến lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ,
những tàn dư của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự phụ thuộc
lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị phản
động…đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm tăng thêm mức độ lạc hậu của
nước Đức so với các nước phát triển tư bản chủ nghĩa. Năng suất lao động
thấp, đời sống của đại đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo nàn,
cùng cực. Toàn cảnh nền kinh tế nước Đức lúc bấy giờ hết sức manh mún, trì
trệ và phân tán.
Về chính trị: Vua Friedrich Wilhem II đứng đầu triều đình Phổ lúc bấy
giờ vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ
chuyên chế hà khắc, muốn nhân dân mình quay trở về thời trung cổ, ngăn cản
đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy, song giai cấp tư
sản nước Đức lúc đó vẫn còn non nớt và yếu đuối, chưa có đủ điều kiện chín
muồi cho việc nổi dậy giành chính quyền. Chính vì thế, cả nước Đức bao
trùm một bầu không khí ngột ngạt, bất bình của nhân dân.
Về tư tưởng: Hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý
luận. Thần học là khoa cơ bản trong các trường đại học. Triết học và các môn
khoa học xã hội khác nhiều khi chỉ là sự biện hộ và bảo vệ cho thần học.
Người cha tinh thần của triết học Đức lúc đó là Christian Wolft, người kế tục
tư tưởng duy tâm của Lépnít. Đa số học trò của Wolft đều chiếm những vị trí
quan trọng trong các trường đại học Đức lúc bấy giờ. Triết học tiến hành cuộc

thỏa hiệp với tôn giáo và đành nhượng bộ nó trong nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức đương thời phủ một
màu xám, đúng như lời khắc họa của Ăngghen: “Không ai cảm thấy mình dễ
chịu…Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nước. Không có
giáo dục…không có tự do báo chí, không có dư luận xã hội - không có gì cả
ngoài sự đê tiện và tự tư tự lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót
8


thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp
sụp đổ, thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc
thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”
[4, 754].
Trước ảnh hưởng như vũ bão của các cuộc cách mạng tư sản trên thế
giới, đặc biệt là Cách mạng Tư sản Pháp (1789), cùng với bối cảnh kinh tế xã
hội phức tạp, rối ren và đầy mâu thuẫn của nước Đức lúc bấy giờ đã tác động
mạnh tới tư tưởng của giai cấp tư sản Đức. Họ đã đặt ra vấn đề cách mạng,
nhưng không phải trong thực tế mà chỉ trong tư tưởng mà thôi. Bởi vì,
không giống như các nhà tư tưởng Pháp, các nhà tư tưởng Đức không
đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như các nhà hoạt động khác
thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm chính vì thế họ
không dám làm một cuộc cách mạng trong hiện thực mà chỉ làm cuộc
cách mạng trong tư tưởng. Giai cấp tư sản non yếu đang trong quá trình tích
lũy tư bản vẫn phải dựa vào sự bảo hộ của quý tộc nên cuộc đấu
tranh chính trị mạnh mẽ với giới quý tộc là điều mà họ chưa thể nghĩ tới. Điều
đó được phản ảnh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại
trật tự phong kiến và cuối cùng thể thiện ở sự thỏa hiệp của họ. Các học
thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức duy tâm và yếu
hèn, không thể làm cơ sở cho sự cải tạo tư sản nước Đức theo mong muốn mà
tuyên ngôn của họ đã nêu: tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người.

Trong tầng lớp trí thức Đức thời bấy giờ xuất hiện tình trạng bi quan, bất mãn
và bất lực. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tư tưởng cải lương, thỏa hiệp,
phủ nhận sự cải tạo xã hội cũ bằng bạo lực cách mạng, biện hộ cho sự tồn
tại của nhà nước Phổ và xã hội đương thời. Họ lấy triết học làm vũ khí
phê phán và chuyển tải tư tưởng cách mạng. Triết học là nơi gửi gắm, thể hiện
khát vọng cải tạo hiện thực của con người. Sự tìm lối thoát trong triết học ấy
đã được C . Mác nhận xét: “Giống như các dân tộc cổ đại đã trải qua thời kỳ
tiền sử của mình trong tư tưởng, trong thần thoại, những người Đức chúng ta
cũng vậy, chúng ta đang trải qua lịch sử tương lai của chúng ta trong tư
9


