Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Sự tham gia của cán bộ đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh vào quản lý nhà nước tại tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.28 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………../……………..

BỘ NỘI VỤ
...../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ NGUYỄN XUÂN LINH

SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TẠI TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

PHÚ YÊN - NĂM 2018

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………../……………..

BỘ NỘI VỤ
...../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ NGUYỄN XUÂN LINH


SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TẠI TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số:  60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI HUY KHIÊN

PHÚ YÊN - NĂM 2018

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số
liệu khảo sát là khách quan, do bản thân trực tiếp thực hiện. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và chưa
được công bố.
Phú Yên, tháng 10 năm 2018
Tác giả Luận văn

Lê Nguyễn Xuân Linh

iii


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành nhất

tới PGS.TS. Bùi Huy Khiên, công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia,
người thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, Phân viện Tây
Nguyên cùng các cán bộ, giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã
tạo điều kiện, nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong quá trình theo học
chuyên ngành Cao học Quản lý công tại Trường.
Trân trọng cảm ơn Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, các Sở, Ban ngành
có liên quan, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn, Ban Tổ chức Kiểm tra Tỉnh Đoàn
Phú Yên, Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy Đồng Xuân, các
anh, chị cán bộ Đoàn qua các thời kỳ, đồng nghiệp trong cơ quan Huyện
Đoàn Đồng Xuân, đã quan tâm giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác
giả hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xin được bày tỏ lòng tri ân đến gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên, chia sẻ và khích lệ tác giả trong suốt thời gian học tập và hoàn thành
Luận văn.
Phú Yên, tháng 10 năm 2018
Tác giả Luận văn

Lê Nguyễn Xuân Linh

iv


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài luận văn......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..............................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.....................................4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...............................................7
7. Kết cấu luận văn......................................................................................7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC .............................................................................................8
1.1. Các khái niệm......................................................................................8
1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước.............11
1.3. Tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước .........................................18
1.4. Nội dung tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
vào hoạt động quản lý nhà nước.................................................................20
1.5. Các yếu tố bảo đảm sự tham gia của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.......................................................29
Tiểu kết chương 1.......................................................................................33

v


Chương 2. THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH
NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN.....................................................................34
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Đoàn......................................34
2.2. Tình hình tham gia của cán bộ Đoàn ..................................................54
2.3. Đánh giá về thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn .............................74

Tiểu kết chương 2.......................................................................................80
Chương 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN .......................................81
3.1. Quan điểm tăng cường sự tham gia ....................................................81
3.2. Các giải pháp tăng cường sự tham gia ................................................83
3.3. Kiến nghị..............................................................................................100
Tiểu kết chương 3.......................................................................................102
KẾT LUẬN.................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................105
PHỤ LỤC....................................................................................................109

vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

UVBCH

Ủy viên Ban Chấp hành

UVBTV

Ủy viên Ban Thường vụ

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH


Hiện đại hóa

ĐVTN

Đoàn viên, thanh niên

NXB

Nhà xuất bản

HĐND

Hội đồng Nhân dân

LHTN

Liên hiệp Thanh niên

TNCS

Thanh niên Cộng sản

TNTP

Thiếu niên tiền phong

TTN

Thanh thiếu nhi


UBMTTQVN

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban Nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

QLNN

Quản lý nhà nước

CBCC

Cán bộ công chức

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC
Số

Nội dung

thứ tự
1.
Sơ đồ 2.1 Khái lược về cơ cấu tổ chức
2.

Bảng 2.2: Thống kê chất lượng người hưởng lương ngân sách
3.
Bảng 2.3: Cán bộ Đoàn tham gia cấp ủy
v

Trang
36
50
61


4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

Bảng 2.4: Cán bộ Đoàn tham gia Hội đồng Nhân dân
Phụ lục 1: Mẫu phiếu khảo sát số 1
Phụ lục 2: Tổng hợp kết quả khảo sát số 1
Phụ lục 3: Mẫu phiếu khảo sát số 2
Phụ lục 4: Tổng hợp kết quả khảo sát số 2
Phụ lục 5: Mẫu phiếu khảo sát số 3
Phụ lục 6: Tổng hợp kết quả khảo sát số 3