tưởng, trong triết học…Triết học Đức là sự tiếp tục của lịch sử Đức trong ý
niệm” [4, 557]. “Cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng
triết học Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước một cuộc cách mạng chính trị”[5,
39], nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư
sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ
đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết vấn đề
phát triển đất nước.
Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí thức
Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến I.Kant. Là một học giả chỉ nghiên
cứu khoa học và triết học, bận rộn với công việc giảng dạy cũng như giải thích
các thành quả nghiên cứu của mình, I.Kant ít quan tâm đến các vấn đề chính
trị, ngại đụng chạm đến chính quyền nhà nước. Nhưng ông lại có một tấm
lòng nhân đạo cao cả, có thiện cảm với quần chúng nhân dân lao động nghèo
khổ. Trong suy nghĩ của nhà triết học diễn ra mâu thuẫn với các câu hỏi:
cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được hai mục đích: 1) nói lên
tư tưởng khoa học, đề cao vai trò lý tính, phản ánh nguyện vọng muốn thay
đổi chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc bằng một xã hội dân chủ tư sản,
đem lại quyền lợi đích thực cho mọi công dân xã hội; 2) làm vừa lòng chính

thể nhà nước hiện tồn. Mâu thuẫn tâm lý đó chuyển thành mâu thuẫn tư tưởng
và biểu hiện một cách cụ thể trong học thuyết triết học của I.Kant, đúng như
lời nhận xét của Giáo sư Trần Đức Thảo: “Sự bất lực trong tư tưởng của Kant
phản ánh sự bất lực của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ thống
châu Âu đã tiến bộ nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản” [23,
390]. “Tư tưởng của Kant biểu hiện những ưu khuyết điểm của cách
mạng tư sản một cách đúng đắn” [22, 419]. Dưới sự tác động của cả hai sức
ép: một bên là sự cổ vũ mạnh mẽ của các nhà khai sáng, cách mạng tư
sản Pháp- những tư tưởng tiến bộ; một bên là sức ép chính trị của chính
quyền chuyên chế Phổ đương nhiệm với chính sách trừng trị hà khắc đối với
những học giả có tư tưởng chống đối nhà nước, I.Kant cũng đã chọn
con đường cải lương, thỏa hiệp với luận điểm: “Tôi phải dẹp bỏ nhận thức đi
10


để dành chỗ cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu hình học” [15, 55]
Tóm lại, triết học I.Kant nói chung và quan niệm về tự do nói riêng là sản
phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội Đức đầu thế kỷ XVIII; nó phản
ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu thuẫn phát sinh
trong lòng xã hội đó. Đồng thời triết học I.Kant cũng là sự khai phá tiến bộ trên
lĩnh vực tư tưởng, được coi là “lý luận Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp”
1.2.

Quan niệm về tự do trước Kant:
Trong triết học xã hội, “Tự do” với tư cách một phạm trù được quan

niệm là cái cần cho con người trong việc tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần
để thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn bộ khả năng và thiên hướng của
mình. Ý thức về tự do và vươn tới tự do chỉ có trong xã hội loài người. Toàn
bộ kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ rằng, tự do là giá trị thiêng liêng và là đặc tính

bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống. Phạm trù “Tự do”
dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt động phù
hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp hay cản
trở từ bên ngoài. Đó mới chỉ là định nghĩa tương đối và đơn giản về tự do.
Trên thực tế, tự do là một phạm trù mở, hiểu và thể hiện tự do trong đời sống
là một quá trình mâu thuẫn và có tính hai mặt. Vì thế trong lịch sử nhân loại đã
có nhiều nhà triết học bàn về vấn đề này, từ Arixtốt, Êpiquya đến C.Mác, từ
phái Khắc kỷ đến chủ nghĩa Hiện sinh.
Tự do là một phạm trù lịch sử, việc nhận thức và lý giải nó gắn liền với
các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở Hy Lạp, La Mã cổ đại chưa hình thành lý luận
riêng về tự do, mà chỉ có những cuộc đấu tranh vì tự do, tiêu biểu thời kỳ này
phải kể đến Arixtốt - nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng đã đề cập đến năng
lực lựa chọn tự do từ bình diện đạo đức - chính trị. Ông cho rằng, con người
với tư cách sinh vật xã hội, luôn biết chọn cho mình cách sống và lối ứng xử
phù hợp với lý trí. Năng lực lựa chọn tự do không có nghĩa là vượt quá khuôn
khổ của các quy tắc, các chuẩn mực truyền thống, là sự khẳng định cái Tôi một
cách vô nguyên tắc. Nó phải dựa trên sự nhận thức về vị trí của cái Tôi giữa
những cái Khác. Trong đạo đức học, năng lực đó là “tính trung dung” - chọn
11