63
109
111

114
115
116
117

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ, Người cho rằng “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” . Vì
thế, Người cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Cán bộ
là tiền vốn của đoàn thể”, “Cán bộ quyết định mọi việc” [26, tr269].
vi


Từ những luận điểm ấy, có thể thấy rõ cán bộ là một trong những vấn
đề chiến lược, quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển, yêu cầu đổi mới
và xây dựng chính phủ kiến tạo, phục vụ và giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế sâu rộng. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng đặt ra trong giai đoạn này, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có một đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ đức và tài. Song thực trạng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay năng lực và phẩm chất chưa tương xứng với yêu cầu.
Năm 1931 Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dành trọn niềm tin vào thế hệ trẻ Việt Nam, Người khẳng định:
“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên”[25, tr185]. Trước lúc đi xa,
trong bản Di chúc Người đã không quên căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách

mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết, Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Vậy nên,
“Thanh niên chính là nguyên khí của quốc gia, là vận mệnh của dân tộc" [27,
tr172].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương: “Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển
trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ,
hoài bão, xung kích, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai trò
của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách”[19, tr162-163]. Từ đây,
nhận thấy rằng vai trò của tổ chức Đoàn trong thời đại hiện nay là tổ chức
nòng cốt và phụ trách giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao lòng tự hào dân
tộc, góp phần cổ vũ thế hệ trẻ sẽ cống hiến vì một đất nước Việt Nam phát
vii


triển bền vững. Cán bộ làm công tác Đoàn sẽ là những người thực hiện tốt
nhiệm vụ trên để tổ chức Đoàn đảm đương được trọng trách của mình, do đó
chất lượng cán bộ Đoàn là một khâu hết sức quan trọng, cần có những con
người thực sự tâm huyết, có lý tưởng tốt, có uy tín cao, có trách nhiệm để
đảm đương tốt nhiệm vụ của Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giao phó.
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thể chế chính trị Nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp
(2013, sửa đổi) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”, Điều 6 Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,

Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22]. Điều
đó có nghĩa là nhân dân, trong đó có thanh niên có quyền tham gia xây dựng
Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và đề xuất với Nhà nước
nhựng vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Với đặc thù công tác mà đối tượng là thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
nên điều đương nhiên những cán bộ Đoàn sẽ là những người trẻ, khi hết tuổi
phát triển công tác mới thì đây sẽ là một nguồn cán bộ kế cận thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong tương lai thế nên chất lượng cán bộ
Đoàn là điều cần quan tâm và nâng cao chất lượng nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững đã đề ra. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng cán bộ Đoàn
không đồng đều, có hiện tượng vào tham gia công tác Đoàn nhằm làm bệ đỡ
cho bước nhảy trong tương lai, vẫn có những cán bộ Đoàn không thật sự là
“thủ lĩnh Đoàn”.
Từ những lý do trên, với tầm quan trọng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
trong hệ thống chính trị, cán bộ Đoàn đối với quá trình phát triển của tỉnh Phú
Yên nói riêng và Việt Nam nói chung, trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính
viii


Quốc gia, tác giả thực hiện luận văn “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Khoảng 20 năm trở lại đây, theo mức độ tìm hiểu của tác giả đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn về quản lý nhà nước về công
tác thanh niên, có một số đã xuất bản thành sách cũng có một số đề tài luận
văn, luận án đã được công bố có thể kể ra như sau:
Nguyễn Văn Trung, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (1997) “Chính
sách và quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở một số nước trên thế
giới”, đã trình bày vấn đề về chính sách thanh niên và tổ chức bộ máy cơ

quan quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở một số nước.
Lê Văn Cầu (1999) trong Luận án Tiến sĩ “Đổi mới đội ngũ cán bộ
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp huyện trong điều kiện hiện nay
(qua thực tế một số tỉnh Miền Trung)”, hay tác giả Nguyễn Thọ Ánh (2004)
trong bài viết Đổi mới công tác đào tạo cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
đăng trên tạp chí xây dựng Đảng số 10 đều cho rằng cần phải đổi mới công
tác đào tạo cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; cả hai tác giả đều đã đi sâu
phân tích và tổng kết thực tiễn đội ngũ cán bộ Đoàn nói chung, cấp huyện nói
riêng. Trên cơ sở thực tiễn, các tác giả đã đề xuất phương hướng và những
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn trong thời
kỳ mới. Các giải pháp của hai tác giả trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Vũ Trọng Kim, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999) trong “Quản
lý nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới”, đã trình bày kết quả
nghiên cứu về tình hình thanh niên về công tác thanh niên, chỉ ra một số nội
dung, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong
thời kỳ mới.
Đào Ngọc Dung (2005), trong đề tài luận văn thạc sĩ “Sự tham gia của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh
niên”, đề tài đã phân tích những tồn tại, hạn chế của tổ chức Đoàn TNCS Hồ
ix


Chí Minh trong việc tham gia quản lý nhà nước đồng thời đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao sự hiệu quả tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên, tạo sự chuyển biến tích
cực về tình hình thanh niên về công tác thanh niên qua đó phát huy tiềm năng to
lớn của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Doãn Đức Hảo (2009) trong Luận văn Thạc sĩ Chính trị học “Xây dựng
đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở hiện nay” đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung
về đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở và nêu những định hướng đổi mới hoạt động

của tổ chức Đoàn cơ sở trong tình hình hiện nay. Qua đó chỉ ra những mặt
mạnh, mặt yếu, nguyên nhân thực trạng và rút ra bài học kinh nghiệm; dự báo
tình hình công tác Đoàn và phong trào TTN ở cấp cơ sở và đề xuất các giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở.
Lê Thị Thanh Bích (2016) trong Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng Bí thư
Đoàn cấp xã ở tỉnh Phú Yên hiêṇ nay” dựa trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận
về chất lượng Bí thư Đoàn cấp xã, đánh giá thực trạng chất lượng Bí thư
Đoàn cấp xã trên địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ Bí thư Đoàn cấp xã trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu
cầu của công tác Đoàn và phong trào TTN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, phù hợp với đặc thù địa phương ở một tỉnh duyên hải miền Trung như
Phú Yên. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng trong việc xem xét chất lượng
cán bộ Đoàn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh nói riêng và công tác tham gia quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
nói chung.
Dựa trên cơ sở những nghiên cứu về công tác thanh niên, cán bộ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh đã được công bố nói trên, tác giả nhận thấy rằng với vai
trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác quản lý nhà nước ngày càng
quan trọng trong đó vai trò của cán bộ trẻ (cán bộ Đoàn hoặc cán bộ Đoàn
viên trẻ) tham gia ngày càng tích cực vào công tác quản lý nhà nước và sẽ là
động lực để phát triển chính phủ điện tử, đẩy mạnh công tác tham gia vào thời
x


đại công nghệ 4.0 của nước ta nói chung và phát triển tỉnh Phú Yên nói riêng.
Đó là động lực, cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để tác giả bắt tay vào
nghiên cứu đề tài “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong
quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên”
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước và trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn vào hoạt động quản
lý nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán
bộ Đoàn vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào
hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại
tỉnh Phú Yên từ năm 2012 đến nay.
xi


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác Đoàn Thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích để lý giải tính cấp thiết và ý
nghĩa mà đề tài nghiên cứu đặt ra trong sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú
Yên. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn vào
hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên, phân tích nguyên nhân của
những hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp và kiến nghị.
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm lược nội dung sau mỗi
phần phân tích, đánh giá. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn
đề, tóm lược nội dung của từng mục và các kết luận từng chương của luận văn.
5.2.2 Phương pháp thống kê
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê để thống kê các số liệu về
thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào
hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
5.2.3 Phương pháp điều tra xã hội học
Tác giả luận văn đã xây dựng bảng câu hỏi và tiến hành khảo sát bằng
phiếu hỏi ý kiến đối với cán bộ lãnh đạo tỉnh, huyện, các sở, ban, ngành (phát
ra 15 phiếu, thu lại 15 phiếu) và Ủy viên Ban chấp hành Tỉnh đoàn Phú Yên
(phát ra 26 phiếu, thu lại 26 phiếu). Dựa trên kết quả điều tra xã hội học và
các số liệu của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của tỉnh, luận văn
đưa ra kết luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:
xii