cái tối ưu từ nhiều cái tốt, khắc phục cả sự bất cập lẫn sự thái quá. Và, do vậy,
“trung dung” khác với “ba phải”, lưng chừng, lại càng khác với thái độ lãnh
đạm, dửng dưng trong cuộc sống [8,215]. Êpiquya cũng là một đại diện của
nền triết học Hy Lạp cổ đại, ông đã đem lại những suy nghĩ mới về vấn đề tự
do. Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người
khỏi mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời
sống cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc,
tránh mọi khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường.
Và, tự do như thế mới là tự do mang tính người. Rằng, tự do là không bị lệ

thuộc vào thói quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái
chết, không thừa nhận vai trò của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất.
Cần thấy rằng, sự sụp đổ của thế giới cổ đại bởi những mâu thuẫn bên
trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di” từ bên ngoài một phần liên quan
đến vấn đề tự do, cả trong tư tưởng lẫn trong hiện thực. Chế độ chiếm hữu nô
lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó đã tước bỏ thiên chức làm người
của 3/4 dân số, biến họ thành nô lệ, thành “công cụ biết nói” và đối xử với họ
như hàng hóa có thể trao đổi giữa các chủ nô. Cùng với đó, quan niệm về
“công dân” và “nô lệ” cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người
không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật có tinh thần. Điều này giải
thích vì sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kitô giáo vào đầu Công
nguyên được xem như sự giải thoát tinh thần, như lời cảnh tỉnh về cái chết khó
có thể tránh khỏi của chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời của Kitô giáo là một
hiện tượng cách mạng trong sinh hoạt tôn giáo; nó là tôn giáo của người nghèo,
của quần chúng bị áp bức, là sự tuyên truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ. Quá trình hợp pháp hóa Kitô
giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã hội chủ nô - nô lệ
bằng quan hệ xã hội đi dần vào quỹ đạo của xã hội phong kiến cuối thế kỷ IV đầu thế kỷ V. Sau khi trở thành quốc giáo, Kitô giáo đòi quyền độc tôn trong
sinh hoạt tinh thần, trở thành một vương quốc với quyền uy tối thượng. Một
khi đa nguyên triết lý được thay thế bằng uy quyền tư tưởng thì tự do cũng
12


hàm chứa ý nghĩa khác trước. Khi đó, thay vì tranh luận để tìm kiếm chân lý,
các đại diện của tư tưởng Kitô giáo đòi hỏi tranh luận làm sáng tỏ những chân
lý sẵn có. Lấy Kinh thánh làm nền tảng, làm chân lý bất biến, tuyệt đích, các
Giáo phụ xem lý trí chỉ là kẻ phụng sự đức tin. Lactantius còn đưa ra lời
khuyên nên quàng vào cổ của lý trí một cái ách để định hướng nó. Tự do được
giải thích theo quan điểm thần trí học (Theosophy), nhận thức và hành động tự
do gắn liền với nhận thức về sự sáng tạo bởi chúa Trời. Đại diện tiêu biểu cho

triết học Kitô giáo là Ôâguýtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tômát Đacanh trong
triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên
chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh
thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị
biến thành nô lệ thì sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tômát
Đacanh cho rằng, tự do với tư cách một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng
buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế
là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực, biện minh cho tự do ảo tưởng,
phi hiện thực. Phục hưng là sự kết thúc đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là
sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitô giáo về tự do, chỉ còn giữ lại tính hình
thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà Chúa ban cho con
người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn phương thức
sống và tín ngưỡng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể
hiện ra ở cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết
Thần là trung tâm được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa
thầy tu khổ hạnh được thay bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được
thay bằng thuyết tự do cá nhân.
Đến thời kỳ cận đại, tự do càng được các nhà triết học chú trọng nhiều
hơn , tiêu biểu có thể kể đến những cái tên tiêu biểu như Thomas Hobbes,
John Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau. Đối với Hobbes, con người sinh ra là
tự do, bình đẳng, theo ông có tự do trong trạng thái tự nhiên và tự do trong
trạng thái nhà nước Trong trạng thái tự nhiên, con người luôn cảm thấy bị đe
13