- Luận văn phân tích làm rõ cơ sở lý luận về vai trò tham gia của cán bộ

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý
nhà nước.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý nhà
nước tại tỉnh Phú Yên trong những năm vừa qua.
- Luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý
nhà nước tại tỉnh Phú Yên trong thời gian tới. Nếu thực hiện đồng bộ các giải
pháp này sẽ tăng cường và nâng cao chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn vào
hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho cán bộ Đoàn các cấp và cán bộ,
công chức nhà nước của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.
Chương 2: Thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.

xiii


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm thanh niên
Theo từ điển Tiếng Việt: “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi
trưởng thành”[34, tr871]. Khái niệm này bao gồm hai ý: thanh niên là người
có độ tuổi còn trẻ và đang trưởng thành. Thanh niên có thể được hiểu là một
nhóm nhân khẩu – xã hội đặc thù, bao gồm những người trong một độ tuổi
nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có
mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và
giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai của xã hội. Điều này cũng
có nghĩa: Thanh niên không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội
đặc thù, có độ tuổi nhất định, có những đặc điểm đặc trưng khác với các lứa
tuổi khác về tâm lý, sinh lý, có tâm tư, nguyện vọng, có nhu cầu và hoài bão,
khát vọng theo lứa tuổi và giới.
Theo Luật Thanh niên năm 2005 tại điều 1 quy định: “Thanh niên là
công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi” [35].
1.1.2. Khái niệm công tác thanh niên
Theo từ điển Tiếng Việt thì công tác được hiểu là “công việc của nhà
nước, của đoàn thể” hoặc “thực hiện công việc của nhà nước, của đoàn thể”
[34, tr458]. Như vậy, công tác thanh niên có thể được hiểu là công tác của nhà
nước, của đoàn thể hay thực hiện công việc của nhà nước, đoàn thể về thanh
niên. Khái niệm này đúng, tuy nhiên chưa phản ánh được tính mục đích của
công tác thanh niên. Tại Việt Nam, công tác thanh niên là một bộ phận quan
trọng trong công tác quần chúng, bao gồm toàn bộ những hoạt động của
Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng và tạo
xiv


điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng thành, phát huy mọi tiềm năng của
lực lượng thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy,
cũng có thể hiểu công tác thanh niên là sự tác động tổng hợp của các chủ thể
xã hội và một đối tượng cụ thể là thanh niên theo những mục tiêu xác định.

Từ những phân tích trên đây, công tác thanh niên được hiểu là hoạt
động có mục đích của tổ chức tác động vào đối tượng thanh niên nhằm giáo
dục, bồi dưỡng, định hướng và phát huy thanh niên, đáp ứng những đòi hỏi
nào đó của thanh niên và của xã hội. Công tác thanh niên là một hoạt động xã
hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh
niên, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển của thanh niên và yêu cầu
phát triển của xã hội.
1.1.3. Khái niệm công tác Đoàn
Công tác Đoàn là tổng thể các mặt hoạt động của Đoàn, do cấp bộ
Đoàn tổ chức, có tác động đến các đối tượng thanh thiếu nhi, nhằm mục tiêu
là hình thành lý tưởng chính trị cho thanh niên (tức là mục tiêu chính trị) và
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội của thanh niên, đáp ứng nhu cầu xã hội
của xã hội (tức là mục đích xã hội), góp phần giáo dục thanh niên trở thành
những công dân tốt, những người đoàn viên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh ưu tú và phát triển thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Công
tác Đoàn do Đảng lãnh đạo, là một bộ phận quan trọng của công tác Đảng.
Quan hệ công tác thanh niên và công tác Đoàn: Có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Công tác Đoàn là một bộ
phận quan trọng của công tác thanh niên, thực chất, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác Đoàn trở thành nồng cốt trong công tác thanh niên.
1.1.4. Khái niệm về cán bộ Đoàn
Quy chế cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh do Ban Bí thư Trung ương
Đảng ban hành đã quy định cán bộ Đoàn là: Những người giữ chức danh Bí
thư chi đoàn, Phó bí thư, Bí thư Đoàn cấp cơ sở trở lên; Những người làm
việc trong các cơ quan chuyên trách của Đoàn và trực tiếp làm công tác Đoàn,
xv


Hội, Đội, phong trào TTN từ cấp huyện và tương đương trở lên; Trợ lý thanh
niên, cán bộ Ban thanh niên trong Quân đội nhân dân; ủy viên Ban công tác

thanh niên các cấp trong Công an nhân dân; Cán bộ Đoàn chuyên trách là
những người được hưởng lương để chuyên làm công tác Đoàn, Hội, Đội,
phong trào TTN.
1.1.5. Khái niệm về quản lý nhà nước
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của
cả bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà
nước là hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục
tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói
chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính
chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ
công tác nội bộ của mình, chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát
nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật
cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ… Quản lý nhà nước
theo nghĩa hẹp còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý, được sử dụng các
quyền lực nhà nước như lập pháp hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong đó, QLNN mang tính quyền lực đặc biệt là
tính tổ chức cao, và có mục tiêu chiến lược, chương trình kế hoạch để thực
hiện mục tiêu, hơn cả là QLNN ở Việt Nam mang nguyên tắc tập trung dân
chủ. QLNN không có sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý mà nó luôn đảm bảo tính liên tục, ổn định trong tổ chức [23, tr185].
xvi


1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước

Việt Nam về vai trò của thanh niên và sự tham gia của Đoàn thanh niên
vào hoạt động quản lý nhà nước
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và sự tham
gia của Đoàn thanh niên vào hoạt động quản lý nhà nước
1.2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và công tác
thanh niên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là hệ
thống tư duy, quan điểm lý luận của người về những vấn đề quan trọng: Nhìn
nhận, đánh giá vai trò, vị trí của thanh niên trong tiến trình lịch sử qua các
thời kỳ cách mạng; đường lối nội dung bồi dưỡng, giáo dục – đào tạo thanh
niên thành lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc nhiệm
vụ công tác thanh niên của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là của Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, đội dự bị tin cậy của Đảng. Ngay từ khi đất nước còn
trong đêm đen nô lệ, Người đã nêu tư tưởng: “Thức tỉnh thanh niên để đi đến
thức tỉnh dân tộc”[27, tr82], vào những năm đầu khi nước ta giành được độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh
niên”[27, tr275]. Người cho rằng sự phát triển trong tương lai của đất nước và
tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay thanh thiếu nhi. Vì thế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “thanh niên phải tham gia ý kiến vào công việc của
chính phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện từ bây giờ để sau
này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác những việc trọng đại của nước
nhà”[25, tr29].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của thanh niên trên cả hai bình
diện xã hội và mối quan hệ kết nối quá khứ với tương là không thể tách rời
nhau: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”[26, tr315].
xvii



Vai trò này vô cùng quan trọng quyết định vận mệnh dân tộc và giai cấp công
nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát
triển và toàn diện. Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải tránh thái độ thành
kiến, hẹp hòi, bảo thủ, cô độc đối với thanh niên. Bởi theo người, thanh niên
sống trong điều kiện mới tất yếu có những nhu cầu, lợi ích khác với cha, anh
họ, không nên xem xét thanh niên một cách cứng nhắc, trước sao nay vậy.
Người nói: “cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của thanh niên và
giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực”[26, tr312].
Nội dung bao quát của công tác thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là hình thành “lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa
chuyên”[26, tr489]. “Hồng” theo tư tưởng của Người là “quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”; còn
“Chuyên” là trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự.
Để thực hiện nội dung và mục đích của công tác thanh niên không có cách
nào khác là giáo dục và tổ chức thanh niên. Vấn đề quan trọng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu là phải tổ chức thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu
chung quanh Đảng. Tổ chức tập hợp thanh niên là điều kiện để giáo dục và
ngược lại phải tiến hành đào tạo, giáo dục thanh niên qua tổ chức. Phải kiên trì
xây dựng một tổ chức thanh niên cộng sản làm đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Người còn căn dặn: “Phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết nội bộ
thật chặt chẽ và phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên”[27, tr165].
Theo Người, củng cố tổ chức đoàn là điều kiện tiên quyết để mở rộng mặt
trận đoàn kết tập hợp thanh niên. Nhưng muốn củng cố tổ chức đoàn thì trước
hết phải “đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ” để thống nhất ý chí và hành động
trong nội bộ Đoàn, làm cho tổ chức Đoàn thật sự là tổ chức của những thanh
niên tiên tiến, có lý tưởng cách mạng và phấn đấu kiên định vì lý tưởng đó.
Trong công tác xây dựng đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý về việc phải
xviii