dọa, không được an toàn, luôn cảm thấy bất an. Mặc dù con người được tự do
làm điều gì đó mà mình thích, nhưng sự tự do đó luôn bị đe dọa bởi những
người khác. Ông viết: “Trong xã hội không có pháp luật, cuộc sống của con
người, sẽ trở nên “đơn độc, nghèo nàn, thô tục, hung ác và ngắn ngủi” [3,

tr.441]. Còn với Locke , ông quan niệm trạng thái tự nhiên không phải là trạng
thái lộn xộn. Trạng thái tự nhiên “có luật tự nhiên để cai quản, bắt buộc mọi
người phải tuân thủ; và lý trí - vốn là luật này - huấn thị cho toàn thể loài người
- những người có ý chí riêng cũng phải tham vấn nó, rằng tất cả đều phải bình
đẳng và độc lập với nhau. Không ai được phép làm hại đến sinh mạng, sức
khoẻ, tự do, hay tài sản của người khác” [3, tr.35-36]. Con người sống trong
một trạng thái tự nhiên là sống trong trạng thái tự do. Trong trạng thái tự nhiên,
sự tự do của con người là tuyệt đối, mọi người đều có “quyền bình đẳng tự
nhiên”; ai cũng có quyền ước muốn bất kỳ điều gì, có quyền với bất kỳ điều
gì. Còn đối vơi Montesquieu, ông cho rằng tự do là sự yên tâm của mỗi người
khi thấy mình được an toàn; tự do của mỗi công dân có quan hệ chặt chẽ với
việc chính quyền thực thi quyền lực của mình (cụ thể ở đây là việc áp dụng
luật pháp). của mỗi người khi thấy mình được an toàn; tự do của mỗi công dân
có quan hệ chặt chẽ với việc chính quyền thực thi quyền lực của mình (cụ thể ở
đây là việc áp dụng luật pháp). Tự do được là một quyền lợi tối cao của công
dân. Nếu như quyền lực chỉ nằm trong tay một người và được áp chế một
chiều từ trên xuống thì không thể có tự do.Còn về phần J.J.Rousseau, ông cho
rằng tự do tự nhiên chỉ hạn chế chật hẹp trong khả năng sức lực của cá nhân;
còn “quyền tự do dân sự” có “giới hạn rộng rãi, là ý chí chung của nhiều
người. khi bàn về “tự do”, Rousseau không thiên về luận giải ý nghĩa triết học
của khái niệm ấy, mà luận giải chủ yếu từ ba phương diện: tự do tự nhiên, bẩm
sinh vốn có, là cái mà người ta về sau đã phải “hy sinh” để có được tự do dân
sự và tự do luân lý. Để đạt được tự do dân sự và tự do luân lý, con người phải
tuân thủ ý chí chung, ý chí tối thượng. Điểm nổi bật trong quan niệm về tự do
của Rousseau là tư tưởng chống lại mọi hình thức nô lệ, đồng thời khẳng định
14


vai trò hết sức quan trọng của bình đẳng, với tư cách là điều kiện tiên quyết để
có được tự do như là quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người.

Từ đó ta thấy được quan niệm về tự do trước Kant vẫn là tự do mà phần
nhiều hướng đến tự nhiên, vẫn hướng đến tự do không theo một nguyên tắc
nào mà chỉ do theo chính bản thân con người hoặc có theo những quy tắc
thống nhất thì nó cũng mới là bước đầu xây dựng .
1.3.

Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant
Từ trước đến nay, vấn đề con người được đặt ra và nghiên cứu trong

triết học từ rất sớm trước Kant. Chẳng hạn, Protagore khẳng định: "Con người
là thước đo của mọi vật". Socrate đưa ra mệnh đề nổi tiếng: "Con người hãy tự
nhận thức chính mình". Aristote cho rằng, "con người là động vật chính trị".
Các nhà triết học kiêm thần học thời trung cổ coi con người như là sản phẩm
của Thượng đế, còn đời sống của nó là sự thực hiện mệnh trời. Các nhà khai
sáng Pháp xem con người như là giá trị cao nhất sáng tạo ra tất cả mọi giá trị
văn hoá trên trái đất, là thực thể có lý tính của vũ trụ mà tất cả phải xuất phát
từ đó và quay về đó. Khi tiếp thu những thành quả nghiên cứu về con người
của các nhà triết học tiền bối, Kant đã nhận ra rằng, vấn đề con người trong
siêu hình học cũ mới chỉ dừng lại ở mức độ chung . Kế thừa những quan điểm
triết học tiền bối về con người và những ý tưởng nhân đạo trong huyền thọai và
cả trong Kinh thánh, bằng những hiểu biết của mình, Kant đã thực sự định hình
một hướng mới trong nghiên cứu triết học - triết học nhân học.
Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học I. Kant, người
ta cũng có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí
con người. Chỉ có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người
ở I. Kant cũng rất khác biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo I. Kant, "thế
giới vật tự nó" là thế giới dành cho cảm giác. Do vậy, thế giới đó đóng kín đối
với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo cách giải thích của I. Kant, đối
với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt nhiên không thể vươn
tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của I. Kant, luôn sống trong cả

15


hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có thể
đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm).
Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo I. Kant, đó là giới tự nhiên.
Còn thế giới mà trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do là khả năng tiên
nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy
luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách
tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động
và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối
bởi tính thực tiễn. Lý tính được gọi là thực tiễn, theo I. Kant, là lý tính mà ý
nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con người. Động lực của lý tính
thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con người. I. Kant gọi ý chí của
con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con người được quy
định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên nhân
thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về
Thượng đế. Theo I. Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy
luật, luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt
ra cho bản thân mình.
Như đã nói ở trên, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu
tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học
thành một khoa học độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được
xác lập, I. Kant coi nhân học, mà trước hết là nhân học triết học (philosophical
anthropology) là một ngành có đối tượng riêng của mình, có phương thức
nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S. Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn
cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con người”[27], thì "I. Kant là người
đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con người là một thực thể
độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc đáo. Con người
- là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để khám phá

bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc lập.
Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học
truyền thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức,
16


lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội,
triết học lịch sử”.[ 27]
Tư tưởng đề cao tính đặc thù của con người, coi con người là một thực
thể bí ẩn, độc nhất vô nhị, vượt ra ngoài khả năng khám phá của các công cụ
nhận thức truyền thống, kể cả bản thể luận và nhận thức luận, kể cả logic học,
đạo đức học và thẩm mỹ học, kể cả triết học tự nhiên, triết học xã hội và triết
học lịch sử… là một tư tưởng rất độc đáo, trước I. Kant chưa từng được phát
biểu một cách tường minh trong kho tàng tri thức nhân loại (Diogiene và
Socrate tuy dường như cũng có nói đến sự bí ẩn của đời sống con người, song
các ông hướng tới khám phá sự bí ẩn đó bằng các công cụ duy lý của tư duy
trừu tượng). Với I. Kant, tính bí ẩn và độc nhất vô nhị của sự tồn tại người
được khẳng định là vượt ra ngoài khuôn khổ của nhận thức duy lý; bởi vậy,
nhận thức con người là nhằm luận giải những hiện tượng cá nhân đầy bản sắc,
những hành vi và hoạt động phức tạp của con người trong các thiết chế xã hội
đã từng tồn tại trong lịch sử. Tư tưởng này về sau được S.Kierkegaard, F.
Dostoievski, M. Heidegger, H. Rickert, M. Scheler, J. Sartre cùng một số nhà
triết học hiện sinh khác khai thác và phát triển thêm làm lộ ra rõ hơn tính hợp
lý của nó. Với sự ứng dụng ngày càng sâu hơn của thông diễn học
(heurmernetics), tư tưởng này càng được thể hiện và được chứng minh là một
hướng đi rất chủ yếu trong nhận thức con người với tất cả tính phức tạp của đối
tượng này - con người, một thực thể vừa sinh học vừa xã hội, vừa cá nhân vừa
tộc loại,vừa vật chất trần tục vừa tinh thần thiêng liêng…
Vấn đề là ở chỗ, với I. Kant, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức
thế giới; chỉ có thông qua con người, các vấn đề của nhận thức thế giới mới