phát triển đoàn viên về số lượng đồng thời phải coi trọng việc nâng cao chất
lượng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn phải ra sức
đoàn kết, tập hợp thanh niên thành một mặt trận rộng lớn. Theo Người, đoàn
kết tập hợp thanh niên là mặt công tác lớn, một nhiệm vụ rất quan trọng của
Đoàn. Người yêu cầu tổ chức Đoàn phải nghiên cứu tìm ra những hình thức
và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng
rãi và vững chắc. Các hình thức và phương pháp đó vừa thu hút rộng rãi thanh
niên tham gia nhưng phải được định hướng vững chắc, nghĩa là có mục tiêu
phấn đấu rõ ràng, có tính ổn định và triển vọng phát triển.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là
sự tổng kết lý luận và thực tiễn được nâng lên tầm cao qua các thời kỳ cách
mạng, đang và sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng, tổ chức
thanh niên thành lực lượng cách mạng, phát huy mọi tiềm năng to lớn của
thanh niên vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
vì hạnh phúc, tương lai tương sáng của tuổi trẻ.
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tham gia của Đoàn thanh niên
vào hoạt động quản lý nhà nước
Đoàn thanh niên có nhiệm vụ phải quan tâm, chăm sóc, giáo dục và
quản lý thanh niên đồng thời tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già:
Người dạy: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên
già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [26,
tr315]. Sự phát triển của đất nước, dân tộc trong tương lai nằm trong tay thanh
thiếu nhi do đó vai trò “Dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” là vô cùng quan
trọng, quyết định vận mệnh của dân tộc và vận mệnh của giai cấp công nhân.
Bên cạnh đó, “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên
già” phản ánh một tất yếu trong lịch sử không thể tránh khỏi, đó là sự bàn
giao thế hệ. Mỗi thế hệ cách mạng chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của
xix



mình trong một chặng đường nhất định. Thế hệ đó tất yếu phải được thế hệ đi
sau tiếp bước và dần dần thay thế.
Công tác thanh niên “Phải liên hệ với lực lượng của chính phủ”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của Nhà nước trong công tác thanh
niên. Ngay sau Cách mạng Tháng tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ thanh
niên rồi Nha thanh niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ luôn
nhắc nhở các Bộ, ngành của Chính phủ ban hành những chính sách nhằm giải
quyết các vấn đề thuộc lợi ích chính đáng của thanh niên. Sự tăng cường quản
lý nhà nước về thanh niên luôn luôn cần thiết, đòi hỏi sự tham gia của các cấp
chính quyền, các tổ chức, đặc biệt là của Đoàn thanh niên cộng sản với trách
nhiệm là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên.
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của cán
bộ Đoàn và Đoàn Thanh niên trong hoạt động quản lý nhà nước
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng về vai trò của cán bộ Đoàn và Đoàn
Thanh niên trong hoạt động quản lý nhà nước
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đặt niềm tin vào thanh niên,
phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên, để thanh niên
thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để phát huy tiềm năng to lớn
đó, Đảng ta luôn luôn chú ý tới việc giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện thế hệ
thanh niên để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng cao đẹp, có ý
thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khỏe, lao động giỏi, sống có
văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Vì
thế, công tác thanh niên luôn được xác định là nhiệm vụ ưu tiên thực hiện của
Đảng và cả hệ thống chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn ghi nhận, đề cao vai

trò của thanh niên, đặt trọn niềm tin vào thế hệ trẻ. Lịch sử đã khẳng định vai
xx


trò và vị trí của thanh niên, thanh niên là rường cột, là tương lai của đất nước.
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết
chuyên đề quan trọng về công tác thanh niên: Ngày 9/02/1991, Bộ Chính trị
ban hành Nghị quyết số 25 – NQ/TW về “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên”, nghị quyết có tầm quan trọng đặc
biệt, là điểm khởi đầu cho đường lối đổi mới của Đảng về công tác thanh niên
thời kỳ đổi mới; Năm 1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII được ban hành đã khẳng định “Công tác thanh
niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng”, đây là bước chuyển biến có tính đột phá, căn
bản trong nhận thức, chủ trương của Đảng đối với công tác thanh niên. Tháng
7/2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25 NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nghị quyết tiếp tục
khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của thanh niên đối với tương lai của
dân tộc và tiền đồ của cách mạng Việt Nam: “Thanh niên là rường cột của
nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước…là nhân tố quyết định sự thành
bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế
và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 44)
xác định: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của
Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt
trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền
lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”[18].
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH không chỉ là yêu cầu khách quan của tình hình thanh
niên và yêu cầu phát triển của đất nước, mà còn là yêu cầu chủ quan tự thân

của Đảng với vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội. Phải  xây dựng được một
thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức và nhân cách, có tri thức, sức khoẻ
xxi


và tư duy năng động, tiếp nối được truyền thống hào hùng của cha anh đi
trước, xứng đáng là những thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định
con đường XHCN, có “tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”, góp phần đi đầu
trong thực hiện CNH, HĐH đất nước, là lực lượng hùng hậu, trung thành, kế
tục sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
1.2.2.2. Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản
lý nhà nước
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thực tế khách quan và yêu cầu của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1945, Hồ Chí Minh khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ theo
chế độ cộng hòa, điều đó có nghĩa là tất cả các cơ quan quyền lực của nhà
nước đều do dân cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, Quốc hội là cơ quan
quyền lực cao nhất do nhân dân bầu ra. Trong nhà nước Việt Nam, người dân
là người làm chủ, có quyền cao nhất và cái quyền đó được người dân thực
hiện trực tiếp thông qua việc bầu cử, giám sát, bãi nhiệm, miễn nhiệm các cơ
quan dân cử; lập các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình
tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức
chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, có trách nhiệm tham gia quản lý
nhà nước để thanh niên có điều kiện tốt nhất thực hiện quyền dân chủ của
mình.
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thể chế chính trị Nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp
(2013, sửa đổi) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì

Nhân dân”, Điều 6 Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22]. Điều
đó có nghĩa là nhân dân, trong đó có thanh niên có quyền tham gia xây dựng
xxii


Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và đề xuất với Nhà nước
nhựng vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại điều 28, Hiến
pháp (2013, sửa đổi) “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của
cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia
quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản
hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”[22]. Điều đó cũng có nghĩa là với tư cách
là công dân, thanh niên có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Thanh
niên thực hiện và phát huy quyền dân chủ của mình thông qua hai hình thức
cơ bản là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là mọi thanh niên có quyền tham gia bình đẳng và trực
tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước thông qua việc đóng góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật và thực hiện chính sách, pháp luật; tham gia giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân, tham
gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội … theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trực tiếp của
thanh niên còn thể hiện ở quyền làm chủ thông qua các hình thức tự quản.
Trong tính đặc thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam, thanh niên còn
tham gia hoạt động quản lý nhà nước thông qua cơ chế dân chủ đại diện, thông
qua tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Thông qua hình thức dân chủ đại diện
này, ý chí, nguyện vọng chính đáng của thanh niên được phản ánh đến các cấp,
các ngành để giải quyết. Cũng thông qua đó, phương châm “Dân biết, Dân bàn,
Dân làm, Dân kiểm tra” được thực thi ở cơ sở.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được Đảng xác định là đội dự bị tin cậy của
Đảng, là tổ chức đại diện cho quyền lợi của thanh niên. Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh cũng được Nhà nước xác định trong Hiến pháp là bộ phận của hệ thống
chính trị. Tại điều 9, Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Công đoàn Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã
xxiii


×