được giải quyết. I. Kant viết: "Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà
con người học được là ứng dụng những tri thức và những kinh nghiệm đã thu
nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng quan trọng nhất trong thế giới mà
những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con người, chừng nào con
người còn là mục đích tự thân cuối cùng"[28] . Khi xác định nhiệm vụ cho triết
học, I.
17


Trong toàn bộ triết học của Kant , các tác phẩm của ông chủ yếu trả lời
ba câu hỏi lớn
1.

Tôi có thể biết được điều gì ? câu hỏi này được trả lời trong tác

phẩm Phê phán lý tính thuần túy
2.

Tôi cần phải làm gì ? Câu hỏi này được trả lời trong tác phẩm Phê

phán lý tính thực tiễn
3.

Tôi có thể hy vọng vào cái gì ? Ông trả lời câu hỏi này trong tác

phẩm Phê phán khả năng phán đoán
Trả lời ba câu hỏi trên nhằm lý giải cho vấn đề cơ bản nhất trong triết học :
Con người là gì ?
Kant cho rằng con người bao gồm thân xác và lý tính. Thân xác con
người thuộc về thế giới hiện tượng , còn lý tính là năng lực tinh thần tiên

nghiệm thuộc về thế giới vật tự nó . Bản thân lý tính cũng được phân đôi
thành lý tính lý luận ( lý tính thuần túy ) và lý tính thực tiễn .
Lý tính lý luận là năng lực tinh thần tiên nghiệm thể hiện ở khả năng
nhận thức của con người . Nhờ năng lực tinh thần tiên nghiệm :cảm năng , trí
năng , lý năng , vối những công cụ nhận thức tiên thiên , con người có được tri
thức về đối tượng .
Lý tính thực tiễn là năng lực tinh thần giúp ra lệnh cho con người hành
động trong quan hệ của con người với thế giới. Lý tính thực tiễn là khả năng
tiên thiên, sẵn có ngang nhau ở tất cả mọi người .
Theo Kant, con người có lương tri, lương tâm, ý thức đạo dức là do con
người hành động theo sự chỉ dẫn của lý tính thực tiễn. Hành động này của con
người không phụ thuộc vào cái gì bên ngoài mà chỉ theo sự “lệnh bảo” của lý
tính thực tiễn phụ thuộc và chính mình. Trong quan niệm của Kant , ý thức đạo
đức là cái hoàn toàn dựa tren lý tính , chứ không phải dựa trên tình cảm và
những toan tính dục vọng và tư lợi .
Lý tính, hơn nữa lý tính thực tiễn là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý và
chuẩn mực đạo đức. Và hành động của con người được coi là hành động đạo
đức khi làm theo yêu cầu của lý trí, cái mà Kant gọi là "mệnh lệnh tuyệt đối”.
18


Ông gọi là mệnh lệnh tuyệt đối để phân biệt với Mệnh lệnh giả thiết- là mệnh
lệnh được thực hiện vì một mục đích, một quyền lợi có tính nhân quả nào đấy.
Nói tóm lại mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh khuyến khích hoặc ngăn chặn các
hành vi đạo đức của con người một cách có điều kiện. Còn mệnh lệnh tuyệt đối
là mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiêm ân trong
trái tim, khối óc, mang tính phổ quát tất yếu. Mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện khá
năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà không vụ lợi, không tính
toán thiệt hơn.
Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung, đòi hỏi mọi

người trong xã hội phải thực hiện.
Trong cách nhìn của Kant thì hành động của con người cũng bị phân
thành hai. Con người hành động theo sự chỉ đạo của lý tính thuần tuý là hành
động mất tự do vì lệ thuộc vào mục đích của chủ thể, đó là hành động không
đưa tới hạnh phúc và đạo đức chân chính. Hành động của con người theo sự
lệnh truyền của lý tính thực tiễn là hành động không lệ thuộc, con người trở
thành tự do và hành động đó là hành động đạo đức : “con người chỉ có thể hy
vọng vươn tới cái Thiện đích thực, cái Thiện tự nó khi hướng hoạt động, hành
động của mình theo sự mách bảo của lý tính thực tiễn”.[13]
Và “Như thế, trong lúc Kant giới hạn lý tính thuần tuý lý thuyết bằng
cách giảm bớt sự lạm quyền của truyền thống siêu hình học cổ điển, ông đã
nâng cao chức vị cũng như lĩnh vực của đạo đức học, có nghĩa là lý tính trong
ý nghĩa đích thực của nó phải là một lý tính tự khởi và sáng tạo trong hành
động như một thiên phú của con người: không phải lý tính thuần tuý lý thuyết)
mà chính là lý tính thực hành mới là người ban bố luật lệ thật sự cho hành
động của con người”[13]. Như vậy theo Kant, tri thức, học vấn không phải là
cái giúp cho ta thành người, tri thức khoa học là cái không giúp gì cho con
người trong việc phán xét sự thiện ác của hành vi, Hay nói cách khác con
người chính là con người không phải vì nó là thực thể biết suy nghĩ mà ngược
lại con người có thể suy nghĩ được và luôn suy nghĩ bởi vì nó là con người.
Kant khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức đối với học thức và giáo
19


dục bởi vì lý tính đạo đức không phải là cái có thể học được ở người khác hay
có thể làm cho người khác , nó là khả năng tiên thiên có sẵn ở mọi người , nó
đọc lập vối hoạt động tri thức , hoạt động nhận thức của con người .
Con người khi sống trong thế giới hiện thực luôn bị chi phối bởi các
quy luật nhân quả , tất yếu nên con người chỉ có tự do theo nghĩa tương đối.
Nhưng về mặt bản chất con người là một thực thể tự do, vì vậy tinh thần và lý

tính con người luôn hướng tới tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kant cho rằng con
người hoàn toàn có thể hy vọng đạt được điều đó nhờ vào năng lực năng lực
phán đoán tiên thiên. Khả năng phán đoán là cầu nối đưa con người đến với tự
do, dù đó là tự do tinh thần. Tinh thần tự do đó chính là tự do trong khả năng
phán đoán thẩm mỹ, nghĩa là tự do xác định, cảm nhận cái đẹp , tự do sáng tạo
nghệ thuật, tự do tưởng tượng và tự do tín ngưỡng . Như vậy , con người có
quyền hy vọng rằng , bên ngoài thế giới mà nó đang sống còn tồn tại một thế
giới ở đó con người sẽ có tự do theo nghĩa chân chính của từ này. Vấn đề này
được Kant giải quyết trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán .
Có thể thấy về mặt phương pháp, Kant đã bắt đầu một cách nhìn khác về
chất so với các nhà triết học trước ông, nhìn bất luận đối tượng nào cũng thành
hai.Và từ cách nhìn ấy, Kant là người đã đặt ra. cho lý tính con người một giới
hạn nhận thức. Nhưng cách nhìn ấy của ông cũng mới chỉ là bắt đầu và hạn chế
của Kant là đã đặt giữa Vật tự nó và Hiện tượng luận một hố sâu ngăn cách
không thể vượt qua.Trong triết học, Kant là người chấm dứt cho phương thức
tư duy cũ và mở đầu cho phương thức tư duy mới, nhưng ông không tránh khỏi
phương pháp tư duy siêu hình. Trong cách nhìn của Kant, bất luận sự vật nào
cũng bao gồm hai mặt, nhưng là hai mặt biệt lập nhau, giữa chúng có một hố
sâu không thể vượt qua. Vì thế dẫn đến quan niệm bất khả trị cho rằng Vật tư
nó không thể nhận thức được. Vật tư nó không phải là lĩnh vực của tri thức mà
đó là lĩnh vực của đức tín thông qua lý tính thực tiễn.
Phương thức tư duy của Kant đã dẫn đến cái nhìn phi lịch sử về con
người và xã hội . Kant nhìn con người như là cái đã xong, đã sẵn vì bản chất
con người là tiên thiên, tự do con người là có sẵn , giữa con người và xã hội cô
20


×